Tóm tắt Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU. 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC

TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ

CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM

QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ . 7

1.1 Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài

liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền . 7

1.1.1 Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ

của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền . 7

1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng

cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền .13

1.2 Cơ sở của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ

của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền .15

1.3 Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung

cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm

quyền trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.25

1.4 Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá

nhân, cơ quan, tổ chức theo pháp luật tố tụng dân sự của một

số nước trên thế giới .36

KẾT LUẬN CHưƠNG 1 .41

Chương 2: NỘI DUNG NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG

CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ

QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN THEO PHÁP

LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH.42

2.1 Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

trong việc cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của

đương sự, Toà án, Viện kiểm sát .422

2.1.1 Xác định các loại tài liệu, chứng cứ mà các cá nhân, cơ quan,

tổ chức có thẩm quyền có trách nhiệm cung cấp trong các vụ

việc dân sự.43

2.1.2. Về phạm vi trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá

nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền .55

2.2 Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đúng thời hạn theo yêu

cầu của đương sự, Toà án, Viện kiểm sát .58

2.3 Trách nhiệm pháp lý của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm

quyền trong việc không cung cấp hoặc cung cấp không đầy

đủ, không đúng thời hạn các tài liệu, chứng cứ.65

KẾT LUẬN CHưƠNG 2 .74

Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TRÁCH

NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ

NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN VÀ

KIẾN NGHỊ.76

3.1 Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,

chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền .76

3.2 Một số kiến nghị về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu,

chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong

tố tụng dân sự.100

3.2.1 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc trách nhiệm

cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có

thẩm quyền .101

3.2.2. Kiến nghị về thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài

liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền .106

KẾT LUẬN CHưƠNG 3 .112

KẾT LUẬN CHUNG.113

pdf26 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 507 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đây là công trình đầu tiên tiếp cận nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này ở cấp độ thạc sỹ. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. - Dựa trên quan điểm, quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan của sự vật hiện tƣợng, xem xét vấn đề một cách một cách toàn diện. - Sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chuyên ngành nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề dƣới góc độ pháp luật nhƣ phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh. 7 5. Đóng góp của đề tài Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự - có thể coi là công trình đầu tiên tiếp cận nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này ở cấp độ thạc sỹ, cụ thể là: Thứ nhất: Lần đầu tiên nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về cơ sở lý luận cũng nhƣ thực tiễn từ khái niệm, ý nghĩa, cơ sở hình thành và lƣợc sử phát triển của nguyên tắc, làm bật bản chất và trọng tâm của vấn đề nghiên cứu. Luận văn cũng đã tiếp cận và làm rõ đƣợc trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp đầy đủ, đúng thời hạn tài liệu, chứng cứ mà mình đang quản lý, lƣu giữ, đồng thời làm rõ các trách nhiệm pháp lý có thể đƣợc áp dụng khi cá nhân, cơ quan, tổ chức không thực hiện trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của mình. Thứ hai: Quá trình nghiên cứu đề tài đã tìm ra đƣợc những tồn tại, bất cập trong công tác xây dựng và thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Từ đó đƣa ra những đề xuất, kiến nghị để góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng nhƣ tăng cƣờng hiệu quả thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trên thực tế. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn đƣợc kết cấu bởi 3 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự. Chương 2: Nội dung nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành. Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và kiến nghị. 8 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1 KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN 1.1.1 Khái niệm nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, xác định trách nhiệm phối hợp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lƣu giữ, quản lý chứng cứ, tài liệu trong việc cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ việc dân sự khi có yêu cầu của đƣơng sự, Toà án hoặc Viện kiểm sát đồng thời xác định trách nhiệm pháp lý của các chủ thể này trong trƣờng hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, kịp thời trách nhiệm của mình. 1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có ý nghĩa to lớn trƣớc hết đối với đƣơng sự, giúp đƣơng sự thực hiện đƣợc quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình, phát huy hơn nữa vai trò chủ động, tích cực của họ trong việc giải quyết tranh chấp vì lợi ích của chính mình, bên cạnh đó, giúp Toà án và Viện kiểm sát có cơ sở để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình một cách đúng đắn, kịp thời, đồng thời, góp phần nâng cao trách nhiệm phối hợp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết vụ việc dân sự. 1.2 CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đƣợc xây dựng trên cơ sở chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng về hoàn thiện pháp luật và cải cách tƣ pháp. 9 - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đƣợc xây dựng trên cơ sở mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đƣợc xây dựng trên cơ sở mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và công dân. - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đƣợc xây dựng trên cơ sở bảo đảm quyền tiếp cận công lý của đƣơng sự, tạo cơ sở pháp lý cho đƣơng sự có thể thực hiện đƣợc việc bảo vệ quyền lợi của mình. - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đƣợc thiết lập trên cơ sở nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đƣợc ghi nhận xuất phát từ cơ sở chứng cứ, tài liệu do cá nhân, cơ quan, tổ chức lƣu giữ có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc dân sự. - Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đƣợc hình thành từ yêu cầu của thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự nhằm khắc phục tình trạng án tồn đọng, kéo dài, kém hiệu quả trong hoạt động giải quyết án kiện của Toà án. 1.3 SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM - Giai đoạn từ năm 1989 trở về trƣớc: Trong giai đoạn từ 1989 trở về trƣớc, các văn bản về tố tụng dân sự đã ra đời, tuy nhiên, còn tản mạn, chƣa có tính thống nhất. Trong những văn bản này cũng đã có những quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp của các cơ quan khác trong việc cung cấp chứng cứ để đảm bảo cho quá trình giải quyết án dân sự. Tuy nhiên, những quy định này còn chƣa mang tính khái quát, nhƣng đây cũng có thể coi là cơ sở bắt nguồn cho quá trình 10 hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức sau này. - Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004: Trong giai đoạn này, pháp luật về tố tụng dân sự đã có sự ghi nhận về quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật giai đoạn này mới chỉ ghi nhận quyền yêu cầu của Toà án khi xét thấy cần thiết, mà không cho phép đƣơng sự chủ động yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp chứng cứ cho mình. Mặt khác, quy định ở giai đoạn này còn mang tính hình thức, bởi nó mới chỉ ghi nhận quyền yêu cầu của Toà án, mà chƣa quy định về trách nhiệm thực hiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan. Chỉ đến khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996 ra đời, pháp luật mới quy định trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan phải cung cấp tài liệu, chứng cứ đầy đủ và đúng thời hạn theo yêu cầu của Toà án. Và đây có thể coi là mốc khởi đầu cho quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự. - Giai đoạn từ năm 2005 trở đi: BLTTDS 2004 ra đời đã quy định đƣợc khá đầy đủ các vấn đề về tố tụng dân sự, đặc biệt bổ sung một số nguyên tắc mới, nhiều quy định trong thủ tục tố tụng dân sự cũng đƣợc quy định rõ hơn, cụ thể hơn trong phần các nguyên tắc, nhƣ nguyên tắc “trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự” đƣợc quy định tại Điều 7 BLTTDS. Theo quy định của nguyên tắc này, chủ thể có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức chứng cứ là đƣơng sự và Tòa án, tuy nhiên, chƣa quy định về trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Khắc phục hạn chế đó, khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011 có sửa đổi, bổ sung Điều 7 BLTTDS 2004. Theo đó, điều luật sửa đổi này đã bổ sung chủ thể có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ là đƣơng sự, Tòa án, Viện kiểm sát đồng thời quy định trách nhiệm pháp lý khi các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ tài liệu, chứng cứ từ chối cung cấp mà không có lý do chính 11 đáng, cung cấp không đầy đủ, kịp thời hoặc không chính xác theo yêu cầu của đƣơng sự, Tòa án, Viện kiểm sát. 1.4 NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI Việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp chứng cứ là một trong những hình thức thu thập chứng cứ trong quá trình tố tụng dân sự. Và hiện nay trên thế giới, mỗi nƣớc đều có một cách quy định riêng về cách thức cung cấp, thu thập chứng cứ, nhƣng nhìn chung có thể chia thành ba mô hình sau: - Thứ nhất, Toà án không tham gia thu thập chứng cứ ở các nƣớc theo mô hình tranh tụng; - Thứ hai, Toà án đóng vai trò chủ động, tích cực và trực tiếp thu thập chứng cứ trong mô hình thẩm xét; - Thứ ba, Toà án không thu thập nhƣng hỗ trợ đƣơng sự bằng các quyết định tƣ pháp trong mô hình kết hợp tranh tụng và thẩm xét. Tùy vào quan niệm về vai trò của Toà án và đƣơng sự trong thu thập chứng cứ với mỗi hệ thống pháp luật trên thế giới mà có quy định khác nhau về việc thu thập, cung cấp chứng cứ. Tuy nhiên, nhìn chung, có thể xuất phát từ đƣơng sự hoặc Toà án, nhƣng những hệ thống pháp luật này đều ghi nhận trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc cung cấp chứng cứ mà mình đang lƣu giữ, quản lý cho đƣơng sự hoặc Toà án. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Chƣơng 1 Luận văn đã phân tích, khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự, bao gồm: - Xây dựng đƣợc một cách đầy đủ khái niệm về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự, đồng thời làm rõ đƣợc ý nghĩa của nguyên tắc này trong hoạt động tố tụng dân sự; - Làm rõ quá trình hình thành và phát triển của các quy định về trách 12 nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam; - Tiếp cận nghiên cứu so sánh pháp luật của một số nƣớc trên thế giới nhằm rút ra bài học kinh nghiệm lập pháp có giá trị cho việc kiến nghị, sửa đổi, hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự. Chƣơng 2 NỘI DUNG NGUYÊN TẮC TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH 2.1 TRÁCH NHIỆM CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG VIỆC CUNG CẤP ĐẦY ĐỦ TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ THEO YÊU CẦU CỦA ĐƢƠNG SỰ, TOÀ ÁN, VIỆN KIỂM SÁT Liên quan đến trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức chúng ta cần làm rõ hai nội dung là xác định các loại tài liệu, chứng cứ có thể đƣợc yêu cầu cung cấp trong các loại vụ việc dân sự và phạm vi trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc cung cấp các tài liệu, chứng cứ. 2.1.1 Xác định các loại tài liệu, chứng cứ mà các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có trách nhiệm cung cấp trong các vụ việc dân sự Để làm rõ nội dung này, chúng ta cần căn cứ vào nội dung những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền dân sự của Toà án và quy định của những ngành luật khác có liên quan. Dƣới đây là một số ngành luật có liên quan cũng quy định về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. - Trong lĩnh vực pháp luật về nhà ở Liên quan đến lĩnh vực nhà ở, có thể có các tranh chấp về quyền sở 13 hữu tài sản là nhà ở hoặc tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà. Khi thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu, các chủ thể phải đăng ký tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, và hồ sơ sẽ đƣợc lƣu trữ tại những cơ quan này. Đây có thể là những giấy tờ giúp đƣơng sự làm rõ đƣợc những tranh chấp về quyền sở hữu nhà hoặc tranh chấp về các hợp đồng dân sự liên quan đến nhà ở. Và cơ quan có thẩm quyền đang lƣu giữ những tài liệu, chứng cứ này có trách nhiệm phải cung cấp cho đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát khi có yêu cầu. Cụ thể, Khoản 3 Điều 139 Luật nhà ở 2005 có quy định: “Cơ quan quản lý hồ sơ nhà ở có trách nhiệm cung cấp các thông tin về hồ sơ nhà ở khi tổ chức, cá nhân có yêu cầu. Người yêu cầu cung cấp thông tin phải nộp một khoản phí cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật”. - Trong lĩnh vực pháp luật về đất đai Trong trƣờng hợp có tranh chấp dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, những thông tin về đất đai do cơ quan có thẩm quyền lƣu giữ, quản lý có thể là chứng cứ giúp các đƣơng sự chứng minh cho yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của mình. Pháp luật về đất đai có ghi nhận các hình thức để cho cá nhân, tổ chức có thể thu thập thông tin về đất đai và quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền (Mục VI Thông tƣ số 09/2007/TT-BTNMT ngày 2/8/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng hƣớng dẫn việc lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính). Những thông tin này có thể sẽ là chứng cứ có giá trị chứng minh cho những yêu cầu hay phản đối yêu cầu của các đƣơng sự. - Trong lĩnh vực pháp luật về doanh nghiệp Trong trƣờng hợp một bên đƣơng sự là tổ chức thì những thông tin liên quan đến nội dung đăng ký kinh doanh nhƣ trụ sở của tổ chức, lĩnh vực hoạt động của tổ chức đó có thể có ý nghĩa trong việc xác định Toà án có thẩm quyền giải quyết cũng nhƣ có ý nghĩa trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Khi đó, phía chủ thể bên kia có thể yêu cầu cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cung cấp thông tin về đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật (Khoản 2,3 điều 27 Luật doanh nghiệp 2005). - Trong lĩnh vực công chứng 14 Theo quy định của Luật Công chứng 2006, đƣơng sự (là bên đã tham gia hợp đồng, giao dịch hoặc là ngƣời có quyền, nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng, giao dịch đã đƣợc công chứng) và Toà án, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng cung cấp hồ sơ công chứng cho mình để cung cấp khi nhận đƣợc yêu cầu theo những quy định đã nêu ở trên. Theo đó, hồ sơ công chứng đƣợc quy định tại Điều 53 Luật công chứng, bao gồm: phiếu yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch, bản chính văn bản công chứng, bản sao các giấy tờ mà người yêu cầu công chứng đã nộp, các giấy tờ xác minh, giám định và giấy tờ liên quan khác. - Trong lĩnh vực y tế Liên quan đến lĩnh vực y tế, những thông tin về hồ sơ bệnh án bao gồm: các tài liệu, thông tin liên quan đến ngƣời bệnh và quá trình khám bệnh, chữa bệnh có thể là những thông tin có giá trị chứng cứ chứng minh cho những tổn thất về sức khỏe đối với ngƣời bệnh. Trong trƣờng hợp này, đƣơng sự, Tòa án, Viện kiểm sát có thể yêu cầu cơ sở khám chữa bệnh cung cấp hồ sơ bệnh án cho mình theo quy định tại khoản 1 Điều 11, khoản 4 Điều 59 Luật khám bệnh, chữa bệnh 2009. - Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, những thông tin về vấn đề chuyên môn có thể là căn cứ để giải quyết các tranh chấp có liên quan. Và cơ quan quản lý về sở hữu trí tuệ có trách nhiệm phải cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ khi có yêu cầu. Cụ thể, mục C Thông tƣ liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Toà án nhân dân có quy định về sự phối hợp trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ: 1. Khi có vấn đề chuyên môn trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ mà Toà án đã có văn bản yêu cầu trao đổi ý kiến, thì Cục Bản quyền tác giả, Sở Văn hoá - Thông tin, Cục Sở hữu trí tuệ, Sở Khoa học và Công nghệ, Trung tâm Internet Việt Nam có trách nhiệm trả lời về các vấn đề mà Toà án yêu cầu - Trong lĩnh vực hoạt động của các tổ chức tín dụng 15 Tranh chấp dân sự liên quan đến hoạt động của tổ chức tín dụng có thể là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản giữa các bên khi một trong các bên có hoạt động gửi tiền qua ngân hàng. Khi đó những thông tin liên quan đến tài khoản, tài sản gửi và hoạt động của khách hàng có thể có giá trị chứng cứ có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Nếu khách hàng là đƣơng sự trong các vụ việc dân sự có liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi tại các tổ chức tín dụng thì họ có thể yêu cầu tổ chức tín dụng cung cấp thông tin. Những tổ chức này có trách nhiệm phải cung cấp thông tin khi nhận đƣợc yêu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng cũng có trách nhiệm cung cấp thông tin khi nhận đƣợc yêu cầu bằng văn bản của Toà án, Viện kiểm sát để phục vụ cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật (Khoản 3 Điều 14 Luật tổ chức tín dụng 2010). 2.1.2. Về phạm vi trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Theo nội dung quy định tại Điều 7 BLTTDS đã đƣợc sửa đổi, bổ sung, cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lƣu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát. Điều luật này cũng quy định: “trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ”. Nhƣng trƣờng hợp nào là “không cung cấp đƣợc” thì pháp luật lại chƣa có quy định cụ thể. Và cho đến nay vẫn chƣa có một văn bản nào quy định loại trừ những tài liệu, chứng cứ nào không phải cung cấp khi nhận đƣợc yêu cầu kể cả những tài liệu, chứng cứ liên quan đến bí mật nhà nƣớc, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tƣ của cá nhân. Bên cạnh đó, căn cứ vào Điều 97 BLTTDS về công bố và sử dụng chứng cứ, chúng ta có thể hiểu những tài liệu, chứng cứ liên quan đến bí mật nhà nƣớc, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tƣ của cá nhân vẫn đƣợc giao nộp cho Tòa án để có cơ sở chứng minh cho yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của đƣơng sự là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, chứng cứ đó sẽ không đƣợc đƣa ra công bố công khai. 16 2.2 TRÁCH NHIỆM CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG VIỆC CUNG CẤP TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ ĐÚNG THỜI HẠN THEO YÊU CẦU CỦA ĐƢƠNG SỰ, TOÀ ÁN, VIỆN KIỂM SÁT Theo Điều 7 BLTTDS sửa đổi, bổ sung, “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lƣu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát” Nguyên tắc này đã đƣợc cụ thể hóa tại Điều 94: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Toà án, Viện kiểm sát trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu” Nhƣ vậy, theo quy định này, thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ đƣợc áp dụng khi có yêu cầu của Toà án và Viện kiểm sát. Thời hạn này là 15 ngày, kể từ ngày nhận đƣợc yêu cầu của Toà án và Viện kiểm sát. Cụ thể: - Đối với Toà án, Toà án chỉ có thể yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ cho mình khi đƣơng sự không tự mình thu thập đƣợc và có đơn yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ. Khi xét thấy yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ của đƣơng sự là có căn cứ, thì Thẩm phán ra quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ. Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ phải nêu rõ thời hạn thực hiện việc cung cấp chứng cứ. Và thời hạn này đƣợc quy định tại khoản 2 Điều 94 BLTTDS sửa đổi, bổ sung là 15 ngày kể từ ngày nhận đƣợc yêu cầu. - Đối với Viện kiểm sát, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đƣơng sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng trong hai trƣờng hợp: + Viện kiểm sát thu thập hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Trƣờng hợp này đƣợc hiểu là Viện kiểm sát yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám 17 đốc thẩm, tái thẩm. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đó, Viện kiểm sát sẽ quyết định có kháng nghị hay không. + Sau khi đã kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, Viện kiểm sát có quyền thu thập hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo vệ quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Dựa vào tài liệu, chứng cứ đƣợc cung cấp mà Viện kiểm sát có thể thuyết phục Toà án chấp nhận quan điểm kháng nghị của mình. Yêu cầu của Viện kiểm sát phải thể hiện bằng văn bản, nêu rõ hồ sơ, tài liệu, vật chứng cần cung cấp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức đƣợc yêu cầu có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đƣợc yêu cầu. Trƣờng hợp không cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát thì phải gửi văn bản cho Viện kiểm sát nêu rõ lý do. 2.3 TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁ NHÂN, CƠ QUAN, TỔ CHỨC CÓ THẨM QUYỀN TRONG VIỆC KHÔNG CUNG CẤP HOẶC CUNG CẤP KHÔNG ĐẦY ĐỦ, KHÔNG ĐÚNG THỜI HẠN CÁC TÀI LIỆU, CHỨNG CỨ Việc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền không thực hiện hoặc thực hiện không đúng trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ sẽ làm ảnh hƣởng đến hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của ngƣời tiến hành tố tụng. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, đó đƣợc coi là một trong những hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự. Và ngƣời thực hiện hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự tùy theo từng mức độ vi phạm mà có những biện pháp xử lý khác nhau. Biểu hiện của hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang quản lý, lƣu giữ tài liệu, chứng cứ có thể là không thi hành quyết định của Toà án về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Toà án, hoặc từ chối cung cấp tài liệu, chứng cứ mà không có lý do chính đáng; cung cấp tài liệu, chứng cứ không đầy đủ, không chính xác theo yêu cầu của đƣơng sự, Toà án, Viện kiểm sát. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đang lƣu giữ, quản lý tài 18 liệu, chứng cứ có một trong những hành vi nói trên sẽ bị coi là hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự và sẽ bị áp dụng biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Biện pháp xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự là biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc đƣợc quy định trong BLTTDS và do Toà án quyết định đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cản trở hoạt động tố tụng dân sự. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lƣu giữ tài liệu, chứng cứ nếu có hành vi cản trở hoạt động tố tụng thì có thể bị áp dụng các biện pháp phạt cảnh cáo, phạt tiền, cƣỡng chế thi hành theo quy định tại Điều 385 và 389 BLTTDS, đối với cá nhân, ngƣời đứng đầu cơ quan, tổ chức tùy theo mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 Chƣơng 2 của Luận văn đã tập trung vào nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về nội dung nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong tố tụng dân sự, tiếp cận và làm rõ đƣợc trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp đầy đủ, đúng thời hạn tài liệu, chứng cứ mà mình đang quản lý, lƣu giữ, đồng thời làm rõ các trách nhiệm pháp lý có thể đƣợc áp dụng khi cá nhân, cơ quan, tổ chức không thực hiện trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của mình. Bên cạnh việc nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, Luận văn đã có sự nghiên cứu, tìm hiểu quy định của một số lĩnh vực có liên quan để làm rõ trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tuy nhiên, trong phạm vi Chƣơng 2 này tác giả chỉ nghiên cứu quy định của pháp luật trong một s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflds_ngu_thi_nhu_hoa_nguyen_tac_trach_nhiem_cung_cap_chung_cu_cua_ca_nhan_co_quan_to_chwusc_trong_to.pdf
Tài liệu liên quan