Vai trò của doanh nghiệp, nhà nước, thương vụ ở nước ngoài trong việc thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU 3

I. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu 3

II. Vị trí của ngành dệt may trên thị trường thế giới 5

CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH KINH DOANH HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM 7

I. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 7

II. Thị trường hàng dệt may của Việt Nam 8

III. Đánh giá tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang một số thị trường chính 10

CHƯƠNG III. VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP, NHÀ NỨƠC, THƯƠNG VỤ Ở NƯỚC NGOÀI TRONG VIỆC XÚC TIẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY 12

I. Vai trò của Doanh nghiệp 12

II. Vai trò của Nhà nước 13

CHƯƠNG IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HÀNG DỆT MAY SANG NHỮNG THỊ TRƯỜNG CHỦ YẾU 14

KẾT LUẬN 17

 

 

 

doc19 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1217 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của doanh nghiệp, nhà nước, thương vụ ở nước ngoài trong việc thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ứơc. Việc xúc tiến hoạt động xuất khẩu ngang bằng với nhu cầu nhập khẩu của mỗi quốc gia đó ổn định và phát triển. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu còn vận động các yếu tố sản xuất, tăng nguồn thu ngoại tệ, đa dạng hoá nhu cầu tiêu dùng của người dân. Ngành dệt may đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, vừa cung cấp hàng hoá, vừa thu hút nhiều lao động, vừa mở rộng giao thương quốc tế, tạo ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu trên thị trường thế giới và cũng là ngành có lợi tức khá cao. Hiện nay ngành dệt may dần đã trở thành ngành xuất khẩu chủ lực với kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai (sau dầu thô) trong số mười mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn nhất của Việt Nam. Để ngành dệt may ổn định và phát triển trên thị trường nước ngoài thì vai trò của nhà nước, doanh nghiệp, thương vụ ở nước ngoài trong việc thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu dệt may là rất quan trọng. Đề án này trình bày “ vai trò của doanh nghiệp, nhà nước, thương vụ ở nước ngoài trong việc thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may việt nam “ trong khuôn khổ 4 chương Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu. Chương II: Tình hình kinh doanh hàng dệt may của Việt Nam. Chương III: Vai trò của doanh nghiệp, nhà nước, thương vụ ở nước ngoài trong việc thúc tiến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Chương IV: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang những thị trường chủ yếu. chương i lý luận chung về hoạt động xuất khẩu Khái niệm và vai trò của xuất khẩu. Xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận bằng cách bán sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường nước ngoài và sản phẩm hay dịch vụ đấy phải di chuyển ra khỏi biên giới của một quốc gia. Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất trong việc thúc đẩy quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực và thế giới. Hình thức kinh doanh xuất khẩu thường là hoạt động kinh tế quốc tế cơ bản của một quốc gia, nó làm tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính, cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo hệ thống cơ sở hạ tầng cho việc thúc đẩy nền kinh tế. Có hai hình thức kinh doanh xuất khẩu: Xuất khẩu hàng hoá hữu hình là xuất khẩu những mặt hàng có thể di chuyển ở một khối lượng lớn bằng các phương tiện vận tải khác nhau và xuất khẩu hàng hoá vô hình là hình thức xuất khẩu dịch vụ vẩn tảI thông tin… Nhìn từ khía cạnh khác hoạt động xuất khẩu cũng được chia ra các hình thức khác nhau như: Xuất khẩu trực tiếp là do chính các doanh nghiệp kinh doanh đảm nhận. Hình thức này có ưu điểm tạo được uy tín cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nếu hoạt động xuất khẩu diễn ra trong một thời gian dài, hơn nữa nó cũng sẽ tạo đà phát triển những ngành nghề tiềm năng của đất nước. Nhưng nhược điểm của nó là nước xuất khẩu cần phải có uy tín, đảm bảo được chất lượng của hàng hoá xuất khẩu. Xuất khẩu gián tiếp được biểu hiện là do các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tổ chức kinh doanh trung gian đảm nhận. Ưu điểm của nó là các tổ chức trung gian có thể kiếm lợi nhuận bằng uy tín và khả năng trình độ kỹ thuật của mình, vì thế mà hình thức này phù hợp với những nước tiên tiến đã phát triển và có uy tín khá lớn trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó các nước các nước đang phát triển có thể dựa vào hình thức này mà có thể thâm nhập thị trường thế giới, từ đó phát huy thế mạnh và dần tự khẳng định mình nhưng các nước xuất khẩu bị giảm lợi nhuận và phụ thuộc nhiều vào các tổ chức trung gian. Hình thức gia công xuất khẩu cũng là một trong những chiến lược phát triển kinh tế. Nó giúp các quốc gia chậm phát triển đang trong thời kỳ khủng hoảng mà muốn duy trì ngành nghề của mình. Nhưng nhược điểm của nó là các nước gia công xuất khẩu thường được hưởng lãi xuất rất thấp và kéo theo trì trệ ngành xuất khẩu nếu hình thức này diễn ra trong thời gian dài. Chúng ta khẳng định rằng hoạt động xuất khẩu có tầm quan trọng rất lớn trong hoạt động kinh tế quốc tế cơ bản của mỗi quốc gia, nó là chìa khoá mở ra những giao dịch kinh tế của mỗi quốc gia tạo nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của mỗi nước để mua máy móc thiết bị, hiện đại hoá sản xuất làm cơ sở cho nền kinh tế cất cánh. Nó có khả năng tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề cho phát triển các ngành công nghiệp khác, góp phần nâng cao sức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội. Hơn nữa nó có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển các ngành công nghiệp khác, khi xuất khẩu hàng dệt may phát triển nó sẽ cần một lượng lớn làm nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì thế sẽ tạo điều kiện để đầu tư phát triển các ngành công nghiệp này. Tại các nước đang phát triển hiện nay, công nghiệp dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn qua việc sản xuất các loại nguyên liệu dệt như bông, đay, tơ tằm và là phương tiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế tư kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, ở cá nước công nghiệp phát triển, công nghiệp dệt may đã phát triển đến trình độ cao hơn, đáp ưng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng, phong phú của người tiêu dùng.Mặt khác sự thành công về xuất khẩu trong ngành dệt may thường mở đường cho sự xuất hiện của một chiến lược phát triển định hướng xuất khẩu có cơ sở rộng hơn. Sự thát bại về xuất khẩu trong ngành này bao giờ cũng là triệu chứng của những trở ngại có tính thâm căn cố đế trong nước và là sự bất lực không phát huy được lợi thế so sánh tiềm năng. Tóm lại, đâỷ mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề cốt lõi có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước. Bên cạnh đó hoạt động xuất khẩu có thể mở rộng được các quan hệ hợp tác quốc tế hình thành được một quốc gia phát triển về cả kinh tế và văn hoá lành mạnh nhờ sự học hỏi có chọn lọc của quốc gia đó. Vị trí ngành dệt may trên thị trường thế giới. Trong giai đoạn hiện nay khi các cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang từng bước phát triển không ngừng và tạo đà phát triển cho các ngành công nghiệp của từng quốc gia mỗi ngày mỗi tiến xa hơn. Thị truờng hàng dệt may trên thế giới có những thay đổi cơ bản và có ảnh đến những quốc gia có ngành dệt may phát triển. Và các thành viên gia nhập tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) phải tuân theo các quy định ATC ( đối với nước nhập khẩu ),và được hưởng lợi ích của hiệp định ( đối với nước xuất khẩu ). Trong quá trình tự do hoá thương mại các sản phẩm dệt may thì cạnh tranh xuất khẩu giữa các nước ngày càng mở rộng quyết liệt hơn và sẽ đi đến khai thác triệt để hơn các lợi thế tạo thành sức mạnh cạnh tranh của các sản phẩm của xuất khẩu. Mặt khác nó phát triển theo cả chiều rộng ( cạnh tranh giữa các quốc gia ) và theo chiều sâu ( Cạnh tranh theo một mặt hàng, nhóm hàng ). Như vậy cạnh tranh hàng dệt may không chỉ cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu với nhau trên thị trường nhập khẩu mà nước xuất khẩu còn phải đối mặt với các nước xuất khẩu khác trong chính thị trường nội địa. Dệt may được xem là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp Việt Nam. Nó đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, ngành dệt may Việt Nam được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển khá mạnh. Thị trường luôn là vấn đề cốt lõi, có ý nghĩa quyết định tối sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Việt Nam hiện có hơn một ngàn nhà máy dệt may, thu hút trên năm mươi vạn lao động, chiếm số đông lao động trong toàn ngành công nghiệp. Ngành dệt may tuy liên tục đàu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền để sản xuất một mặt hàng như dây chuyền may sơmi, quần âu, jean, comple,... Nhưng cũng chưa đáp ứng đựơc nhu cầu xuất khẩu ngày càng cao. Xuất khẩu may tuy đạt kim ngạch cao nhưng chủ yếu lam gia công, ngành dệt may vẫn nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất của ngành dệt may hàu như hoàn toàn từ nứơc ngoài. Hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Châu phi và Trung đông đang có dấu hiệu tốt, đạt mức tăng trưởng cao: 2005 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thuộc khu vực này đạt 1,3 tỷ USD ( tăng 3% so với 2004 ). Đặt biệt riêng thị trường Châu phi tăng 80% ( đạt trên 660 triệu USD ). Nhưng nhìn chung chỉ mới khai thác phần nhỏ thị trường rộng lớn này. Để đột phá và xâm nhập mạnh hơn nữa vào hai thị trường này là cả một vấn đề không đơn giản đối với doanh nghiệp xuất khẩu may mặt Việt Nam. Thị trường hàng dệt may ở EU của Việt Nam trong những năm gần đây đã tăng dần rõ rệt, đạt khoảng 830 đến 850 triệu USD, chiếm 17% tổng kim ngạch, tăng gần 12% . Hoa Kỳ đạt 2,626 tỷ USD, chiếm 54% tổng kim ngạch, tăng 6,1%. Thị trường Nhật Bản đạt khoảng 614 đến 630 triệu USD, chiếm 13% tổng kim ngạch, tăng khoảng 17% so với năm 2004. Chương ii Tình hình kinh doanh hàng dệt may của việt nam. Tình hình xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Trong quá trình đổi mới hai mươi năm qua, dệt may là ngành công nghiệp phát triển rất nhanh. Sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may có vai trò quan trọng trong cuộc sống công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế đát nước. Tính đến đầu năm 2000, năng lực sản xuất của toàn ngành có thể sản xuất 160 nghìn tấn sợi, 800 triệu mét vải, 39 triệu sản phẩm dệt kim, 400 triệu sản phẩm may các loại và nhiều hàng dệt may khác. Ngành dệt may hiện có hơn hai triệu lao động làm việc, chiếm tổng số đông lao dộng công nghiệp của cả nước. Xuất khẩu hàng dệt may đã, đang và sẽ là ngành quang trọng hàng đàu của Việt Nam trong những năm cuối thể kỷ 20 đầu thế kỷ 21, với mức tăng trưởng cao ( 30 tới 45% ) liên tục và ổn định suốt. Trong thời gian qua tỷ trọng kim ngạch trong cơ cấu sản xuất ngày càng tăng và chíêm một tỷ lệ quan trọng. Đem lại nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp hàng năm khoảng 350 tỷ USD. Xuất khẩu hàng dệt may của VN đã tăng sau khi chủng lại một thời gian. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 450 triệu USD. Số liệu về tình hình nhập khẩu nguyên phụ liệu hàng dệt may đang tăng rất mạnh và sẽ là tín hiệu tốt cho sự tăng trưởng xuất khẩu của mặt hàng dệt may trong thời gian tới. Tỷ lệ hoàn thành hạn ngạch đạt cao, nhiều mặt hàng dệt may của VN đối mặt với việc bị ngừng thông quan khi xuất khẩu vào Mỹ trước thời điểm 31/12/2006. Thị trường hàng dệt may của Việt Nam. Thị trường EU. Châu Âu từng được mệnh danh là lục địa già nhưng lại là một khu vực thị trường rộng lớn, là nơi cung cấp các thiết bị, công nghệ hiện đại, là một trung tâm tài chính, kinh tế lớn. Với dân số đông và có GDP hơn 9000 tỷ USD, EU thực sự là một thị trường đầy tiềm năng, có mức tiêu thụ hàng dệt may lớn. Mặc dù đã được EU bỏ hạn ngạch cho Việt nam như những thành viên WTO khác nhưng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vẫn giảm sút mạnh suốt 4 tháng đầu năm 2005, mới lấy lại đà tăng trưởng từ tháng 5 năm 2005, sự suy giảm kim ngạch nhanh chóng được cải thiện. Dự kiến nếu duy trì nhịp độ tăng trưởng của tháng 5, kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2005 ước đạt 348 triệu USD, dự kiến tăng khoảng 3,6% so với cùng kỳ năm 2004 Nguyên nhân chủ yếu của sự sụt giảm trong những tháng đầu năm là do: xuất khẩu hàng dệt may của ấn Độ, Pakistan, Srilanka, Trung Quốc tăng rất mạnh (tính đến 22/6/2005, xuất khẩu của Trung Quốc tăng tới 142%). Việt Nam bị mất thị phần do sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng dệt may các nước này. Điều đó cho thấy sức cạnh tranh của dệt may Việt Nam thực sự có còn nhiều vấn đề bất cập. Thị trường Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là thị trường có nhu cầu tiêu thụ lớn về hàng dệt may ( năm 2004 tiêu thụ 67,9 tỷ USD hàng dệt, 145 tỷ USD hàng may mặc, dự kiến con sồ tương ứng năm 2009 lên đến gần 72 tỷ USD và 176 tỷ USD ), nên Hoa Kỳ đóng vai trò là thị trường lớn nhập khẩu hàng dệt may của thế giới. Sáu tháng đầu năm 2005, kim ngạch ước đạt 1,1 tỷ USD, chiếm 53,6% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sang các nước. Trong đó các mặt hàng có quản lý bằng hạng ngạch đạt 783,7 triệu USD và chiếm 71% kim ngạch xuất khẩu vào thị trường, giảm gần 10% so với cùng kỳ năm 2004. Các mặt hàng không quản lý hạn ngạch ước đạt 316 triệu USD ( như sợi, vải dệt kim, quần và áo khoác chất liệu len, găng tay, áo rét nhiều lớp và một số sản phẩm chất liệu tơ tằm và sợi thực vật) có xu hướng tăng. Trong nhóm mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch có 13 chủng loại hàng ( Cat. ) có tỷ lệ thực hiện tăng cao hơn so với cùng kỳ năm 2004 và 12 chủng loại hàng có tỷ lệ thực hiện thấp hơn so với cùng kỳ. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của sự sút giảm trên là do xuất khẩu của các nước khác đã tăng mạnh ở một số chủng loại hàng chủ lực của ta như áo thun và quần ( Cat. 338/339 và Cat. 347/348 ) hai Cat. này tỷ lệ thực hiện chỉ đạt xấp xỉ 78% so với cùng kỳ 2004- trong khi hai Cat. này lại có tỷ trọng trên 50% về số lượng và gần 70% kim ngạch trong 25 nhóm mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch. Một số thị trường khác. Nhật Bản là một cường quốc về công nghiệp dệt may song do giá nhân công tại Nhật Bản ngày càng cao, lại thiếu nhân công và đồng yên lại tăng nên từ năm 1980 Nhật Bản đã chuyển đổi chiến dịch giảm xuất trong nước và tăng nhập khẩu hàng dệt may. Ưu thế thị trường Nhật Bản là không hạn ngạch, thuế nhập khẩu thấp, địa lý gần nên hàng dệt may Việt Nam có thể cạnh tranh với các nước xuất khẩu khác. Năm tháng đầu năm 2005, xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đạt 230,8 triệu USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2004, 6 tháng đầu năm 2005 ước đạt khoảng 270 triệu USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2004. Thổ Nhĩ Kỳ cũng đạt 917 ngàn USD, ngoài ra hang dệt may Việt Nam còn có mặt trên các thị trường khác như: SNG, Đông Âu, Bắc Âu và Trung Đông, bên cạnh đó cũng còn phải kể đến các nước cùng khu vực. III. Đánh giá tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang một số thị trường chính. 1. Những thành tựu đã đạt được: Ngành dệt may Việt Nam hiện có khoảng 2000 doanh nghiệp ( 50 doanh nghiệp nhà nước, 1400 doanh nghiệp tư nhân và cổ phần, 450 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), trong đó có khoảng 90% la doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng 2 triệu lao động, góp phần tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo cho vùng nông thôn. Và trong quá trình hoạt động, tổng công ty dệt may VN đã chỉ đạo các DN tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để dần ký kết các hợp đông xuất khẩu trực tiếp ngày càng cao. Như nhà máy dệt Nam Định và công ty May 10 đã dần có uy tín và hiệu quả rõ rệt. Không những thế, năng lực sản xuất và chất lượng hàng dệt may của nứơc ta đã đứng vững và có uy tín trên các thị trường thời trang khắt khe nhất thế giới như: Pari, London, Roma, Belim, Tokyo... Cùng với việc không ngừng đổi mới công nghệ, sử dụng những loại nguyên phụ kiện và vải hợp xu thế thời trang, chất lượng hàng dệt may VN ngày nay đã đạt tiêu chuẩn quốc tế. Hàng loạt các tập đoàn tên tuổi đã vào VN đặt hàng như: Adidas, Stone, Fashion... 2. Những mặt tồn tại và nguyên nhân: Bên cạnh những thành tựu mà ngành dệt may VN đã đạt được trong những năm qua vẫn còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại nhất định. Ngành dệt may VN vẫn chưa có kế hoạch tổng thể, chiến lựơc phát triển đồng bộ, chưa được đầu tư đúng mức nên còn gặp nhiều khó khăn. Ngành dệt chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho ngành may xuất khẩu... Có thể nói nguyên nhân cơ bản của những tồn tại trên về phía chủ quan là nhìn chung các DN dệt may VN còn thiếu kinh nghiệm thương trường, hiểu biết luật lệ, văn hoá kinh doanh của các thị trường còn hạn chế. Mặt khác Nhà nước cũng chưa có những chính sách hổ trợ tích cực, hiệu quả trong vịêc giúp DN về thông tin kinh tế, xuc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, nghiên cứu giảm thuế các mặt hàng là nguyên liệu đàu vào để các DN hạ giá thành sản phẩm và tự hổ trợ xuất khẩu. Chính sách xuất khẩu chưa đạt được tầm mong muốn. Vậy để khắc phục những khó khăn tồn tại, nâng cao năng lực cạnh tranh, sức cạnh tranh của các DN dệt may VN, phấn đấu đạt mục tiêu đề ra cho ngành dệt may VN xuất khẩu trên 6,5 tỷ USD vào năm 2010 thì chúng ta cần tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp ở tầm vĩ mô và vi mô. Chương III Vai trò của doanh nghiệp, nhà nước, thương vụ ở nước ngoài trong việc xúc tiến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may. Những thành tựu mà ngành dệt may đã đạt được trong thời gian qua đã chứng tỏ vai trò của nhà nước, doanh nghiệp , thương vụ ở nước ngoài trong việc xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may VN là rất quan trọng. 1.Vai trò của doanh nghiệp : Doanh nghiệp giữ vị trí quan trọng trong quá trình tái cơ cấu đẩy mạnh hệ thống đủ hội nhập quốc tế. Bên cạnh các chính sách hỗ trợ của chính phủ các DN dệt may VN sẽ là những nhân tố chính quyết định sự thành bại của mình. Việc này bao gồm các chiến lược kinh doanh, cạnh tranh của sản phẩm hay chiến lược thị trường... Căn cứ vào nguồn lực và khả năng của DN, Việc xác định đúng đắn những yếu tố quyết định thành công trong môi trường kinh doanh mới đóng vai trò sống còn. Các DN chúng ta nên cạnh tranh như thế nào? Cạnh tranh bằng giá, bằng sự khác biệt của sản phẩm trong các phân đoạn thị trường, bằng sự tuân thủ tieu chuẩn quốc tế về môi trường trách nhiệm xã hôi DN, ... hay bằng cách kết hợp tất cả các yếu tố? Nhân tố quyết định thành công có thể nằm ở kỹ năng quản lý tổ chức sản xuất, giá thành sản phẩm, khả năng thiết kế, phát triển sản phẩm hay khả năng đáp ứng nhanh những yêu cầu khó tính của khách hàng,thị trường khó tính của khách hàng cầu khú ...Hơn nữa những nhân tố này luôn thay đổi thị trường,thị hiếu người tiêu dùng do vậy đòi hỏi DN cũng phải luôn không ngừng đổi mới, trang bị những khả năng mới và trước hết là khả năng thích ứng cao trước những biến động của thị trường. Trong điều kiện chi phí đầu vào tăng cao, các DN thành viên trong tổng công ty may mặc VN đã tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận phát sinh năm 2005 đạt 151,3 tủ đồng, tăng 60,9% so với năm 2004. Các DN dệt may đã đảm bảo công ăn việc làm cho 2 triệu lao động, thi nhập bình quân mỗi tháng đạt 1,42 triệu đồng. Dù gặp nhiều khó khăn trước mắt nhưng dệt may vẫn lưôn được xác định là nganhg công nghiệp quan trong cả về kinh tế lẫn xã hội. Do đó, các DN sẽ tập trung mọi nỗ lực vượt qua khó khăn, phấn đấu trong vòng 10 năm tới, dệt may VN sẽ lọt vào Top ten của dệt may thế giới. 2. Vai trò của Nhà Nước: Nhà nước đong vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các DN dệt may VN nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế thông qua các chính sách và chương trình cụ thể như: Tích cực đàm phám gia nhập Tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) và đàm phám thoả thuận thương mại tự do với các đối tác chính như Châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật,... để các sản phẩm dệt may VN được hươngr ưư đãi khi thâm nhập thị trường. Khuyến khích các DN kinh doanh bền vững: gắn lợi nhuận của DN với trach nhiệm xã hội DN ( an toàn vệ sinh lao động, điều kiện làm việc... ) và bảo vệ môi trường. Tạo ra môi trường kinh doanh hấp dẫn với sự ổn định cho các DN dệt may VN. Không ngừng cải thiện làm hấp dẫn thêm cơ sở hạ tầng, đơn giản hoá các thủ tục hải quan. Đào tạo lao động ngành may. Vừa qua, Cục xúc tiến thương mại- Bộ thương mại đã thành lập hai trung tâm giới thiệu sản phẩm may mặc VN tại Newyork ( Hoa Kỳ ) và Dubai ( các tiểu vương quốc A Rập thống nhất ) để triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá hình ảnh quốc gia và giới thiệu sẩn phẩm xuất khẩu dêt may VN ở nứơc ngoài. Hỗ trợ các DN mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác bạn hàng. Ngoài ra, hai trung tâm còn thực hiện một số dịch vụ khác nhằm mở rộng, hỗ trợ DN phát triển thị trường khu vực Bác Mỹ và Trung Đông. Chương IV Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang những thị trường chủ yếu Theo dự đoán của cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản ( JIAC ), VN có lợi thế trong ngành dệt may nhờ vào giá nhân công thấp và lực lượng lao động cần cù. Có khả năng xuất khẩu hàng may mặt VN lên tới 6,5 tỷ USD trong năm 2010 và 15 tỷ USD trong năm 2020. Với đặc thù là nước nông nghiệp, cây bông cho sản phẩm sợi cotton đang được ưa chuộng, VN sẽ thành công trong ngành xuất khẩu dệt may khi có các chính sách và biện pháp thích hợp cho phát triển ngành công nghiệp dệt. Trong giai đoạn 2006 đến 2010 trọng điểm chính sách nên chuyển sang tăng cường liên kết từ phía sau với khu vực dệt bằng các biện pháp như thu hút FDI. VN cần đầu tư vào các nhà máy nhuôm và sợi hoá học trước năm 2010. Trong giai đoạn từ 2010 đến 2020, liên kết từ phía sau nên tăng cường hơn nữa.Cũng nên thực hiện một chiến lược tăng hàm lượng mốt thời trang trong các sản phẩm quần áo ngoài để có thu nhập cao hơn, kể cả chiến lược thâm nhập thị trường quần áo nữ. Cần phát huy tối đa lợi thế so sánh, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra những mặt hàng, sản phẩm mũi nhọn để hàng hoá VN nhanh chóng mở rộng thị trường trong nứơc và quốc tế là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Để chủ động hội nhập quốc tế, việc tiến hành điều tra, phân loại đánh giá khả năng canh tranh của từng sản phẩm, mặt hàng để có biện pháp thiê thực nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh là một trong những việc làm cần thiết và cấp bách. Để thực hiện mục tiêu xuất khẩu của VN đến năm 2010 cũng như hàng dệt may VN phải giành thắng lợi trong cạnh tranh khi hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta cần thiết phải nghiên cứu, đánh giá khả năng cạnh tranh và đưa ra các giải pháp nhằm tăng sức cạnh tranh đối với hàng dệt may như: - Đầu tư các DN, cơ sở mới nhằm tăng năng lực sản xuất ngành dệt may, từng bước chuyển từ hình thức gia công sang trực tiếp sản xuất và xuất khẩu. Khuyến khích các DN thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu tư sản xuất hàng dệt may xuất khẩu ( đặc biệt những hãng, công ty lớn... ). - Đầu tư xây dựng nhà xưởng hiện đại, đổi mới thiết bị, công nghệ theo hướng, tiếp cận với công nghệ cao trong thiết kế mẫu, trong sản xuất nhăm f nâng cao chất lượng sản phẩm, năng xuất lao động, hạ giá thành. - Quy hoạc và đầu tư xây dựng các khu công nghiệp may, cơ sở vệ tinh sant xuất nguyên liệu, phụ liệu bào bì cho ngành dệt may để từng bước nang cao tỷ lệ nội địa hoá và là cơ sở để giảm giá thành sản phẩm. - Đầu tư cho việc nghiên cứu mẫu, mã, mốt thời trang quốc tế, nắm bắt kịp thời xu thế lớn trong ngành thời trang. Nhà sản xuất phải thể hiện được phong cách riêng với khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm, phương thức kinh doanh. - Có chính sách hỗ trợ và hướng dẫn, giúp dỡ DN dệt may nhanh chóng xác lập và đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế ( ISo 9000, ISO 14000, SA 8000... ), bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền, ghi nhã, mã số, mã vạch theo quy chế và sớm đăng ky nhãn hiệu, kiểu dàng công nghiệp tại thị trường quốc tế mà trước hết là cá thị trường trọng điểm như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Canada. - Đẩy mạnh xúc tiến thị trường như: khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức, DN mở văn phòng đại diện, chi nhánh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, trung tâm xúc tiến thương mại, tổ chức hội chợ triển lãm giới thiệu hàng hoá, thời trang. Khuyến khích và có cơ chế hỗ trợ để cá DN chủ động ra nước ngoài tìm kiếm thị trường, xác lập hệ thống kiênh phân phối, tiệu thụ sản phẩm tại các thị trường lớn. -Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất, thiết kế, kinh doanh, lao động có tay nghề cao cho ngành dệt may , cho các trung tâm dệt may và các địa phương khắc phục tình trang tranh giành lao động của một số địa phương. - Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ đặc biệt ( lãi xuất vay ưu đãi, thuế thị trường... ), để khuyến khích các DN thuộc mọi thành phần kinh tế nhanh chong mở rộng đàu tư nhằm tăng cường năng lực sản xuất của ngành dệt may. Sản phẩm dệt may của VN là mặt hàng có lợi thế so sánh quốc tế, lại đang có thị trường xuất khẩu, xuất đầu tư không lớn, thời gian đầu tư nhanh, giải quyêt nhiều việc làm cho người lao động. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ tạo cơ sở quan trọng để thực hiện “ chương trình đầu tư tăng tốc phát triển ngành dệt may ” cũng như mục tiêu xuất khẩu của VN đến năm 2010. Kết luận Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan. Mỗi DN khi tham gia hoạt động trên thị trường kinh tế quốc tế đều phải chấp nhận cạnh tranh như một yếu tố thúc đẩy phải cố gắng để tồn tại và phát triển. Để có thể chủ động và giành được thành công trong cạnh tranh, trong bối cảnh đầy khó khăn trên thị trường quốc tế, các DN dệt may đã nhạy bén, sáng tạo, xây dựng cho mình chiến lược thị trường thích hợp và đã, đang sẽ thay đổi chiến lược kinh doanh phù hợp theo từng thời kỳ. Qua đó, Nhà nước VN cũng tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều DN dệt may trong nứơc mở rộng thị trường ra nước ngoài, cạnh tranh với các ngành dệt may của các nước khác và dần khẳng định và phát triển hàng dệt may VN trên thị trường thế giới. Sau hai mươi năm đổi mới, VN hiện đang sở hữu một tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và liên tục, bền vững qua nhiều năm. Chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện. Đất nước hiện có quan hệ ngoại giao với 170 quốc gia, xây dựng quan hệ thương mại với hơn 150 nước, có quan hệ đầu tư buôn bán sâu rộng với trên 30 nước. Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và ODA đỗ vào VN trong những năm qua với số lượng và chất lượng ngày càng lớn đã tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế. mục lục lời mở đầu 1 Chương i. lý luận chung về hoạT ĐộNG XUấT

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0711.doc
Tài liệu liên quan