Văn 12 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên

Hồ Chí Minh đã nêu lên một phương châm rất cơ bản về giáo dục thanh niên, là: phải kết hợp chặt chẽ học đi đôi với hành, lý luận với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội. Theo Người, học và hành là hai khâu của quá trình nhận thức, luôn gắn bó khăng khít với nhau. Hành bản thân nó là một phương pháp học. Hành không chỉ là vận dụng những điều đã học, mà còn là nguồn gốc của tri thức mới, là biện pháp rèn luyện con người một cách toàn diện, dẫn đến sự xác minh tri thức, lòng quyết tâm thực hiện những điều đã học, một khi những điều đó được công nhận là chân lý. Chính vì vậy, Người luôn khuyên thanh niên: Học thì phải hành, học để hành, học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy. Học đi đôi với hành cho phép cùng một lúc hình thành cả tri thức và kỹ năng; hành trở thành một hình thức chính của học, quá trình học xảy ra trong chính quá trình hành.

 

Hồ Chí Minh đã nhiều lần căn dặn giáo viên và học sinh cần gắn việc dạy học với thực tế của cuộc sống, với đời sống của nhân dân. Thầy giáo và học sinh cần tham gia những công tác xã hội, ích nước lợi dân. Người phê phán lối dạy sách vở, biến con người thành những con mọt sách, lối nói suông văn hoa chữ nghĩa mà không có tác dụng gì. Việc học tập phải tranh thủ ở mọi lúc mọi nơi, không chỉ trong nhà trường, trong sách vở mà còn học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót lớn; học tập trong việc làm hàng ngày, trong việc lớn cũng như việc nhỏ; học tập trong kinh nghiệm thành công cũng như kinh nghiệm thất bại.

 

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1958 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn 12 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường để được chăm sóc, an ủi, động viên. Gia đình còn là một trong những cội nguồn tạo ra giá trị đạo lý, nhân cách, văn hóa con người; là trường học đầu tiên, nơi sinh thành phát triển ngôn ngữ và khả năng, tính cách con người; là nơi hình thành và phát triển tư duy, tình cảm, trí tuệ; đồng thời là nơi hình thành và phát triển các giá trị đạo lý, bản sắc con người. Chính vì vậy, gia đình có ảnh hưởng rất lớn đối với mỗi con người, với cộng đồng xã hội, có sự tác động qua lại với những chiều hướng tiêu cực hay tích cực về: nhân cách, lối sống, đạo đức, kỷ cương, các giá trị xã hội... Xã hội phát triển lành mạnh, vững chắc nếu nền tảng gia đình phát triển lành mạnh, vững chắc. Do đó, phải coi trọng vai trò giáo dục, dạy dỗ của gia đình đối với mỗi thanh niên. (29) Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.7, tr.456 (30) Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.12, tr.404 Người còn nhấn mạnh: “Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội” (28). Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh thể hiện một đặc trưng của nền giáo dục mới; phân biệt nền giáo dục mới với nền giáo dục thực dân phong kiến là tách rời giữa lý luận và thực tiễn, tạo ra sự xa cách giữa lao động trí óc và lao động chân tay, làm cho nhà trường xa lạ với xã hội. Tư tưởng của Hồ Chí Minh chỉ ra phương pháp cơ bản để tạo ra những con người phát triển toàn diện. Thực hiện phương pháp giáo dục này sẽ giúp cho thanh niên học tập, rèn luyện, cống hiến và trưởng thành nhanh chóng, trở thành những con người chân chính, cách mạng, thật sự có ích cho xã hội Phương châm, phương pháp giáo dục thanh niên Để thực hiện có hiệu quả các nội dung giáo dục nêu trên, Hồ Chí Minh cho rằng cần phải đề ra được những phương châm, phương pháp tiến hành giáo dục thanh niên một cách đúng đắn và khoa học. Nói cách khác phải có công nghệ “trồng người” phù hợp với thực tế nước ta, phù hợp đặc thù của thanh niên nước ta. Những phương châm, phương pháp giáo dục cơ bản là: a. Kết hợp chặt chẽ học với hành, lý luận với thực tiễn Hồ Chí Minh đã nêu lên một phương châm rất cơ bản về giáo dục thanh niên, là: phải kết hợp chặt chẽ học đi đôi với hành, lý luận với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội. Theo Người, học và hành là hai khâu của quá trình nhận thức, luôn gắn bó khăng khít với nhau. Hành bản thân nó là một phương pháp học. Hành không chỉ là vận dụng những điều đã học, mà còn là nguồn gốc của tri thức mới, là biện pháp rèn luyện con người một cách toàn diện, dẫn đến sự xác minh tri thức, lòng quyết tâm thực hiện những điều đã học, một khi những điều đó được công nhận là chân lý. Chính vì vậy, Người luôn khuyên thanh niên: Học thì phải hành, học để hành, học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy. Học đi đôi với hành cho phép cùng một lúc hình thành cả tri thức và kỹ năng; hành trở thành một hình thức chính của học, quá trình học xảy ra trong chính quá trình hành. Hồ Chí Minh đã nhiều lần căn dặn giáo viên và học sinh cần gắn việc dạy học với thực tế của cuộc sống, với đời sống của nhân dân. Thầy giáo và học sinh cần tham gia những công tác xã hội, ích nước lợi dân. Người phê phán lối dạy sách vở, biến con người thành những con mọt sách, lối nói suông văn hoa chữ nghĩa mà không có tác dụng gì. Việc học tập phải tranh thủ ở mọi lúc mọi nơi, không chỉ trong nhà trường, trong sách vở mà còn học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót lớn; học tập trong việc làm hàng ngày, trong việc lớn cũng như việc nhỏ; học tập trong kinh nghiệm thành công cũng như kinh nghiệm thất bại. Cũng trong sự kết hợp học với hành, Hồ Chí Minh còn chú trọng đến sự kết hợp nâng cao nhận thức với rèn luyện ý chí, bồi dưỡng thanh niên trở thành những người cán bộ tốt cho cách mạng. Người khuyên thanh niên cố gắng học tập và học thì phải hành, chỉ học thuộc lòng để lòe thiên hạ thì kiến thức ấy cũng vô ích. Ngày 21-10-1964, nói chuyện với cán bộ giảng dạy và sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Người khuyên: “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau” (24). Đây là một sự chuyển hướng cơ bản, cách mạng về phương châm đào tạo và là một đặc trưng cơ bản, chủ yếu để phân biệt nhà trường mới với nhà trường dưới chế độ thực dân phong kiến. Trong giáo dục, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc bồi dưỡng lý luận cho thanh niên, nhằm mục đích nâng cao nhận thức để vận dụng vào thực tiễn chứ không phải học lý luận vì lý luận. Nắm chắc được mục đích đó, chính là để xác định động cơ học tập đúng đắn cho thanh niên. Vì theo Người: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” (25). Còn “Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước”. Như vậy, quan niệm lý luận của Hồ Chí Minh đã hàm chứa trong nó yếu tố thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, thể hiện được mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận cũng như yếu tố kế thừa của lý luận. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Vì vậy, ngay từ khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó xác định Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam. Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra quyết định số 14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận quan trong của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của Đảng cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lý luận chính trị được Đại hội toàn quốc lần thứ X đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục con người phát triển toàn diện, nhất là thế hệ trẻ. Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ năng lực nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhảy cảm với chính trị, có ý chí vươn lên về khoa học – công nghệ. Để cụ thể chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển giáo dục một cách tổng thể và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển giáo dục mầm non, thực hiện xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở trên phạm vi cả nước, tạo môi trường thuận lơi dể cho mội người học tập và học tập suốtđời. Điều hành hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống Giáo dục và đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuât lành nghề, hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, thực hiện tốt chính sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta lại càng phải quan tâm hơn nũa đến sự nghiệp Giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và nhân dân lao động để họ tham gia hội nhập mà vẫn giữ vững truyền thống văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm chủ khoa học tiên tiến. đây nữa nàyI. Tính tất yếu khách quan và sự lãnh đạo của Đảng đối với GD-ĐT 1. Vị trí, vai trò của GD-ĐT Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển ngày càng nhanh. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Các nước trên thế giới kể cả những nước đang phát triển đều coi giáo dục là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia. Đảng và Nhà nước ta đã đặt giáo dục ở vị trí cao. Nghị quyết Trung ương 2 khoá IIX đã xác định phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đánh giá thực trạng giáo dục đào tạo sau 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định sự nghiệp giáo dục đào tạo nước ta tiếp tục phát triển và được đầu tư nhiều hơn. Cơ sở vật chất được tăng cường, quy mô đào tạo mở rộng, nhất là bậc trung học và dạy nghề. Trình độ dân trí được năng cao. Điều đó được thể hiện : Phổ cập giáo dục tiểu học tiếp tục được củng cố, phổ cập giáo dục bậc trung học cơ sở được triển khai tích cực. Đến hết năm 2005 có 31 tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học ở bậc tiểu học đạt 97,5%. Quy mô giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng và trình độ dân trí được năng lên rõ rệt. Số học sinh trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, sinh viên các trường đại học và cao đẳng đều tăng. Các trường sư phạm tiếp tục được củng cố và phát triên. bước đầu đã hình thành mạng lưới dạy nghề cho lao động nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số, tàn tật, gắn dạy nghề với tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo. Chất lượng dạy nghề có chuyển biến tích cực. Đổi mới giáo dục đang được triển khai từ giáo dục mầm non phổ thông, dạy nghề đến cao dẳng, đại học. Việc xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã đạt được những kết quả bước đầu. Nhiều trường dân lập, tư thục bậc đại học, trung học chuyên nghiệp được thành lập. Đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo tăng lên đáng kể. Năm 2005 chi cho giáo dục đào tạo chiếm gần 18% tổng chi ngân sách nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước đã huy động được nhiều nguồn vốn khác để phát triển giáo dục, như thông qua phát hành công trái, huy động đóng góp của nhân dân, của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cơ sở vật chất trong các cơ sở giáo dục và đào tạo các cấp được tăng cường, đặc biệt là vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. nhiều tỉnh đã xây dựng được các trường chuẩn quốc gia. Cùng với kết quả quan trọng nêu trên, trong thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém thể hiện ở các điểm sau : Giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao về nguồn nhân lực trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Nhiều vấn đề hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục. Chất lượng giáo dục còn nhiều yếu kém, khả năng chủ động sáng tạo của học sinh, sinh viên còn yếu. Chương trình, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề chưa thật phù hợp, phát triển giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa cân đối với giáo dục phổ thông. Đào tạo nghề còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Việc xã hội hoá giáo dục được thực hiện chậm, thiếu đồng bộ. Công tác giáo dục đào tạo ở vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn, chất lượng thấp, chưa quan tâm đúng mức phát triển giáo dục đào tạo ở đồng bằng sông Cửu Long, để giáo dục và đào tạo ở vùng này tụt hậu dài so với các vùng khác trong cả nước. Công tác quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo chậm đổi mới và còn nhiều bất cập. Công tác thanh tra giáo dục còn yếu kém. Những hiện tượng tiêu cực như bệnh thành tích, thiếu trung thực trong đánh giá kết quả giáo dục trong học tập, tuyển sinh, thi cử cấp bằng và tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan, kéo dài chậm được khắc phục. 2. Sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục Giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực rất quan trọng của đời sống xã hội, nó liên quan đến nhiều lĩnh vực khác, cho nên Đảng ta rất chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo. Những năm qua quan điểm của Đảng về đường lối phát triển giáo dục và đào tạo chủ yếu tập trung ở nghị quyết trung ương 2 khoá IIX ( nghị quyết chuyên đề về giáo dục và đào tạo); kết luận của hội nghị lần 6 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa 9; nghị quyết hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành trung ườn Đảng khoá IX; Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X. Qua các văn kiện này thể hiện một số quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục đào tạo như sau: - Giáo dục và đào tạo nhằm xây dựng con người có đầy đủ phẩm chất để xây dựng và bảo vệ đất nước. - Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong giáo dục và đào tạo, nhát là chính sách công bằng xã hội. - Thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu cùng với khoa học và công nghệ là yếu tố quyết định góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. - Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân; mọi người, mọi cấp chăm lo cho giáo dục và đào tạo. - Giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, với khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh. - Giữ vững nòng cốt của các trường công lập song song với đa dạng hoá các loại hình giáo dục đào tạo. - Chăm lo giáo dục đào tạo là chăm lo cho con người và xã hội phát triển với các yêu cầu và tiêu chí được xác lập. - Phát triển giáo dục và đào tạo phải theo nguyên lý: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn lion với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. 3. Yêu cầu của thời kì đổi mới Đảng lãnh đạo giáo dục đào tạo là một tất yếu khách quan để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Xuất phát từ nhu cầu phát triển nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhân cách con người là do nhiều yếu tố tạo nên nhưng giáo dục đào tạo là yếu tố quan trọng giữ vai trò quyết định trong sự phát triển trí tuệ và nhân cách con người. Mà công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta rất cần thiết có những con người mới xã hội chủ nghĩa do đó phải chăm lo đến việc phát triển giáo dục đào tạo. Chính vì vậy cần có Đảng lãnh đạo để đảm bảo yêu cầu về xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ nhu cầu phát triển nền kinh tế tri thức, trong nền kinh tế tri thức các sản phẩm được sản xuất với công nghệ cao có hàm lượng chất xám cao từ 70% trở lên. sản xuất hàng hóa sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, ít ô nhiễm môi trường hơn, giá thành hạ, chất lượng cao hơn. ngày nay những phát minh mới về khoa học công nghệ được ứng dụng nhanh vào sản xuất và hiệu quả sản xuất. Những phát minh mới, những tiến bộ mới về khoa học công nghệ tồn tại không lâu nhanh chóng bị lạc hậu. Yêu cầu tất yếu đặt ra là lãnh đạo phải được đào tạo và đào tạo đạt trình độ cao để tham gia sản xuất, để sử dụng sản phẩm có hàm lượng tri thức cao. Xuất phát từ nhu cầu được học tập và không ngừng nâng cao tri thức của nhân dân. Xuất phát từ nhu cầu về sự bình đẳng của xã hội đòi hỏi phải đảm bảo quyền con người. Để kinh tế phát triển, xã hội ổn định thì quyền con người phải được đảm bảo như : quyền học hành, quyền lao động, quyền làm chủ xã hội…Trong rất nhiều quyền con người ấy thì quyền cao nhất là quyền làm chủ. Muốn làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân thì điểm đầu tiên là phải có tri thức. Muốn có tri thức thì phải học, nhưng không phải ai cũng có điều kiện để học, vì vậy cần có Đảng lãnh đạo để đảm bảo thực hiện quyền đó. Nhận thức rõ điều đó Đảng đã có nghị quyết trung ương 2 khoá IIX. Nghị quyết chuyên đề về giáo dục đào tạo khẳng định: Giáo dục đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu. Là động lực và điều kiện để thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội. Là chìa khóa để mở cửa để mở cửa tiến vào tương lai. Là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Phải có đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư phát triển phải tạo điều kiện cho giáo dục đi trước để phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. CÒN ĐÂY NỮA Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Vì vậy, ngay từ khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó xác định Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam. Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra quyết định số 14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận quan trong của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng cộng sản Việt Nam. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được Đại hội VII xem là quốc sách hàng đầu. Đó là một động lực thúc đẩy và là một điều kiện cơ bản bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế - xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân giúp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước. Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước những năm 90 và chuẩn bị cho tương lai. Phải mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức. Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Thực hiện một nền giáo dục thường xuyên cho mọi người, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục: Người đi học phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng góp chi phí đào tạo. Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người nghèo và các đối tượng chính sách đều được đi học. Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định một lần nữa vai trò quan trọng của khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” . Coi trọng cả 3 mặt của giáo dục: mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đổi mới hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học, kết hợp đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận với công nghệ tiên tiến.Sau khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, Đảng ta đã có những chuyển hướng về hợp tác quốc tế trong đào tạo cán bộ. Nghị quyết 02-NQ/HNTW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đó nhấn mạnh quan điểm hợp tác đào tạo với các nước như sau: - Dành ngân sách nhà nước thỏa đáng để cử những người giỏi và có phẩm chất tốt đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then chốt ở những nước có nền khoa học, công nghệ phát triển. - Khuyến khích đi học nước ngoài bằng con đường tự túc, hướng vào những ngành mà đất nước đang cần, theo quy định của Nhà nước. Thực hiện Nghị quyết này, Chính phủ đã dành 100 tỉ đồng đầu tư cho việc đào tạo ở nước ngoài vào năm 2000 (tương đương với 7,12 triệu USD tại thời điểm đó). Vấn đề nhân tài ngày càng trở nên bức thiết, đến Đại hội IX, Trung ương Đảng một lần nữa nhấn mạnh rằng: "Có chính sách hỗ trợ đặc biệt những học sinh có năng khiếu, hoàn cảnh sống khó khăn được theo học ở các bậc học cao. Có quy hoạch và chính sách tuyển chọn người giỏi, đặc biệt chú ý đến con em công nhân và nông dân để đào tạo ở các bậc đại học và sau đại học. Tăng ngân sách nhà nước cho việc cử người đi học ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến. Khuyến khích việc du học tự túc" Đại hội Đảng lần thứ IX nêu rõ: "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá" . Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục tư tưởng - chính trị, nhân cách, đạo đức, lối sống cho người học. Tăng cường phối hợp nhà trường và gia đình, phát huy vai trò giáo dục gia đình. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tăng cường giáo dục tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự tu dưỡng, tự tạo việc làm. Tăng cường giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và các địa phương, vùng, miền. Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học xã hội, nhân văn, nhất là các môn học Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Một số trường đại học phải sớm đạt chất lượng ở trình độ quốc tế.Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sớm xây dựng chính sách sử dụng và tôn vinh các nhà giáo, cán bộ quản lý giỏi, có công lao lớn trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, chấn chỉnh việc phong chức danh, học vị, cấp văn bằng. Phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn, trên cơ sở bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đào tạo với sử dụng. Mở rộng hệ thống trường lớp giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, nông thôn. Hoàn thành cơ bản phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010, củng cố kết quả phổ cập tiểu học, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục xóa mù chữ, ngăn ngừa tái mù chữ, giáo dục cho người lớn. Thực hiện phổ cập trung học ở những nơi đó phổ cập xong trung học cơ sở. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Hiện đại hóa một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao. Phát triển giáo dục không chính quy, các hình thức học tập cộng đồng ở các xã, phường gắn với nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập. - Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Có chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên thuộc các gia đình nghèo và các đối tượng chính sách xã hội. Ưu tiên phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Chú trọng đào tạo cỏn bộ vựng dõn tộc (cỏn bộ đảng, chớnh quyền, đoàn thể từ bản, ấp trở lờn và cỏn bộ khoa học kỹ thuật). Củng cố và tăng cường hệ thống trường nội trỳ, bỏn trỳ cho học sinh dõn tộc thiểu số ; từng bước mở rộng quy mụ tuyển sinh, đáp ứng yờu cầu đào tạo toàn diện đi đôi với cải tiến chớnh sỏch học bổng cho học sinh các trường này. Thực hiện chế độ miễn phớ học tập, cung cấp sỏch giỏo khoa cho học sinh vựng cao, vựng sõu, vựng xa, học sinh người dõn tộc thiểu số. Thực hiện tốt chớnh sỏch cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ đối với vựng dõn tộc thiểu số, vựng sõu, vựng xa cú nhiều khó khăn. Có chớnh sỏch bổ tỳc kiến thức cần thiết cho số học sinh dõn tộc thiểu số đó tốt nghiệp trung học phổ thụng hoặc trung học cơ sở mà không có điều kiện học tiếp để cỏc em trở về địa phương tham gia công tác ở cơ sở Hội nghị Trung ương 6, khóa IX đó đề ra 3 nhiệm vụ để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII: Một là, nõng cao chất lượng, hiệu quả giỏo dục và đào tạo nhõn tài. Trong nhiệm vụ này, trọng tâm là đổi mới nội dung, chương trỡnh, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn húa, hiện đại húa, ứng dụng cụng nghệ thụng tin vào cỏc cấp học, bậc học. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chớnh sỏch tổ chức phỏt hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhõn tài. Hai là, phỏt triển hợp lý quy mụ giỏo dục cả đại trà và mũi nhọn phục vụ quỏ trỡnh chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trỡnh độ, cơ cấu xú hội; vấn đề bổ tỳc trờn tiểu học cho người lớn và phỏt triển giỏo dục khụng chớnh quy; xõy dựng hệ thống trung tõm học tập cộng đồng. Ba là, thực hiện cụng bằng xú hội trong giỏo dục, tạo cơ hội học tập cho mọi tầng lớp nhõn dõn, nhất là cơ hội học cao đẳng và đại học cho con em nông dân và các gia đỡnh diện chớnh sỏch. Nhỡn lại tỡnh hỡnh đất nước, trải qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân ta đó đạt được những thành tựu to lớn cú ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, cho đến nay, nước ta vẫn chưa thoát ra khỏi tỡnh trạng kộm phỏt triển. Trong khi Việt Nam bước vào quỏ trỡnh cụng nghiệp hỳa, hiện đại húa thỡ nhiều nước đó vượt qua thời đại cỏch mạng cụng nghiệp đi vào thời đại cỏch mạng thụng tin, xõy dựng nền kinh tế tri thức và xú hội tri thức. Khoảng cỏch về trỡnh độ kinh tế, khoa học và cụng nghệ giữa nước ta với các nước phỏt triển trờn thế giới, kể cả một số nước trong khu vực, có xu hướng ngày càng mở rộng thờm, mà một nguyờn nhõn quan trọng là do chất lượng trớ tuệ, năng lực sỏng tạo và kỹ năng chuyên môn cũn bất cập của nguồn nhừn lực. Trước những thỏch thức của thời đại cỏch mạng tri thức gắn liền với quỏ trỡnh toàn cầu hỳ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVĂN 12 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên.doc
Tài liệu liên quan