Văn học Việt Nam - Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Dậu

MỞ ĐẦU. 4

1. Lý do chọn đề tài. 4

2. Lịch sử vấn đề . 4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 6

4. Đối tƯợng và phạm vi nghiên cứu. 7

5. PhƯơng pháp nghiên cứu. 7

6. Đóng góp của luận văn. 8

7. Cấu trúc của luận văn. 8

CHƯƠNG 1: TRUYỆN NGẮN NGUYỄN DẬU TRONG DIỆN MẠO

TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI. 9

1.1. Diện mạo truyện ngắn Việt Nam đương đại. 9

1.1.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa . 9

1.1.2. Những thành tựu của thể loại truyện ngắn . 14

1.2. Tác giả Nguyễn Dậu và hành trình sáng tác

1.2.1. Tác giả Nguyễn Dậu.

1.2.2. Hành trình sáng tác.

2.1. Giới thuyết về nhân vật văn học .

2.1.1. Đặc điểm nhân vật trong văn học giai đoạn trước 1986.

2.1.2. Đặc điểm nhân vật trong văn học giai đoạn sau 1986 .

2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Dậu

2.2.1. Nhân vật cô đơn .

pdf22 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 510 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Văn học Việt Nam - Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Dậu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho thỏa chí tang bồng hồ thỉ, văn chƣơng là sống, yêu, hi vọng và hƣớng tới những điều tốt đẹp nhất”, những tác phẩm mà nhà văn để lại, đặc biệt ở giai đoạn sau Đổi mới, đã chứng minh giá trị nhân văn sâu sắc đằng sau những trang viết vô cùng hấp dẫn của ông. Từ sau 1975, đời sống xã hội và văn hóa Việt Nam bƣớc sang một thời kì mới, thời kì thống nhất đất nƣớc, tự do, hòa bình và dân chủ. Từ đó trở về sau, văn học thoát khỏi những ràng buộc thời chiến, mở rộng đôi cánh tự do, thỏa sức vẫy vùng ở mọi đề tài và đa cách thể hiện. Các nhà văn càng ngày càng xuất hiện nhiều hơn, với lƣợng tác phẩm dồi dào và giàu sức sáng tạo. Trong giới phê bình, nghiên cứu văn học, có một xu hƣớng ƣu tiên và hƣớng đến các tên tuổi mới, với nhiều phá cách trong lối viết và cách lựa chọn đề tài. Với các nhà văn viết từ trong chiến tranh bƣớc sang thời kì Đổi mới, phê bình văn học chủ yếu hƣớng đến các tên tuổi quen thuộc nhƣ Bảo Ninh, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp Cái tên Nguyễn Dậu dƣờng nhƣ bị lãng quên. Về vấn đề này, một phần đƣợc lí giải bởi những thăng trầm trong nghề viết khiến cái tên của ông bẵng đi nhiều thập kỉ trên văn đàn. Với tình hình đó, một lần nữa, giá trị văn chƣơng của Nguyễn Dậu cần đƣợc khẳng định lại. Với gia tài truyện ngắn đầy hơi thở đƣơng đại đƣợc nhà văn viết từ sau năm 1975 đến thập kỉ đầu của thế kỉ XXI, văn học Việt Nam có thêm một sắc thái mới, không trộn lẫn với bất cứ tác giả nào. Luận văn Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Dậu hy vọng sẽ đƣa lại cái nhìn đầy đủ và chi tiết hơn về thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Dậu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài hƣớng tới việc giải quyết những vấn đề sau: 7 3.1 Chỉ ra và phân tích đƣợc những biểu hiện về thế giới nhân vật trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Dậu thông qua các kiểu nhân vật 3.2 Chỉ ra và phân tích đƣợc một số phƣơng diện nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Dậu nhƣ cốt truyện, tình huống truyện, không gian, thời gian nghệ thuật, giọng điệu trần thuật. Từ việc giải quyết những vấn đề trên luận văn giới thiệu đến bạn đọc Việt Nam một tên tuổi xuất sắc của nền văn học Việt Nam đƣơng đại. Từ đó có cái nhìn đầy đủ những thành tựu cũng nhƣ đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Dậu trong dòng chảy văn học đƣơng đại Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Nhƣ tên đề tài đã xác định, đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Dậu, khảo sát trong các tập truyện ngắn của ông đƣợc viết từ sau năm 1986 4.2 Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Dậu, tập trung ở các tập truyện ngắn đƣợc viết từ sau năm 1986, bao gồm: Con thú bị ruồng bỏ (1990), Đôi hoa tai lóng lánh (1996), Bảng lảng hoàng hôn (1997), Gió núi mây ngàn (2000). Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sẽ có sự đối sánh với các tác phẩm khác cùng nằm trong dòng chảy văn học đƣơng đại Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi đƣa vào sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu sau: - Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống. - Phuơng pháp phân tích, tổng hợp - Phuơng pháp loại hình 8 - Phuơng pháp phân tích văn bản Quá trình nghiên cứu đề tài đồng thời sử dụng các thao tác: so sánh - đối chiếu nhằm bổ trợ cho việc triển khai đề tài. 6. Đóng góp của luận văn Trên cơ sở nghiên cứu về đơn vị tác giả từ sự khảo sát mô hình thế giới nghệ thuật, luận văn đƣa lại những hiểu biết về một tác giả truyện ngắn có phong cách riêng độc đáo của văn học đƣơng đại Việt Nam. Từ đó, giúp bạn đọc và giới nghiên cứu có đƣợc hình dung rõ nét và chính xác hơn về một tác giả có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam đƣơng đại nhƣng dƣờng nhƣ đang bị lãng quên trong một thời gian dài. Đồng thời khẳng định về một thời đại văn học Việt Nam, đạt nhiều thành tựu trong thời gian gần đây. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Truyện ngắn Nguyễn Dậu trong diện mạo truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại Chƣơng 2: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Dậu Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Dậu 9 CHƯƠNG 1: TRUYỆN NGẮN NGUYỄN DẬU TRONG DIỆN MẠO TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 1.1. Diện mạo truyện ngắn Việt Nam đương đại 1.1.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa Đời sống xã hội luôn vận hành theo quy luật của sự biến đổi. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, nhà văn với tƣ cách chủ thể sáng tạo luôn là nhân tố chịu sự va đập của đời sống. Mỗi ngƣời viết với bản lĩnh và tài năng, vốn sống, vốn văn hóa, tri thức và sự trải nghiệm sẽ chịu những ảnh hƣởng tác động khác nhau. Từ thực tiễn đời sống vào sáng tác là cả một quá trình thẩm thấu và khúc xạ qua lăng kính của ngƣời 10 nghệ sĩ. Mỗi giai đoạn văn học luôn có những đặc thù do sự quy định của lịch sử, đời sống tinh thần, ý thức nghệ thuật và khả năng sáng tạo của ngƣời cầm bút. Văn học Việt Nam đƣơng đại trải qua bốn thập kỉ ghi dấu nhiều đổi thay, trong đó sự biến động của đời sống lịch sử, xã hội, văn hóa đóng một vai trò quan trọng lên thành tựu của văn học đƣơng đại nói chung, truyện ngắn đƣơng đại nói riêng. Trƣớc hết, phải kể đến ngọn nguồn những điều kiện thuận lợi từ truyền thống văn học nƣớc nhà mà truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại đƣợc thừa hƣởng. Từ những năm đầu của thế kỉ XX, chữ Quốc ngữ đã thay thế chữ Nôm, chữ Hán trong sáng tác văn học. Đây đƣợc xem nhƣ là dấu hiệu đầu tiên của quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Sang đến những năm 30 của thế kỷ XX, cùng với quá trình hiện đại hóa văn học, truyện ngắn đã có những bƣớc chuyển rõ rệt trở thành một bộ phận quan trọng, làm nên diện mạo của nền văn học dân tộc. Nhờ tiếp thu kinh nghiệm của phƣơng Tây, truyện ngắn đƣợc viết theo lối mới, mới từ cách xây dựng nhân vật đến nghệ thuật kể chuyện, ngôn ngữ Truyện ngắn trong giai đoạn 1930 – 1945 chƣa bao giờ phong phú và đặc sắc nhƣ thế, với nhiều tác giả, tác phẩm có dấu ấn, phong cách riêng. Truyện ngắn trữ tình của Thạch Lam, Thanh Tịnh; truyện ngắn phong tục của Bùi Hiển, Kim Lân; truyện ngắn hiện thực phê phán của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng. Văn học hiện thực tập trung phơi bày thực trạng bất công thối nát của xã hội, đi sâu phản ánh tình cảnh khốn khổ của tầng lớp nhân dân với sự cảm thông sâu sắc. Đã có những trang miêu tả phân tích tâm lý đạt tới trình độ bậc thầy nhƣ truyện ngắn của Nam Cao. Chủ đề thế sự đƣợc các nhà văn đã đề cập đến với thái độ phê phán xã hội trên tinh thần dân chủ và nhân đạo. Chỉ sau hơn một thập niên, chúng ta đã thấy xuất hiện nhiều tác phẩm đặc sắc. Với một bề dày truyền thống nhƣ thế, truyện ngắn đƣơng đại có đƣợc một điều kiện khá thuận lợi để tạo đà phát triển sau này. Sau năm 1975, đặc biệt từ sau thời kì đổi mới, truyện ngắn với những cách tân về nội dung, hình thức đã mang đến cho nền văn học Việt Nam thêm nhiều khí sắc mới. Văn xuôi nƣớc nhà từ đây đã có nhiều “thay da đổi thịt”. Bên cạnh đội ngũ nhà văn trƣởng thành từ hai cuộc chiến nhƣ Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu là sự xuất hiện của hàng loạt cây bút trẻ đầy triển vọng nhƣ Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tƣ, Đỗ Hoàng Diệu Sự phát triển đó một phần chính là nhờ nền tảng, nhƣ một sức bật đƣợc tạo đà từ những thành tựu văn xuôi đầu thế kỷ XX. 11 Một yếu tố quan trọng khác phải kể đến là những biến động xã hội sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, bối cảnh đó đã làm nảy nở nhu cầu đƣợc đổi mới trên mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có nghệ thuật. Đại thắng mùa xuân năm 1975 kết thúc thắng lợi, mở ra một thời kì mới trong lịch sử dân tộc. Niềm vui chƣa trọn vẹn khi ta phải đối mặt với nhiều thách thức, biến động thời hậu chiến. Đời sống khó khăn, niềm tin vào lí tƣởng lung lay, sự khập khiễng cách sống Nam Bắc sau thống nhất, những yếu tố đó đã tác động đến xã hội nói chung và đến lực lƣợng văn nghệ sĩ nói riêng. Với sự nhạy cảm riêng có, những nhà văn có sự thay đổi từ trong nhận thức, những va đập mạnh mẽ từ cuộc sống thôi thúc họ thay đổi cách nhìn, cách thể hiện đời sống vào văn học. Trong bối cảnh đó, tháng 12 năm 1986, đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra chƣơng trình đổi mới toàn diện, kêu gọi toàn Đảng, toàn dân nhìn thẳng vào sự thật của đất nƣớc và cuộc sống nhân dân, đáp ứng mọi đòi hỏi của thời đại. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam về “đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đƣa văn học nghệ thuật phát triển lên một bƣớc” ra đời đúng lúc. Đây chính là vận hội cho một nền văn học đang khát khao đổi mới. Một dấu mốc quan trọng là cuộc gặp gỡ của Tổng bí thƣ Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh với gần 200 nghệ sỹ trí thức đại diện cho các ngành điện ảnh sân khấu vào tháng 10 năm 1987 tại Hà Nội. Tại đây, Tổng bí thƣ đã phát biểu và chỉ rõ đặc điểm và hiện trạng văn hóa, nghệ thuật nƣớc ta. Tổng Bí thƣ đã chỉ ra: nhìn từ nhiều năm qua, Đảng chƣa thật sự coi trọng vai trò của văn hóa, hoạt động nghệ thuật phải chịu sƣ áp đặt, không có tính dân chủ. Đây chính là những nguyên nhân gây nên sự khó khăn trong đời sống nghệ thuật. Tổng bí thƣ Nguyễn Văn Linh kêu gọi các nghệ sĩ hãy thay đổi cách viết cho phù hợp với tình hình đất nƣớc. Cuộc sống đổi thay sẽ kéo theo sự thay đổi nhu cầu thẩm mỹ và nhu cầu thƣởng thức. Bối cảnh xã hội mới là ngọn nguồn cảm hứng sáng tạo mới cho nghệ sĩ. Nó còn có ý nghĩa khi các nhà văn đang ôm ấp những hoài bão, khát vọng sáng tạo. Với tinh thần đó, nhà văn nhƣ đƣợc cởi trói, có điều kiện để viết một cách tự do hơn. Tự do trong sáng tác là một động lực quan trọng cho sự xuất hiện một lực lƣợng nhà văn mới đông đảo. Bên cạnh đó, Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đang đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá, một mặt giúp kinh tế phát triển, mặt khác, đƣa lại nhiều hệ lụy về xã hội, đời sống. Sự đầu tƣ về cơ sở hạ tầng tỉ lệ thuận với sự xuất hiện và phát triển của các trung tâm kinh tế, văn hoá. Các đô thị ồn ã, đông đúc với những 12 toà nhà cao tầng san sát mọc lên lấn dần và thay thế những vùng ngoại ô trong mát, những làng quê yên bình trƣớc đây. Nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng đƣợc hình thành về cơ bản là một trong những thành tựu đáng ghi nhận. Đồng thời chính nó lại khiến cho sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn. Điều này ảnh hƣởng không nhỏ đến đời sống tinh thần, tình cảm của con ngƣời. Quan hệ cộng đồng khép kín trong luỹ tre làng với làng xã, xóm giềng, dòng họ vốn rất bền chặt cũng theo đó rạn nứt, lỏng lẻo đi. Quan hệ tình nghĩa tƣơng thân tƣơng ái vốn là quan hệ chủ yếu giữa con ngƣời với con ngƣời trƣớc đây cũng bị quan hệ buôn bán thị trƣờng xâm lấn mà mất đi vẻ đẹp truyền thống của nó. Trong xu thế mở cửa, việc giao lƣu với các nền văn hoá trên thế giới đƣợc Đảng và nhà nƣớc ta khuyến khích. Nhờ phƣơng tiện giao thông thuận lợi cũng nhƣ sự bùng nổ của truyền thông đại chúng mà việc hội nhập đa phƣơng với thế giới bên ngoài trở nên dễ dàng hơn. Lối sống Tây phƣơng theo con đƣờng đó du nhập ồ ạt vào nƣớc ta. Không khí cởi mở có đƣợc sau chủ trƣơng đổi mới của Đảng cộng với tinh thần dân chủ du nhập theo các trào lƣu tƣ tƣởng và lối sống Tây Âu là điều kiện dẫn đến dân chủ hóa trở thành xu thế lớn của xã hội và trong đời sống tinh thần của con ngƣời từ những năm 80 trở đi. Đồng thời, trong xu thế mở cửa, toàn cầu hoá, chúng ta cũng phải đối diện với những biến động dữ dội trong nền chính trị thế giới, những vấn đề nóng bỏng mà nhân loại đang phải cùng nhau tìm cách giải quyết. Con ngƣời, đặc biệt ở các đô thị lớn đƣợc sống trong một thế giới tiện nghi, một đời sống vật chất đầy đủ và giữa rất nhiều luồng thông tin đa chiều. Những biến đổi trong xã hội cũng khiến cho nhịp sống chậm của nền nông nghiệp lúa nƣớc trƣớc đây đang đƣợc dần thay thế bởi nhịp sống hối hả, nhanh gấp của guồng máy công nghiệp. Những điều kiện vật chất và tinh thần này ảnh hƣởng không nhỏ đến đời sống của con ngƣời Việt Nam, đặc biệt là thanh thiếu niên. Những biến động trong hoàn cảnh xã hội tác động sâu sắc đến trạng thái tâm lí, cách nghĩ, cách cảm của con ngƣời Việt Nam. Một mặt con ngƣời đƣợc sống trong không khí dân chủ, không bị ràng buộc, bó hẹp nhƣ trƣớc đây. Con ngƣời đƣợc tự do bộc lộ cái tôi cá nhân của mình, đƣợc nói lên quan điểm, tƣ tƣởng của mình một cách thoải mái hơn. Nhƣng mặt khác, trƣớc sự xô bồ của cuộc sống vận động theo cơ chế thị trƣờng, trong thế giới của tiện nghi, đồ vật và trong sự hỗn dung của vô 13 vàn các nguồn thông tin, con ngƣời bỗng trở nên bé nhỏ, đơn độc. Con ngƣời ngày càng hoang mang, hoài nghi, âu lo trƣớc hiện thực đầy bất trắc. Trong thời mở cửa, với không khí dân chủ hoá thì việc giao lƣu văn hóa, văn học với nƣớc ngoài ở nƣớc ta càng trở nên dễ dàng. Văn học Việt Nam đang hoà nhập với bầu khí quyển chung hiện đại, hậu hiện đại của thế giới. Văn học nƣớc ta đang tiếp thu những thành tựu văn hoá, văn học của thế giới để làm phong phú cho đời sống văn học của chính mình; đồng thời cũng có nhiều cơ hội để phổ biến những thành tựu của mình ra thế giới. Nhiều tác phẩm của các nhà văn nƣớc ngoài, nhiều lý thuyết sáng tác và phƣơng pháp nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại đƣợc dịch và giới thiệu khá công phu trong nƣớc ta. Đặc biệt là các sáng tác của các nhà văn có nhiều cách tân, đổi mới trong tƣ duy, quan niệm cũng nhƣ trong nghệ thuật của nền văn học hậu hiện đại có ảnh hƣởng to lớn đến các nhà văn trong nƣớc. Có thể kể tên các nhà văn có ảnh hƣởng lớn đó nhƣ: Bơnơt So, Franz Kafka, Bectôn Brêcht, Ơnixt Hêminguây, Anbe Camuy, Xamuyen Bêcket, Ơgien Iônexcô, Dan Brow, Mạc Ngôn, Haruki Murakami Các nhà văn trẻ nƣớc ta còn chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ từ các nhà văn 7X, 8X của Trung Quốc (bởi trong những năm gần đây sáng tác của họ đƣợc dịch rất nhiều ở Việt Nam) nhƣ: Vệ Tuệ, Miên Miên, Trƣơng Duyệt Nhiên, Quách Kính Minh, Xuân Thụ Một loạt các lý thuyết của thế kỉ XX về văn hoá học và thi pháp học của Bakhtin, về loại hình học cấu trúc của Propp, về xã hội học văn học của Excapit và của Gonman, về phân tâm học của Frơt và của Jung, chủ nghĩa cấu trúc của Lôtman, chủ nghĩa hình thức Nga, mĩ học tiếp nhận của Jauxơ, về lý thuyết tiếp nhận văn học theo kiểu hiện tƣợng học của Ingarđin cũng đã đƣợc dịch và giới thiệu khá tƣờng tận. Các nhà văn Việt Nam đang chịu ảnh hƣởng của bầu không khí chung văn hoá thế giới – một không khí đang nóng lên từng ngày bởi những chuyển động mãnh liệt của các xu hƣớng, khuynh hƣớng khác nhau. Những nỗ lực của các nhà nghiên cứu, của đông đảo bạn đọc, ngoài việc phát hiện cái hay, cái đẹp của tác phẩm cũng có tác dụng định hƣớng cho sáng tác và đòi hỏi những sáng tạo, nỗ lực từ phía đội ngũ sáng tác. Cũng trong không khí tự do, dân chủ, việc in ấn, cho ra đời một quyển sách hiện nay không mấy khó khăn. Sự kiểm duyệt không quá gắt gao, cơ chế bao cấp đã xoá bỏ càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc cho ra đời một cuốn sách. Các phƣơng tiện truyền thông, báo chí, nhà xuất bản sẵn sàng làm công việc quảng bá tác phẩm mới đã góp phần khuyến khích nhiệt tình sáng tạo của nhà văn. Đặc biệt, trong cơ chế thị trƣờng, các nhà in làm việc với tôn chỉ hàng đầu là lợi 14 nhuận thì ƣớc muốn của một nhà văn muốn có một tuyển tập cho riêng mình trở nên khá dễ dàng. Việc đổi mới quản lý trong lĩnh vực nghệ thuật cũng góp phần nhất định cho quá trình đổi mới văn học. Cách thức quản lý ngày càng tỏ ra có chuyên môn hơn, có ý thức tôn trọng tài năng, khuyến khích sáng tạo cũng đã khiến ngƣời viết hăng hái hơn trong việc làm mới mình. Mặt khác, việc xâm nhập của văn học dịch khiến bạn đọc có thêm điều kiện để mở mang “tầm đọc” của mình. Những cách thể hiện mới mẻ của văn học nƣớc ngoài đã thống trị văn hóa đọc cũng là một áp lực buộc văn học trong nƣớc phải làm mới mình, phát triển để kịp tầm đón đợi của ngƣời đọc. Đặc biệt, lực lƣợng độc giả chuyên nghiệp cũng ngày càng đƣợc mở rộng, họ vừa là bạn đọc, vừa là nhà phê bình, một phần định hƣớng cách thức, khiến văn học không ngừng phải sáng tạo để không bị bạn đọc “bỏ rơi”. Trên cơ sở đó, từ năm 1986 đến nay, văn học phát triển song song với những chuyển biến của đất nƣớc. Các nhà văn mang trong mình quan điểm sáng tác mới, ngôn ngữ văn học đƣợc hiện đại hóa cho phù hợp với sự phát triển của thời đại. Không khí dân chủ trong đời sống xã hội đã tạo điều kiện cho văn học phát triển mạnh mẽ và toàn diện. Các thể loại văn học nhƣ thơ, truyện ngắn, kí, tiểu thuyết phát triển khá đồng đều và có những bƣớc đột phá quan trọng, đạt đƣợc những thành tựu đáng kể, góp phần làm nên diện mạo phong phú cho văn học nƣớc nhà. 1.1.2. Những thành tựu của thể loại truyện ngắn Thành tựu văn học nói chung không chỉ thể hiện ở thể loại truyện ngắn mà nó bao quát toàn bộ đời sống văn học, trên nhiều thể loại, nhiều phƣơng diện. Tuy nhiên, thành tựu nổi bật của văn xuôi Việt Nam đƣơng đại đƣợc ghi dấu đặc biệt bởi thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn là thể loại tập trung nhiều yếu tố của một nền văn học đang đổi mới. Truyện ngắn phát triển ồ ạt về số lƣợng, mạnh mẽ về chất lƣợng. Tất cả những bề bộn, đa chiều của cuộc sống đều đƣợc đƣa vào truyện ngắn một cách cụ thể, sinh động. Do đặc trƣng của một thể loại có hình thức nhỏ, gọn nên truyện ngắn có thể luồn lách vào mọi ngõ ngách tâm hồn con ngƣời, bám sát hiện thực đa chiều của cuộc sống, thậm chí, soi rọi vào cả thế giới tâm linh. Cũng bởi hình thức nhỏ gọn này và thêm lợi thế của một thể văn xuôi, nên khác với thơ – trừu tƣợng và thiên cảm xúc, khác với tiểu thuyết – cồng kềnh và kén bạn đọc, truyện ngắn chiếm đƣợc nhiều hơn cả sự đón đợi của ngƣời đọc, chất xúc tác quan trọng để thể loại này có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn so với các thể loại khác. 15 Thành tựu ở thể loại truyện ngắn có thể đƣợc khái quát trên nhiều phƣơng diện nổi bật. Trƣớc hết, có thể thấy đƣợc sự nở rộ, đua chen của các thế hệ nhà văn trong hoạt động sáng tác. Từ sau Đổi mới, chúng ta đƣợc chứng kiến cảnh tƣợng văn học nƣớc nhà khởi sắc với sự xuất hiện của những nhà văn ở các lứa tuổi khác nhau, sinh ra trong hoàn cảnh lịch sử khác nhau, có thể gặp nhau hoặc đối nghịch trong quan niệm về cuộc sống và văn chƣơng, nhƣng các thế hệ cầm bút đều đang nỗ lực sáng tạo, ở mỗi thế hệ đều quy tụ những ngòi bút tạo nên đƣợc một phong cách nghệ thuật của riêng mình. Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu, văn học đƣơng đại Việt Nam từ năm 1975 đến nay trải qua ba giai đoạn: 1975 - 1985, 1986 – 1993 và 1994 đến nay, và ở mỗi giai đoạn đều có một thế hệ nhà văn đông đảo về số lƣợng, đa dạng về phong cách văn học. Trong đó, chặng hai từ 1986 đến những năm đầu thập niên 1990 là giai đoạn quan trọng nhất. Đây là giai đoạn đất nƣớc chuyển mình từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trƣờng với tất cả những biến động của đời sống hết sức phong phú và phức tạp. Truyện ngắn là thể loại phổ biến, thích hợp với mọi công chúng, bạn đọc. Quan niệm hiện thực của các nhà văn đang mở ra những tầm nhìn mới, con ngƣời đƣợc nhìn nhận dƣới góc độ thế sự đời tƣ và đƣợc khám phá trong quan hệ với cõi đời, với mọi ngƣời và chính nó. Nhà văn quan tâm hơn đến số phận riêng tƣ, nhân cách, những đấu tranh, giằng xé, lựa chọn và khát vọng, cả hạnh phúc lẫn khổ đau, đƣợc mất, vui buồn của con ngƣời. Bởi vậy, giai đoạn này đánh dấu nhiều tên tuổi, tạo nên diện mạo mới cho văn học nƣớc nhà. Trƣớc hết là sự đổi mới của các nhà văn đã có bề dày sáng tác ở giai đoạn trƣớc nhƣ Nguyễn Minh Châu – nhà văn tiên phong ở thể loại truyện ngắn với những tác phẩm: Bức tranh (1982), Bến quê (1985), Cỏ lau (1987). Nguyễn Minh Châu luôn ý thức “đi tìm hạt ngọc ẩn giấu bên trong bề sâu tâm hồn con ngƣời”. Bên cạnh đó là một Nguyễn Khải vẫn thống nhất và biến hóa trong ngòi bút triết luận tỉnh táo. Với cách kể chuyện tự nhiên, dân dã nhƣng sâu sắc, Nguyễn Khải đã góp phần không nhỏ vào sự đổi mới văn học với các tập truyện ngắn Một người Hà Nội (1990), Một thời gió bụi (1993), Hà Nội trong mắt tôi (1995). Xuất hiện vào thời kì đầu Đổi mới đóng góp chung nổi bật của thế hệ nhà văn này là đoạn tuyệt với lối viết hiện thực tô hồng quen thuộc cũ để nói lên sự thực bằng hình ảnh, bằng biểu tƣợng, bằng ẩn dụ, bằng kí hiệu ngôn ngữ. Một mặt, họ vừa phản ánh đƣợc bộ mặt thật của xã hội, mặt khác, họ đƣa ra lối viết độc đáo, trình bày hiện thực khác hẳn với những ngƣời đƣơng thời. Nhƣ lời nhận xét của nhà phê bình Thuỵ Khuê về Nguyễn Huy Thiệp: Ông đã tạo ra 16 “khuynh hƣớng cực thực sắc bén, ngôn ngữ phũ phàng, cô đọng và đã ảnh hƣởng sâu xa đến những ngƣời đi sau”. Đó cũng là tinh thần chung của thế hệ nhà văn giai đoạn này. Từ cuối những năm 1990 đến nay, trong xu thế đời sống xã hội ổn định, văn học cơ bản cũng trở lại với quy luật mang tính đời thƣờng, nhƣng không tách rời định hƣớng tƣ duy nghệ thuật trong những năm đầu đổi mới. Thế hệ nhà văn giai đoạn này còn rất trẻ, sinh ra trong những năm 70, 80 của thế kỷ trƣớc, họ đang rất nỗ lực sáng tạo những giá trị mới cho văn học. Họ đã viết và đang viết những tác phẩm vƣợt ra ngoài khuôn sáo cũ. Nhiều cây bút có sự bứt phá trong cách thể hiện từ đề tài, bút pháp tạo cho mình một phong cách rất riêng. Nguyễn Huy Thiệp khai thác nhiều đề tài với ngòi bút sắc lạnh đến tàn nhẫn. Phạm Thị Hoài có tập truyện ngắn Mê Lộ (1989) mang dấu ấn của triết học và kĩ thuật phƣơng Tây đậm nét. Năm 2004, với truyện ngắn Bóng đè, Đỗ Hoàng Diệu đã tạo nên một cuộc tranh luận sôi nổi trên văn đàn. Tác phẩm đƣợc xây dựng dựa trên một câu chuyện nhiều tính dục. Với lối viết táo bạo, Đỗ Hoàng Diệu đã qua những khát khao tình dục của ngƣời phụ nữ gửi đến độc giả những thông điệp giàu ý nghĩa về cuộc sống. Năm 2005, Nguyễn Ngọc Tƣ thật sự gây ấn tƣợng trên văn đàn với truyện ngắn Cánh đồng bất tận. Rồi Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Y Ban, Hồ Anh Thái Truyện ngắn của các tác giả thƣờng xoay quanh cuộc sống thƣờng nhật ẩn chứa nhiều tƣ tƣởng sâu sắc. So với truyện ngắn trƣớc đó, giai đoạn này thật sự có một bƣớc tiến mới. Sáng tác của những ngòi bút trẻ có sự đa dạng trong cách trình bày hiện thực, chú ý đến nhiều khía cạnh khác nhau của xã hội hiện đại và sự can đảm nói lên những điều đáng nói, không sợ sức ép của những tƣ tƣởng bảo thủ. Có thể lƣợc dẫn ở đây theo chiều vận động của thời gian và không gian mở ra từ Đổi mới mà truyện ngắn đã tạo dựng. Đoàn Lê, Nguyễn Quang Lập, Y Ban, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Thiều, Bảo Ninh là những “kiến trúc sƣ” lứa đầu. Xuất hiện trên các diễn đàn Sông Hƣơng, Văn nghệ quân đội, Văn nghệ, họ đã nhanh chóng khẳng định đƣợc ngòi bút của mình. Y Ban, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Thiều đều định hình từ trong cuộc thi truyện ngắn 1989 của Văn nghệ quân đội. Riêng Tạ Duy Anh còn để lại một dấu ấn khó nhòa bằng truyện ngắn xuất sắc Bước qua lời nguyền trên tuần báo Văn nghệ (1989). Cả ba nhà văn này đều viết rất khỏe sau đó, gặt hái nhiều thành công, trở thành những cây bút truyện ngắn vững chãi dù đặt bút ở nhiều thể loại. Hòa Vang, Hồ Anh Thái, Trần Đức Tiến, Phạm Ngọc Tiến, Cao Duy Sơn cũng xuất hiện cùng lúc này nhƣng những tác phẩm để lại nhiều tiếng vang đều từ thập kỷ 90 trở đi. 17 Cùng lúc với sự xuất hiện của một thế hệ nhà văn mới: Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Xuân Hà, Phan Thị Vàng Anh, Phan Triều Hải, Lƣu Sơn Minh Ở đấy, những cây bút nữ đã để lại một ấn tƣợng sâu đậm về nữ tính và nữ quyền. Mỗi ngƣời một vẻ, họ đã làm thành một giai đoạn có thể nói là rực rỡ nhất của văn học giới nữ Việt Nam. Trong khi ở giới bên kia, cũng định hình những giọng văn hết sức độc đáo và mới lạ, nhất là trong cách mà họ ứng xử với xã hội và nghệ thuật. Sang thế kỷ XXI, các nhà văn nhƣ Phong Điệp, Đỗ Bích Thúy, Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Ngọc Thuần, Đỗ Hoàng Diệu, Trần Nhã Thụy, Nguyễn Ngọc Tƣ, Nguyễn Danh Lam,đã làm nên một gƣơng mặt truyện ngắn. Có thể khẳng định mà không sợ quá lời rằng thành tựu của truyện ngắn Việt Nam đƣơng đại là rõ rệt, phong phú, đa dạng và sâu sắc. Các thế hệ nhà văn đang nỗ lực không ngừng trên con đƣờng sáng tạo. Dù con đƣờng họ đang đi có theo những ngã rẽ khác nhau nhƣng họ đang chung sức hợp lực để đƣa nền văn học nƣớc nhà phát triển, hoà nhập vào dòng chảy hiện nay của văn học thế giới.Với ý thức sâu sắc về nghề nghiệp, các nhà văn Việt Nam đang dồn hết tâm huyết, tài năng của mình để khai thác những vỉa tầng nội dung mới và tìm tòi những thể nghiệm mới trong hình thức nghệ thuật, từ đó đƣa văn học nƣớc nhà thoát khỏi quán tính của những quan niệm văn học cũ, thoát khỏi sự trì níu của lối viết truyền thống để tiếp cận với văn học hiện đại, hậu hiện đại thế giới. Thành tựu của truyện ngắn còn đƣợc thể hiện thông qua sự tha

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004641_7535_2006162.pdf
Tài liệu liên quan