Vai trò của tài chính chứng khoán đối với sự phát triển kinh tế

Trong thời gian Uỷ ban chứng khoán nhà nước xem xét thì công ty phát hành cần phải công khai bản cáo bạch thị trường, nhưng phải ghi rõ là "dự thảo", đến khi được chấp thuận thì phát hành rộng rãi và ghi "bản cáo bạch chính thức", sau một thời gian khoảng 15 ngày, công ty được phép phát hành chứng khoán theo đúng nội dung của bản cáo bạch được chấp thuận.

 Cùng lúc bản cáo bạch được gửi đến Uỷ ban chứng khoán nhà nước thì cũng được gửi đến sở giao dịch chứng khoán kèm theo đơn xin đăng ký yết giá ở sở giao dịch đó. Sau khi được Uỷ ban chứng khoán nhà nước chấp thuận cho phép phát hành chứng khoán thì Hội đồng quản trị sẽ quyết định cho phép loại chứng khoán đó được yết giá trên sở chứng khoán. Sau thời hạn tối đa 2 tháng kể từ ngày Uỷ ban chứng khoán nhà nước chấp thuận cho phát hành mà loại chứng khoán đó không phát hành được thì sẽ bị hủy bỏ và được thông báo công khai, cũng có thể có sự gia hạn thêm một thời gian nhất định khoảng từ 1 đến 2 tháng nếu đơn vị phát hành có lý do chính đáng.

 

doc28 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1041 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò của tài chính chứng khoán đối với sự phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên thị trường chứng khoán như một thứ hàng hóa. Người có vốn (có cổ phiếu, trái phiếu) không sợ vốn mình bị chôn vì bất cư khi nào cần họ có thể bán lại các cổ phiếu, trái phiếu này trên thị trường chứng khoán, để mua lại cổ phiếu, trái phiếu khác, nhờ vậy sinh hoạt kinh tế thêm sôi động. Với một thị trường chứng khoán hoạt động tốt, các nhà doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn đầu tư phát triển kỹ nghệ, làm cho mọi nguồn vốn được lưu động hóa. Đối với những người có vốn tiết kiệm nhỏ cũng có thể mua được chứng khoán trên thị trường chứng khoán, mà không sợ bị kẹt tiền, vì ngay khi cần họ có thể bán số chứng khoán đó ngay. Một khi việc đầu tư vào các doanh nghiệp có lợi đối với các tầng lớp đân chúng, thì qua thị trường chứng khoán các món tiền tiết kiệm lớn nhỏ đều sẵn sàng từ bỏ sự bất động hóa, chấp nhận vào quá trình đầu tư. _ Khắc phục chu kỳ kinh doanh : + Thị trường chứng khoán làm giảm áp lực lạm phát : Lạm phát luôn là nguy cơ đe doạ sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế.Thị trường chứng khoán hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng đặc biệt là Nhân hàng trung ương trong việc giảm áp lực lạm phát. Khi xuất hiện hiện tượng lạm phát, Ngân hàng trung ương sẽ đưa ra bán các loại kỳ phiếu trên thị trường chứng khoán với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền đang lưu thông về và làm giảm áp lực lạm phát. Thị trường chứng khoán cũng ngăn chặn việc chuyển hoá vốn quá mức trong nền kinh tế. Đó là khi các ngân hàng thương mại cho các công ty vay nhưng không thu hồi được do một số công ty làm ăn thu alỗ, số tiền này nằm lại trong lưu thông làm tăng lượng vốn lưu hành. Do đó hệ thông ngân hàng thương mại sẽ hạn chế cho vay đối với những dự án có khả năng sinh lời thấp. Trong khi đó, thị trường chứng khoán sẽ bù vào khoản thiếu hụt này và gây áp lực để các dự án đầu tư đạt hiệu quả cao. Như vậy, thị trường chứng khoán cũng giúp làm giảm nguy cơ lạm phát. + Khắc phục tính trạng suy thoái của nền kinh tế : Như chúng ta đã biết khi nền kinh tế đang trong tính trạng suy thoái , đó là tổng sản phẩm sản xuất ra trong nền kinh tế giảm đi. Nó ảnh hưởng một cách mạnh mẽ và trực tiếp đến đời sống kinh tế, đặc biệt là tất cả chúng ta như khi sản phẩm sụt giảm thì để tìm được một việc làm tốt là rất khó khăn. Để khôi phục vấn đề này một trong những biện pháp hữu hiện là mở rộng đầu tư sản xuất(cung tạo ra câu). Nói đến đầu tư mở rộng sản xuất phải nái đến vốn mà trong đó thị trường chứng khoán là mọt tổ chức tài chính huy động vốn có hiệu quả nhất. Thông qua thị trường chứng khoán các doanh nghiệp có thể huy động được vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu bán ra để mở rộng quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời chính phủ có thể mua các loại cổ phiếu, trái phiếu để tạo vốn cho việc đẩy mạnh mở rộng sản xuất tăng sản phẩm cho nền kinh tế. Khi đó nền kinh tế sẽ được khôi phục lại. _ Thúc đẩy hiệu quả kinh tế : Thị trường chứng khoán là một công cụ tuyệt vời cho các nhà kinh doanh có thể vay vốn để đầu tư vào sản xuất nhưng cũng đòi hỏi rất cao ở họ. Ban quản trị thị trường chứng khoán chỉ cho phép cổ phiếu, trái phiếu của các công ty có đủ điều kiện như : kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có doanh lợi . . . được lưu hành trên thị trưòng và công chúng chỉ mua cổ phiếu của những công ty thành đạt. Thêm vào đó, luật lễ thị trường chứng khoán bắt buộc các doanh nghiệp có chứng khoán lưu hành trên thị trường chứng khoán phải công bố công khai các báo cáo tài chính, kết quả kinh doanh qua đó công chúng có cơ hội đánh giá kết quả hoạt động của công ty. Nếu một công ty làm ăn có lãi, thị giá chứng khoán của nó sẽ tăng trên thị trường chứng khoán và công ty có thể dễ dàng vay thêm vốn để mở rộng kinh doanh. Nếu một công ty làm ăn thua lỗ, giá chứng khoán của nó trên thị trường sẽ giảm vì tất cả những người sở hữu chứng khoán của công ty này sẽ đồng loạt bán chứng khoán ra thị trường chứng khoán. Việc này làm cho tổng số vốn của công ty giảm sút, công ty không có khả năng thành toán các khoán nợ đến hạn và dẫn tới phá sản. Do đó, thị trường chứng khoán gây áp lực rất lớn buộc các công ty có chứng khoán lưu hành trên thị trường chứng khoán phải làm ăn có lãi. Vì có như vậy các công ty mới có cơ hội để tồn tại và phát triển mà nhờ đó toàn bộ nền kinh tế xã hội sẽ tốt hơn. Tóm lại, chúng ta thấy thị trường chứng khoán đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Nó là một công cụ kinh tế nhờ đó người ta có thể huy động được những nguồn vốn khác nhau cho đầu tư, là một công cụ để phát triển và ổn đinh nền kinh tế mà trong đó bao gồm nhiều vai trò rất đa dạng. Vì vậy cần phải sớm hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam để khai thác những ưu việt của nó phục vụ cho sự phát triển kinh tế đát nước. PHầN B : TìNH HìNH HìNH THàNH Và PHáT TRIểN TTCK ở VIệT NAM i. Tình tất yếu của việc hình thành ttck ở việt nam 1) do yêu cầu của nền kinh tế Thực tế ở tất cả các nước có thị trường chứng khoán, khi nền kinh tế thị trường ra đời thì chưa có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ ra đời khi nền kinh tế đã phát triển ở mức độ nhất định và đòi hỏi phải hình thành một tổ chức nào đó có khả năng tiếp thêm sức mạnh cho thị trương - đó là thị trường chứng khoán với việc cung cấp vốn cho nền kinh tế. Có thể nói nền kinh tế hàng hóa phát triển làm nảy sinh thị trương chứng khoán và thị trường chứng khoán đến lượt nó lại tiếp thêm nguồn lực (vốn) để thục đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển . Sự phát triển kinh tế ngày càng tăng của phân công lao động theo hướng chuyên môn hóa theo ngành, nghề trong cơ cấu sản xuất của nền kinh tế. Quá trình chuyên môn hoá theo ngành càng cao thì tất yếu sẽ đòi hỏi sự giao lưu, sự luân chuyển các yếu tố của lực lượng sản xuất, trong đó có sự luân chuyển các nguồn vốn tài chính giữa các doanh nghiệp và công cụ thuận lợi nhất để thực hiện sự giao lưu nói trên là các cổ phiếu và trái phiếu mà chủ yếu hoạt động mua bán các công cụ này thường diễn ra thông qua thị trường chứng khoán và thị trường "ngầm". Trong mục tiêu phát triển kinh tế, Việt Nam hiện nay cần rất nhiều vốn. Theo các chuyên gia kinh tế, để duy trì nhịp độ tăng trưởng hang năm từ 9-10% trong giai đoạn 1996-2000, cần đảm bảo mức đầu tư hàng năm ít nhất là 27-30% GDP. Với tỉ lệ đầu tư nói trên, khối lượng cần cho đầu tư trong 5 năm tới sẽ là 40-50 tỷ USD, nghĩa là mỗi năm Việt Nam phải huy động được hơn 8 tỷ USD cho đầu tư phát triển. Thị trường ra đời sẽ giúp giải quyết một phần đáng kể số vốn này . Thông qua thị trường chứng khoán , nhiều nước một số nước đã huy động một khối lượng vốn khổng lồ. Ví dụ ở thị trường chứng khoán New York năm 1995 tổng giá trị chứng khoán được niêm yết là 6.013 tỷ USD, ở thị treoèng chứng khoán London là 1.344,425 tỷ USD. Xem xét tổng nguồn vốn được huy động tại các nước trong khu vực ta thấy (số liệu năm 1993);: tổng giá trị chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán Kualalumpur là 220,328 tỷ USD, trên Sở giao dịch chứng khoán Thailand là 130,953 tỷ USD, trên Sở giao dịch chứng khoán Jakarta là 32,953 tỷ USD. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ thu hút được các món tiền còn đang nằm không trong dân cư, trong các quĩ bảo hiểm, quĩ phục lợi xã hội. Qua các đợt thu đổi tiền tệ đã cho thấy nguồn vốn bằng tiền nằm trong dân cư chiếm từ 65-70% tổng tiền tệ trong lưu thông. Theo ước đoán số đôla nằm trong dân cư là khoảng 2 tỷ USD, số lượng vàng bạc đá quý có giá trị từ 7-10tỷ USD. Đây là nguồn vốn không nhỏ để đầu tư phát triển. Thị trường chứng khoán cũng sẽ thu hút người nước ngoài đầu tư vào trong nước. Trong 45 tỷ USD mà Việt Nam cần tới năm 2000, vốn đầu tư nước ngoài sẽ chiếm khoảng 13 tỷ USD. Đầu tư trên thị trường chứng khoán đêm lại cho các nhà đầu tư nước ngoài nhiều thuận lợi do họ có thông tin và giảm bớt được các thủ tục hành chính. Như vậy, thị trường chứng khoán ra đời tại Việt Nam sẽ huy động được nguồn vốn đáng kể để đáp ứng nhu cầu bức thiết về vốn cho nền kinh tế phát triển trong giai đoạn sắp tới. 2) Do yêu cầu của Nhà nước Để hoàn thiện nhiệm vụ của mình nhà nước luôn phải chi tiêu mà nguồn thu chủ yếu của nhà nước từ thuế thường không trang trải hết các hoạt động của nhà nước. Nhà nước buộc phải vay vốn trong dân cư và các tổ chức tín dụng bằng cách phát hành kỳ phiếu. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ giúp cho quá trình phát hành này được thuận lợi hơn. Như em đã trình bày ở phần trên, thị trường chứng khoán cũng có tác động tích cực trong việc giảm áp lực lạm phát. Đặc biệt từ năm 1993, nhà nước Việt Nam đã có chủ trường cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tức là chuyển các doanh nghiệp quốc doanh sang hình thức cổ phần. Quá trình này diễn ra còn chậm nếu thị trường chứng khoán hình thành thì sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra nhanh hơn. Những ly do cơ bản trên nói trên sự hình thành của thị trường chứng khoán ở Viẹt Nam là một tính tất yếu và chắc chắn trong tương lai gần Việt Nam sẽ có một thị trường chứng khoán theo đúng ý nghĩa của nó để đáp ứng các nhu câu của nền kinh tế. II. các điều kiện cần thiết để thành lập TTck ở việt nam Xây dựng một thị trường chứng khoán là một vấn đề không mấy khó khăn nhưng tổ chức nó hoạt động một cách có hiệu quả và đêm lại những tác động tích cực cho nền kinh tế thì lại là một vấn đề hết sức khó khăn. Để có được một thị trường hoạt động lành mạnh và hạn chế được những tiêu cực mkà nó có thể gây ra cho nền kinh tế, Việt Nam cần phải chuẩn bị môi trường kinh tế, pháp lý chặt chẽ và phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trường. Như vậy cần phải chuẩn bị tốt các yếu tố về kinh tế, pháp lý, kỹ thuật và để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của thị trường chứng khoán. 1) Yếu tố kinh tế : Đây là yếu tố rất quan trọng làm nền tảng để đảm bảo cho khả năng có các loại chứng khoán lưu thông trên thị trường. Yếu tố này được quyết định bởi các chính sách phát triển kinh tế và các định chế tài chính của nhà nước. Việc thông qua các Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp và Công ty . . . là cơ sở để các thành phần kinh tế tư nhân, các công ty liên doanh, công ty cổ phần ngày càng phát triển cùng với các đơn vị kinh tế quốc doanh. Đây là các đơn vị kinh tế có thể phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu là hàng hoá để giao dịch trên thị trường chứng khoán. Việt Nam cũng đang tiến hành các doanh nghiệp nhà nước , điều này cũng là yếu tố để tạo ra hàng hóa cho thị trường chứng khoán . Như vậy xét về yếu tố kinh tế, Việt Nam hiện nay có thể nói là đã thoả mãn yếu cầu của thị trường chứng khoán. Nhà nước đã cho phép các công ty cổ phần hoạt động, cho phép các loại chứng khoán được lưu hành hợp pháp tức là tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Điều này cho phép thị trường chứng khoán có thể ra đời. 2 . Yếu tố pháp lý : Nếu yếu tố kinh tế là nền tảng để hình thành thị trường chứng khoán thì yêu tố pháp lý là công cụ duy trì cho thị trương chứng khoán hoạt động đều đặn, lành mạnh, có hiệu quả và ngày càng phát triển . Có hai điểm khó khăn trong việc nghiên cứu và đề suất khung pháp lý cho thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Trước hết đó là vì các hoạt động của thị trường chứng khoán tinh vi và phức tạp hơn nhiều các loại thị trường khác. Thứ hai;, Việt Nam chưa có lý luận thực tiễn về nghề nghiệp chứng khoán. Trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho thị trường chứng khoán, một nguyên tắc cần phải thực hiện triệt để là : luật pháp về chứng khoán phải thể hiện chức năng và quyền hạn quản lý nhà nước cao nhất về chứng khoán làm nhiệm vụ phát triển và giám sát các hoạt động có liên quan tới chứng khoán, kinh doanh chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán, các thị trường phi tập trung (OTC), phát hành và đấu thầu chứng khoán mới, các luật về thôn tính và sát nhâp, ngăn ngừa các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp. Cũng như các nước khác, Việt Nam sẽ phải xây dựng và ban hành luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán. Trong luật này, các vấn đề sẽ được luật hoá là : các quy định về các tổ chức phát hành chứng khoán, các phương pháp phát hành chứng khoán mới, quy chế đấu thấu chứng khoán mới. Ngoài ra quy chế về tổ chức và hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán cũng cần phải được luật quy định chặt chẽ. Luật pháp về chứng khoán cũng phải có những quy định để điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán. Cần có những quy định chặt chẽ về các loại chứng khoán được đưa ra thị trường, nguyên tắc định giá chứng khoán, cách thức chuyển lệnh, đặt giá, đăng ký giao dịch, quy định về kế toán, kiểm toán, các yêu cầu về thông tin, xử lý tranh chấp, xử phạt vi phạm, các quy định về thanh tra, kiểm tra . . . Quy chế đầu tư cá nhân đặc biệt là quy chế cho các nhà đầu tư thể chế như các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, các quỹ đầu tư cũng là bộ phận mà luật chứng khoán cần phải đề cấp tới. Hiện nay ở Việt Nam, một số điều khoản liên quan đến quyền huy động vốn của các công ty cổ phần và các doanh nghiệp nhà nước được quy định trong luật công ty và luật doanh nghiệp nhà nước. Còn bộ phận lớn các quy định cần thiết khác mà chưa được xác định đầy đủ. Do vậy cần phải làm nhiều việc để xây dựng khung pháp lý chuẩn bị cho thị trương chứng khoán ra đời ở Việt Nam. 3) Yếu tố kiểm soát và yếu tố kỹ thuật : Hoạt động của thị trường chứng khoán phải đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi của những người kinh doanh chứng khoán và hạn chế các yếu tố tiêu cực của thị trường chứng khoán. Nhà nước cần thành lập Uỷ ban chứng khoán quốc gia để thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường chứng khoán. Vào ngày 28 tháng 11 năm 1996 Uỷ ban chứng khoán quốc gia Việt Nam đã được chính phủ thành lập . Uỷ ban này có nhiệm vụ xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp lý cho thị trường chứng khoán đồng thơì xây dựng một hoặc một số Sở giao dịch chứng khoán, quỹ đầu tư, trung tâm quản lý lưu giữ chứng khoán và thành toán bù trừ. Yếu tố kỹ thuật của thị trường chứng khoán bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật thuần tuý và con người. Cơ sở vật chất thuần tuý là các máy móc thiết bị, phương tiện thông tin tính toán, văn phòng giao dịch. Đây không phải là khó khăn khi xây dưng thị trường chứng khoán. Vấn đề khó chính là con người . Việt Nam cần có các nhà môi giới chứng khoán, các chuyên gia chứng khoán, các nhà tổ chức và điều hành thị trường chứng khoán. Trước mặt cần phải có chương trình đào tạo khẩn cấp các cán bộ trong ngành ngân hàng tài chính sau đó sẽ đào tạo với quy mô dài hơn. Đồng thời cần phải đưa môn học về thị trường chứng khoán vào các trường đại học trung học kinh tế nhất là trong các chuyên ngành nhân hàng tài chính . Ngoài các yếu tố nêu trên, cần có sự tuyên truyền sâu rộng trong dân cư về tính hấp dẫn khi đầu tư vào thị trường chưng khoán cũng như đưa ra những đảm bảo cho quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư. Đã có những cơ sở để hình thành và phát triển thị trương chứng khoán, Việt Nam cần phải có những cơ sở lý luận và biện pháp để khuyên khích việc tạo ra các loại chứng khoán mà là hàng hóa cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán mới mẻ này. Phần c: tạo ra hàng hóa cho ttck việt nam I . phân loại chứng khoán-hàng hoá của ttck Hàng hóa của thị trường chứng khoán là yếu tố quan trọng để duy trì và phát triển hoạt động của nó. Trong hệ thống thị trường, mỗi loại thị trường có một loại đối tượng giao dịch riêng của nó. Trên thị trương chứng khoán đối tượng giao dịch của nó là chứng khoán. Chứng khoán là một thuật ngữ dùng để chỉ các giấy tờ có giá, tức là giấy tờ ghi nhận khoản tiền tệ mà người sở hữu chúng bỏ ra sẽ được quyền hưởng những khoanr lợi tức nhất định theo kỳ hạn. Hay nói cách khác,là các loại công cụ tài chính dài hạn, bao gồm các loại cổ phiếu và trái phiếu. Ngoài ra, trên thị trường chứng khoán còn giao dịch các loại giấy tờ có giá liên quan đến chứng khoán, được gọi là các công cụ có nguồn gốc chứng khoán, gồm có : các giấy đảm bảo quyền mua, các quyền chọn và các hợp đồng tương lai . . . Tuỳ thuộc vào tiêu thức mà ta lựa chọn, sẽ có một cách phân loại chứng khoán tương ứng, chẳng han như : 1. Căn cứ vào đặc điểm của chứng khoán Chia chứng khoán thành 2 loại : _ Chứng khoán vốn : là giấy chứng nhận sự hùn vốn vào công ty cổ phần, tức là các loại cổ phiếu. _ Chứng khoán nợ : là giấy chứng nhận nợ có kỳ hạn, tức là nói đến các loại trái phiếu. 2. Căn cứ vào chỉ tiêu pháp lý chứng khoán được shia thành 2 loại : _ Chứng khoán vô danh : là loại chứng khoán không ghi rõ họ tên sở hữu chủ. Việc chuyển nhượng loại này rất đơn giản, dễ dàng, không cần phải có thủ tục pháp lý rườm ra. _ chứng khoán ký danh : là loại chứmg khoán có ghi rõ họ tên sở hữu chủ. Việc chuyển nhượng loại chứng khoán này được thực hiện bằng thủtục đăng ký tại cơ quan phát hành, đôi khi phải có sự chấp nhận trước. 3. Căn cứ vào tính chất tài chính chứng khoán có 2 loại : _ Chứng khoán có lợi tức ổn định : là loại chứng khoán được xác định tỷ lệ lãi cụ thể phải trả cho người sở hữu khi đến hạn. Thông thường, loại vốn và lãi được hoàn trả khi đáo hạn, chẳng hạn như : các loại trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi . . . _ Chứng khoán có lợi tức không ổn định : là loại chứng khoán không xác định trước tỷ lệ lãi được hưởng. Loại này tỷ lệ lãi phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty, chẳng hạn như : cổ phiếu thông thường. A. Cổ phiếu 1. Khái niệm : Cổ phiếu là loại chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một doanh nghiệp cổ phần. Hay nói cách khác, cổ phiếu là giấy chứng nhận việc đầu tư vốn vào công ty cổ phần. Cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Cổ phần là phần vốn đóng góp để cùng làm sở hữu chủ công ty. Loại cổ phiếu ra đời đầu tiên là loại cổ phiếu có ghi tên người sở hữu, được gọi là cổ phiếu ký danh. Hình thức này có nhược điểm là khi muốn chuyển nhượng cho người khác phải được hội đồng quản trị cho phép. Điều đó đã làm trở ngại cho việc lưu thông cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Đến thế kỳ 18 cổ phiếu vô danh ra đời và sang thế kỷ 19 cổ phiếu vô danh gần như hoàn toàn thay thế cho cổ phiếu ký danh. Có phiếu có những đặc điểm sau : _ Cổ phiếu là giấy chứng nhận sự hùn vốn vào công ty cổ phần _ Cổ phiếu không kỳ hạn, nó tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty phát hành ra nó. _ Cổ phiếu có thể được phát hành lúc vận động thành lập công ty hoặc lúc công ty cần gọi thêm vốn để mở rộng hiện đại hoá sản xuất. _ Người mua cổ phiếu được quyền nhận lợi tức cổ phiếu (hay còn gọi là cổ tức) hàng năm có thể cố định hay biến động tuỳ theo loại cổ phiếu phát hành. _ Nhười mua cổ phiếu sẽ là người sở hữu một phần công ty, do đó phải chịu trách nhiệm hữu hạn về sự lỗ lã, phá sản của công ty và được quyền đầu phiếu cũng như biểu quyết các vấn đề của công ty. _ Người mua cổ phiếu được quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cho người khác. _ Người mua cổ phiếu có quyền tham gia kiểm soát sổ sách của công ty khi có ly do chính đáng. _ Người mua cổ phiếu còn có chia phần tài sản còn lại khi công ty giải tán. 2. Các loại cổ phiểu _ Cổ phiếu thường : là lôại cổ phiếu mà người mua có quyền tham gia đại hội cổ đồng của công ty phát hành nó và được hưởng lợi tức theo nguyên tắc "lời được hưởng, lỗ phải chịu" vì lợi tức của cổ phần này phụ thuộc rất nhiều vào lợi nhuận của công ty cổ phần trong năm đố. Người mua cổ phiếu thường phải chấp nhận tính mạo hiểm rủi ro, cho nên cần suy nghĩ kỹ, xem xét thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh mà phát triển của công ty cổ phần mà mình có ý định mua cổ phần. _ Cổ phiếu ưu đãi : là loại cổ phiếu mà người mua được hưởng một số quyền lợi đặc biệt về quyền lực hoạec về kinh tế. Cổ phiếu ưu đãi về quyền lực đã giành cho người mua nhiều quyền lực hơn trong việc bàn bạc và quyết định mọi hoạt động của công ty. Cổ phiếu ưu đãi về kinh tế thường bán cho những người có nhiều cống hiến và làm việc lâu năm ở công ty đã nghỉ hưu. B. Trái phiếu 1. Khái niệm : Trái phiếu là một loại chứng khoán có giá, là giấy chứng nhận nợ do người vay (chính phủ, công ty hoặc ngân hàng) muốn thu góp vốn mà trong đó người vay phát hành một chứng chỉ thường là với một lãi suất xác định và đảm bảo cho người mua vào một thời gian nhất định trong tương lai. 2. Các loại trái phiếu _ Trái phiếu chính phủ : là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ tài chính phát hành để thu hút vốn , chủ yếu giải qyuết nhu cầu tài chính cho đàu tư phát triển kinh tế và có trách nhiệm trả nợi. Loại trái phiếu này có tín nhiệm cao, người có trái phiếu, sau một thời gian thu lại vốn theo mệnh giá ghi trên phiếu và nhận được tiền lãi nhất định. Cũng như cổ phiếu, trái phiếu chính phủ bao gồm các loại ký danh và vô danh được phat hành dưới hình thức sau đây : + Trái phiếu ngắn hạn hay còn gọi là tin phiếu kho bạc : là loại trái phiếu có thời hạn là một năm, được phát hành nhằm bù đắp sự thiếu hụt ngân sách nhà nước trong thời gian ngắn, đặc biệt để góp phần thực hiện tài chính quốc gia, khắc phục tình trạng lạm phát, đảm bảo được khối lượng tiền tệ trong lưu thông một cách hợp lý. + Trái phiếu trung hạn : là loại trái phiếu có thời hạn từ 1 năm đến 9 năm . Loại này thường tạo nguồn thu ngân sách ổn định cho chính phủ và dùng để đầu tư vào các dự án mà có thể hoàn trả được vốn vay. + Trái phiếu dài hạn : là loại trái phiếu có thời hạn từ 10 trở lên được dùng để huy động vốn đầu tư cho các công trình hạ tầng cơ sở lớn có nguồn thu hoàn trả vốn vay, nên giảm bớt gánh nặng chi tiêu ngân sách. _ Trái phiếu công ty : là trái phiếu do các công ty phát hành với mục đích huy động vốn cho đầu tư phát triển. Công ty phát hành trái phiếu thì công ty là người đi vay và người mua trái phiếu công ty là chủ nợ của công ty, công ty phải cam kết thanh toán nợ cả gốc và lãi cho người mua trái phiếu theo những quy định trong hợp đồng phát hành công ty. Trá phiếu công ty được chia thành như sau : + Trái phiếu tín chấp : là loại trái phiếu chỉ dựa vào uy tin của công ty để phát hàn, công ty không đưa một tài sản gì để làm bảo đảm. + trái phiếu thế chấp ; là loại trái phiếu khi phát hành đòi hỏi phải có một lượng tài sản tương ứng ký thác tại cơ quan uỷ thác đẻ đảm bảo chắc chắn khả năng hoàn trả của trái phiếu. + Trái phiếu cầm cố ưu tiên : là loại trái phiếu khi phát hành phải được cầm cố toàn bộ tài sản công ty . Đây là loại trái phiếu an toàn nhất vì chủ sở hữu trái phiếu được ưu tiên nhất so với người mua loại trái phiếu khác. + Trái phiếu thu nhập : là loại trái phiếu mà lợi tức được trả tuỳ thuộc vào lợi nhuận của công ty và không cao hơn lãi suất ghi trên trái phiếu. + Trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành cổ phiểu thường : là loại trái phiếu cho phép người sở hữu nó được quyền đổi sang cổ phiếu thường. + Tái phiếu lãi suất chiết khấu : là loại trái phiếu được trả lãi ngay khgi phát hành, được khấu trừ vào vốn mua trái phiếu. + Trái phiếu lãi suất thả nổi : là loại trái phiếu có lãi suất được điều chỉnh theo từng thời kỳ cho phù hợp với lãi suất trên thị trường. Ngoài cổ phiếu và trái phiếu, còn có các công cụ tài chính khác như các hợp đồng mua bán có kỳ hạn, các hợp đồng quyền lựa chọn . . . cũng trở thành hàng hoá và được mua bán trên thị trường chứng khoán. C. Các loại hàng hoá khác : 1. Giấy đảm bảo mua cổ phiếu : Trên thương trường có nhiều công ty hoạt động mang lại hiệu quả cao, xu hưởng phát triển ngày càng mở rộng, Hội đồng quản trị đưa ra quyết định tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu bổ sung. Việc phát hành cổ phiếu mới có thể đưa đến tình trạng một số cổ đông ban đầu không đủ vốn để mua thêm cổ phần mới theo tỷ lệ ban đầu, từ đó họ mất quyền kiểm soát công ty, trong khi họ là những người có công, cần được ưu đãi. Để khắc phục tình trạng trên, người đã áp dụng nhiều phương thức phát hành cổ phiếu mới đảm bảo quyền kiểm soát công ty vẫn thuộc số cổ đồng ban đầu, bằng sự ưu tiên cho cổ đồng cũ vẫn nắm quyền kiểm soát công ty nhưng như vậy cổ đông mới sẽ không mua cổ phiếu. Do đó vào những năm 1950 người ta đã ưu tiên khuyến khích các cổ đồng cũ được quyền một số cổ phiếu mới tương ứng với tỷ lệ góp vốn ban đầu theo giá thấp hơn giá thị trường. Quyền này được thể hiện bằng giấy đảm bảo quyền mua cổ phiếu. Nừu cổ đông cũ không thực hiện quyền mua thì họ có thể đưa ra bán ở thị trường để nhận một khoảng lãi do chênh lệch giá ưu tiên. Sau khi ưu tiên cho cổ đông cũ số còn lại mới bán rộng rãi trên thi trường. 2. Hợp đồng mua bán tương lai : Hợp đồng tương lai là một bản hợp đồng được soạn giữa hai người, hợp đồng này xác định cho người mua "quyền mua" được một loại chứng khoán với số lượng và giá cả đã được ấn định trong một thời gian nhất định với người bán, hoặc người mua "quyền bán" được bán một loại chứng khoán với số lượng, giá cả và thời gian đã ấn định cho người bán. Người mua phải trả một khoản tiền mua "quyền mua hay quyền bán", nhưng có đặc điểm là người mua không phải cps nghĩa vụ thực hiện quyền mua hay bán của mình trong tưong lai mà có thể huỷ bỏ được; lúc này chỉ mất số tiền mua"quyền mua hay quyền bán"mà thôi, còn người bán thì luôn luôn phải thực hiện nghĩa vụ "mua hay bán" của mình theo yêu cầu của người mua. Các giao dịch này là một loại trò chơi mang tính "cờ bạc" trong thị trường chứng khoán. Nhưng đây là trò cờ bạc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0249.doc
Tài liệu liên quan