Xây dựng EFAS cho Vietcombank

Liên kết, hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước

 

Vpbank chọn OCBC là đối tác chiến lược của mình trong phương hướng phát triển thời gian tới. Trở thành cổ đông chiến lược của Vpbank, OCBC sẽ hỗ trợ VPBank về mặt kỹ thuật, công nghệ, đào tạo quản trị rủi ro và công nghệ thông tin Ngân hàng này sẽ giúpVPBank mở rộng hợp tác với ngân hàng nước ngoài, nhanh chóng tiếp cận công nghệ hiện đại. Đây sẽ là môi trường tốt cho cán bộ điều hành của Vpbank bắt nhịp được với công gnhẹ quản trị ngân hàng tiên tiến trên thế giới, giúp VPBank nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh khi hội nhập.

 

Vpbank được các thành viên của “Sàn giao dịch vàng SJC” uỷ quyền là đơn vị lưu ký và ngân hàng thanh toán của sàn. Vpbank hội tụ tất cả những điều kiện tốt nhất để hỗ trợ cho hoạt động giao dịch của sàn. Vì vậy, Vpbank sẽ có thêm 1 lượng khách hàng mới là những nhà đầu tư vàng chuyên nghiệp.

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1764 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng EFAS cho Vietcombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t của các ngân hàng là lãi suất cho vay chỉ còn quay xung quanh mức 10%( thấp hơn đàu năm 2008). Vì vậy sẽ rất khó khăn để có thể thu được nhiều lợi nhuận từ việc cho vay. Trong khi đó, dự báo tình hình kinh tế 2009 sẽ khó khăn hơn khi xuất khẩu bị thu hẹp, hoạt đọng sản xuất, tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp bị giảm sút( nhất là đối với doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Úc và EU…), từ đó doanh nghiệp trong nước nhiều khả năng sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn năm 2008 và điều này sẽ tác động làm giảm nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp. Đó là chưa kể những khó khăn khác như lượng kiều hối chuyển về cũng ít hơn, do thất nghiệp gia tăng vì suy thoái kinh tế. Như vậy nguồn USD đáp ứng nhu cầu nhập khẩu có thể bị thiếu. Tỷ giá ngoại hối sẽ bị biến động nếu không có sự can thiệp kịp thời của NHNN… Do vậy có thể dự đoán hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong năm 2009 sẽ rất khó khăn. c) Rủi ro hoạt động thẻ. Thời gian vừa qua, hiệp hội ngân hàng Việt Nam đã nhận được phản ánh của một số tổ chức hội viên có hoạt đọng kinh doanh thẻ về việc xuất hiện những giao dịch lạ (rút tiền bằng thẻ của khách) trên máy ATM. Nhiều khách hàng khiếu nại tại thời điểm có giao dịch, khách hàng mang thẻ theo người và không thục hiện bất cứ giao dịch rút tiền nào từ tài khoản. Đây có thể là hành vi lấy cắp dữ liệu của khách hàng để sản xuất thẻ giả và xâm hại tài khoản của khách hàng Nếu hoạt động này diễn ra trên phạm vi rộng, sẽ gây tâm lý lo lắng, hoang mang cho khách hàng, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh thẻ của các ngân hàng hiện nay và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chủ trương của chính phủ về việc khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt. d)Những biện pháp điều chỉnh của nhà nước kể từ ngày 12/02, lãi suất cho vay tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của nhà nước bằng đồng Việt Nam (VND) là 6,9%/ năm, bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi là 5,4%/ năm. Như vậy, mức lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của nhà nước bằng đồng Việt Nam đã được điều chỉnh từ 10,2% trước đó xuống còn 6,9%; bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi là 6,9%/năm xuống còn 5,4%/ năm. mức lãi suất được tính hỗ trợ sau đầu tư đối với dự án vay vốn bằng Việt Nam đồng là 2,1%/ năm, đối với dự án vay vốn bằng ngoại tệ là 0,6%/ năm. Ngân hàng nhà nước ban hành quyết định 1141/QĐ-NHNN về việc buộc các ngân hàng kể từ ngày 1.6 phỉa tăng điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 10%, gấp đôi so với mức cũ. Theo quy định mới, tỉ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB) đối với tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng bằng Việt Nam đồng đối với NHTMNN, NHTM cổ phần đô thị, liên doanh, chi nhánh NH nước ngoài, công ty tài chính là 10%. Riêng NH nông nghiệp và phát triển nông thôn là 8% tính trên tổng số dư tiền gửi phải DTBB… Các NHTM đang phản ứng rất gay gắt về quyết định này và cho rằng: nếu phải tăng tỉ lệ DTBB sẽ ảnh hưởng đến việc cho vay của các NH. Nguồn cho vay sẽ bị cắt giảm, có nghĩa là nếu 1 NH huy động được 10 đồng thì chỉ cho vay được 9 đồng thay vì 9,5 đồng như trước kia. Trong khi đó, đối với hoạt động NH, nguồn thu mang về lớn nhất chính là lợi nhuận từ các khoản cho vay. Tăng tỉ lệ DTBB đồng nghĩa với việc làm giảm lợi nhuận của NH. Và kéo theo đó là rất nhiều những hiện tượng tiêu cực đối với nền kinh tế. e)Việc cung ứng vốn gặp khó khăn Tình hình cung - cầu vốn tại một số ngân hàng thương mại nhà nước trở nên khó khăn hơn trước từ sau Tết Nguyên Đán tới nay. Tại một trong số này, tổng lượng tiền gửi của các tổ chức kinh tế đã giảm tới 7.000 tỷ đồng tính từ đầu năm. Một vị lãnh đạo ngân hàng cho biết, nhiều khách hàng doanh nghiệp đang hạn chế tối đa vay vốn ngân hàng mà chỉ sử dụng vốn tự có. Xu hướng này vẫn đang tiếp diễn và thực sự là tín hiệu đáng ngại! Lượng vốn mà ngân hàng này đã giải ngân từ đầu năm đã lên tới 5.000 tỷ đồng. Lượng tiền gửi của dân cư gần như không tăng khiến cho ngân hàng đang từng bước tăng lãi suất huy động trở lại. II) Môi trường bên trong. 1.Điểm mạnh ·Công nghệ VP bank đang áp dụng công nghệ tiên tiến nhất thế giới cho các sản phẩm thẻ của mình. Là ngân hàng đi sau trong việc phát hành thẻ nhưng Vpbank lại là ngân hàng dẫ đầu trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại để mã hoá bảo mật thông tin chủ thẻ. Tại Việt Nam, Vpbank hiện là ngân hàng đầu tiên ứng dụng công nghệ thẻ chip tiêu chuẩn EMV cho các sản phẩm thẻ thanh toán quốc tế. Đây là công nghệ mà theo ước tính của VISA, khả năng làm giảm thẻ giảm đến 70% so với thẻ từ. Vì thế, các tổ chức thẻ tên thế giới đề khuyến cáo các ngân hàng nên chuyển dổi công nghệ thẻ của mình từ thẻ từ sang thẻ chip nhằm tránh rủi ro. hiện nay, Vpbank đang áp dụng công nghệ thẻ chip tiêu chuẩn EMV trong việc phát hành 2 dòng thẻ quốc tế là dòng thẻ cho giới trẻ Vpbank Mastrrcard mc2 và thẻ hạng cao cấp VpbankCard Platinum dành cho các thương gia, chủ doanh nghiệp có nhu cầu chi tiêu lớn. Chỉ trong 2 năm trở lại đây, Vpbank đã đầu tư gần 10 triệu USD cho hệ thống công nghệ ngân hàng bao gồm hệ thống Core Banking T24 của hãng Temenos của Thuỵ Sĩ, hệ thóng Way4 của Open Way và hệ thống ATM trải khắp 3 miền. T24 Core Banking là 1 giải pháp tuỳ biến cao, sẽ cho phép Vpbank nhanh chóng phát triển sản phẩm mới, kịp thời cải biến các quy trình hiện có để đáp ứng nhu cầu thị truờng. T24 có thể tự động hoá các lịch trình công việc, do vậy cho phép phản hồi nhanh yêu cầu của khách hàng. Dựa trên T24, việc quản lý dữ liệu khách hàng, xây dựng các sản phẩm mới, tạo các báo cáo về hoạt động ngân hàng... sẽ nhanh chóng và có hệ thống. Liên quan đến hệ thống máy ATM, Vpbank chọn dòng sản phẩm Opteva của Dielbold (Mỹ). Đây làdòng máy tiên tiến nhất thế giới hiện nay. Tất cả các sản phẩm đều được trang bị gương quan sát phía sâu dành cho khách hàng, hệ thống chiếu sáng và giải pháp Camera chuyên dụng đầu tiên và tính đến nay vẫ là duy nhất cho ATM... Với dòng máy này Dielbold còn phát triển đầu lọc thẻ đặc biệt hỗ trợ thẻ chip với chức năng chống câu trộm thẻ và ăn cắp các thông tin trên thẻ. Đây là sản phẩm được các tổ chức có uy tín trong ngành công nghiệp tài chính ngan hàng đánh giá là một sản phẩm với nền tảng công nghệ xuất sắc. ·Văn hóa doanh nghiệp Cho đến ngày hôm nay, VPBank đã hiện diện ở hầu khắp các tỉnh thành phố lớn trong cả nước, các sản phẩm, dịch vụ của VPBank đang ngày càng phong phú, đa dạng. Bằng mọi cách thức tiếp cận, VPBank đã đến được gần hơn với người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức,....., và trở thành người bạn thân thiết, một địa chỉ tin cậy của cá nhân, của doanh nghiệp khi có nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Đạt được những kết quả đáng khích lệ nêu trên là nhờ VPBank có một tập thể Ban lãnh đạo, Hội đồng Quản trị và cán bộ nhận viên đoàn kết, một lòng phấn đấu và cống hiến vì sự phát triển của VPBank; Ban lãnh đạo VPBank gồm những người có kinh nghiệm và làm việc có định hướng, chiến lược rõ ràng; Quan trọng hơn, VPBank nhận được sự ủng hộ của NHNN TW và NHNN chi nhánh các tỉnh thành phố, của các cơ quan ban ngành hữu quan, của đông đảo Cổ đông ở khắp ba miền đất nước và đặc biệt là của khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư trong và ngoài nước. Có rất nhiều con người tài năng gắn bó lâu dài với VPBank cho đến tận thời điểm hiện nay, những con người đồng tâm, góp sức giúp VPBank “vượt cạn” thành công trong giai đợn khủng hoảng, đã tâm sự rằng: nguyên nhân để họ không bỏ Vpbank trong thời kỳ khó khăn tưởng chừng không vực dậy nổi, có 1 phần lớn chính là niềm tin vào ban lãnh đạo ngân hàng - những con người có lúc chỉ có thể dùng lời nói từ trái tim để thuyết phục nhan viên tin vào sự hồi sinh của ngân hàng, tin vào môi trường làm việc của Vpbank trong tương lai. Ban lãnh đạo Vpbank đã cam kết sẽ xây dựng ngân hàng thành một ngôi nhà chung, mà ở đó mọi người sống với nhau thân thiện và chia sẻ như trong 1 gia đình. Sau này, thuật ngữ Vpbank – ngôi nhà chung đó đã là một biểu tượng đáng tự hào trong các buổi giao lưu, giới thiệu về ngân hàng. Một nhân tố khác rất quan trọng và không thể thiếu khi nói đến sự tạo dựng môi trường làm việc của Vpbank như hiện nay chính là đôi nguc nhân viên. Số lượng nhân viên của VPBank trên toàn hệ thống tính đến nay là trên 2.600 người, trong đó phần lớn là các cán bộ nhân viên có trình độ đại học và trên đại học (chiếm 87%). Dù là nhân viên mới hay cũ, đi đâu trong khắp ngân hàng mọi nguời đều có thể bắt gặp những khuôn mặt rất tươi tắn, cởi mở, phong cách năng động và đầy nhiệt tình cống hiến. môi trường VPBank, văn hoá VPBank đã và đang góp phần không nhỏ trong việc giữ lại cho ngân hàng những con người tài năng và chủ chốt. ·Hệ thống mạng lưới chi nhánh. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn. Cuối năm 1993, Thống đốc NHNN chấp thuận cho VPBank mở Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 11/1994, VPBank được phép mở thêm Chi nhánh Hải Phòng và tháng 7/1995, được mở thêm Chi nhánh Đà Nẵng. Trong năm 2004, NHNN đã có văn bản chấp thuận cho VPBank được mở thêm 3 Chi nhánh mới đó là Chi nhánh Hà Nội trên cơ sở tách bộ phận trực tiếp kinh doanh trên địa bàn Hà Nội ra khỏi Hội sở; Chi nhánh Huế; Chi nhánh Sài Gòn. Trong năm 2005, VPBank tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận cho mở thêm một số Chi nhánh nữa đó là Chi nhánh Cần Thơ; Chi nhánh Quảng Ninh; Chi nhánh Vĩnh Phúc; Chi nhánh Thanh Xuân; Chi nhánh Thăng Long; Chi nhánh Tân Phú; Chi nhánh Cầu Giấy; Chi nhánh Bắc Giang. Cũng trong năm 2005, NHNN đã chấp thuận cho VPBank được nâng cấp một số phòng giao dịch thành chi nhánh đó là Phòng Giao dịch Cát Linh, Phòng giao dịch Trần Hưng Đạo, Phòng giao dịch Giảng Võ, Phòng giao dịch Hai Bà Trưng, Phòng Giao dịch Chương Dương. Trong năm 2006, VPBank tiếp tục được NHNN cho mở thêm Phòng Giao dịch Hồ Gươm (đặt tại Hội sở chính của Ngân hàng) và Phòng Giao dịch Vĩ Dạ, phòng giao dịch Đông Ba (trực thuộc Chi nhánh Huế), Phòng giao dịch Bách Khoa, phòng Giao dịch Tràng An (trực thuộc Chi nhánh Hà Nội), Phòng giao dịch Tân Bình (trực thuộc Chi Nhánh Sài Gòn), Phòng Giao dịch Khánh Hội (trực thuộc Chi nhánh Hồ Chí Minh), phòng giao dịch Cẩm Phả (trực thuộc CN Quảng Ninh), phòng giao dịch Phạm văn Đồng (trực thuộc CN Thăng long), phòng giao dịch Hưng Lợi (trực thộc CN Cần Thơ). Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới giao dịch trên đây, trong năm 2006, VPBank cũng đã mở thêm hai Công ty trực thuộc đó là Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản; Công ty Chứng Khoán. Tính đến tháng 8 năm 2006, Hệ thống VPBank có tổng cộng 37 điểm giao dịch gồm có: Hội sở chính tại Hà Nội, 21 Chi nhánh và 16 phòng giao dịch tại các Tỉnh, Thành phố lớn của đất nước là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc; Bắc Giang và 2 Công ty trực thuộc. Năm 2006, VPBank sẽ mở thêm các Chi nhánh mới tại Vinh (Nghệ An); Thanh Hóa, Nam Định, Nha Trang, Bình Dương; Đồng Nai, Kiên Giang và các phòng giao dịch, nâng tổng số điểm giao dịch trên toàn Hệ thống của VPBank lên 50 chi nhánh và phòng giao dịch. Hiện tại VPBank đã có 90 Chi nhánh và Phòng giao dịch hoạt động tại 34 tỉnh, thành trên cả nước. ·Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ Ngân hàng VPBank đã thực hiện khá thành công chương trình đa dạng hoá sản phẩm và các sản phẩm dịch vụ của Vpbank đều hướng đến mục tiêu đảm bảo lợi ích và đáp ứng tối đa nhu cầu của người tiêu dùng. Vpbank được xem là ngân hàng khá năng động trong việc đưa ra các sản phẩm huy động vốn độc đáo, hấp dẫn, đánh trúng tâm lý người dân. Hai sản phẩm được coi là sản phẩm đặc trưng của VPBank là gửi tiết kiệm VNĐ được bù đắp trượt giá USD và gửi tiết kiệm VNĐ đảm bảo bằng USD. Hai sản phẩm này nhằm giải toả tâm lý khách hàng lo ngại VNĐ mất giá, đồng thời tạo cho khách hàng sự yên tâm khi giữ tiền VNĐ ngay cả khi tỉ giá USD/VNĐ biến động mà vẫn đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền. Vì thế nó rất được người dân ủng hộ. Bên cạnh đó là hệ thống thẻ thanh toán, phone banking, internet banking… và máy ATM công nghệ cao, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngày 28/6/2008, VPBank đã chính thức phát hành thẻ thanh toán qua mạng VPBank Master Card E- Card. Như vậy đến nay, Vpbank là ngân hàng đầu tiên phát hành loại thẻ chỉ có chức năng thanh toán qua mạng. Với sản phẩm thẻ này, khách hàng chỉ có thể sử dụng để mua hàng qua internet, đặt vé máy bay qua internet, đặt phòng khách sạn qua điện thoại/ internet… ·Liên kết, hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước Vpbank chọn OCBC là đối tác chiến lược của mình trong phương hướng phát triển thời gian tới. Trở thành cổ đông chiến lược của Vpbank, OCBC sẽ hỗ trợ VPBank về mặt kỹ thuật, công nghệ, đào tạo quản trị rủi ro và công nghệ thông tin… Ngân hàng này sẽ giúpVPBank mở rộng hợp tác với ngân hàng nước ngoài, nhanh chóng tiếp cận công nghệ hiện đại. Đây sẽ là môi trường tốt cho cán bộ điều hành của Vpbank bắt nhịp được với công gnhẹ quản trị ngân hàng tiên tiến trên thế giới, giúp VPBank nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh khi hội nhập. Vpbank được các thành viên của “Sàn giao dịch vàng SJC” uỷ quyền là đơn vị lưu ký và ngân hàng thanh toán của sàn. Vpbank hội tụ tất cả những điều kiện tốt nhất để hỗ trợ cho hoạt động giao dịch của sàn. Vì vậy, Vpbank sẽ có thêm 1 lượng khách hàng mới là những nhà đầu tư vàng chuyên nghiệp. 2.Điểm yếu ·Hoạt động thanh toán quốc tế Trong năm 2008 thị trường ngoại tệ diễn biến khá bất thường, lúc thì dư thừa các NHTM từ chối không mua, lúc lại thiếu nghiêm trọng không ai bán ra, vì vậy trong nhiều giai đoạn VPBank buộc phải thắt chặt điều kiện mở L/C (tín dụng thư) như là: tăng tỷ lệ kí quỹ, yêu cầu khách hàng tự do nguồn ngoại tệ thanh toán… Trước khó khăn đó, doanh số và số lượng cảu hoạt động thanh toán quốc tế của Vpbank năm 2008 đã không đạt được kế hoạch đề ra ·Tình hình nợ xấu của Vpbank. Mặc dù VPBank đã thực hiện các biện pháp rà soát, xử lý nợ xấu, củng cố bộ máy thu hồi nợ ở Hội sở và các chi nhánh, nhưng do ảnh hưởng chung từ những biến động kinh tế trong và ngoài nước, các doanh nghiệp là khách hàng của VPBank cũng gặp nhiều khó khăn, nên tỉ lệ nợ xấu tăng cao là điều không thể tránh khỏi. Nợ xấu từ mức 0.49% tại thời điểm cuối năm 2007 đã tăng lên 3.41% vào thời điểm 31/12/2008. Dự kiến năm 2009 VPBank cũng như các ngân hàng nói chung vẫn phải tiếp tục đối mặt với tình trạng nợ xấu khi nền kinh tế vẫn tiếp tục giảm tốc độ tăng trưởng và thị trường bất động sản vẫn còn chưa tan băng. ·Hoạt động marketing. Hoạt động Marketing của NHTMVN đã có những bước phát triển nhất định nhưng có thể nói rằng hoạt động này vẫn chưa được các ngân hàng quan tâm đúng mức. Gần đây, thương hiệu VPBank ngày càng trở nên quen thuộc với người dân, đặc biệt là những người quan tâm đến ngành tài chính ngân hàng. Công tác xây dựng và quảng bá thương hiệu đã được VPBank chú trọng từ năm 2002 với nhiều hoạt động truyền thông hỗ trợ như: tờ rơi, poster, băng rôn, kết hợp với các hoạt động truyền hình… Tuy nhiên do kinh phí eo hẹp nên hiệu quả mang lại vẫn chưa thật sự cao. ·Hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ của NHTMVN nói chung và VPBank nói riêng còn yếu kém, thiếu tính độc lập. Hệ thống thông tin quản lý và báo cáo tài chính, kế toán chưa đạt chuẩn mực và thông lệ quốc tế, còn mang nặng tính lý thuyết, khuôn mẫu. ·Năng lực tài chính. Theo con số thống kê ngày 1/10/2008, vốn điều lệ của VPBank là 2117 tỷ đồng. Với số vốn điều lệ này, VPBank chỉ được xếp vào top trung bình so với 1 số ngân hàng khác trong nước như NH Á Châu(6355 tỷ đồng), NH Đông Nam Á(2800 tỷ đồng),… So với các ngân hàng nước ngoài thì lại càng khiêm tốn hơn. Áp lực huy động vốn tiếp tục gia tăng, dẫn đến cho vay ra cũng phải cẩn trọng và chọn lọc khách hàng tốt nhất để cho vay, người vay phải trả lãi suất cao. Đồng thời, các biện pháp thắt chặt tiền tệ sẽ làm cho lượng tiền cung ứng ra thị trường ít hơn, việc huy động vốn sẽ khó hơn so với năm 2009. Mặt khác, việc hạn chế mở rộng mạng lưới hoạt động nếu tiếp tục kéo dài trong năm 2010 sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc tăng trưởng thị phần. Tuy nhiên, theo nhận định của ông Lý Xuân Hải, Tổng giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB), nền kinh tế thế giới đã vượt qua khủng hoảng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2010 được dự báo ở mức 4%. Ông Hải cho rằng, chính sự hồi phục này sẽ tác động tích cực đến nền kinh tế Việt Nam và hy vọng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sẽ tăng trưởng tốt trong năm 2010. Những nền kinh tế như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản bắt đầu tăng trưởng trở lại. Khi các nền kinh tế lớn tăng trưởng, không ít thì nhiều kinh tế Việt Nam sẽ được hưởng lợi, dòng vốn FII và đặc biệt là FDI sẽ tốt hơn. Mãi lực đầu tư và thị trường tiêu thụ bắt đầu tăng trưởng trở lại sẽ tác động đến xuất khẩu. Điều đó sẽ giúp các ngành ngân hàng trong nước tận dụng cơ hội để tăng trưởng và phát triển. Mặt khác, theo cam kết WTO sau giai đoạn năm 2010 - 2012, các ngân hàng nước ngoài không bị ràng buộc khi tham gia kinh doanh trên thị trường Việt Nam và trước đó khi đàm phán WTO, nhiều người dự báo trong năm 2010 - 2011 sẽ có nhiều ngân hàng con nước ngoài tham gia hoạt động. Nhưng thực tế, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra và với diễn biến thị trường hiện nay thì sự tham gia của ngân hàng con 100% vốn nước ngoài vào Việt Nam sẽ chậm lại, nên đây là cơ hội để các ngân hàng trong nước tăng tốc. Dự đoán chung tình hình năm 2010 theo ông Hải là còn quá sớm, nhưng có thể nói, sự phục hồi của nền kinh tế Việt Nam ít bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dư chấn khủng hoảng. Song các vấn đề chúng ta gặp phải trong năm 2008 - 2009 một lần nữa sẽ tiếp tục thách thức ở năm 2010, trong đó đa số vẫn xuất phát từ vấn đề nội tại của nền kinh tế. Đồng thời, với hoạt động ngân hàng trong bối cảnh hiện nay, theo các chuyên tài chính, sự hồi phục đã diễn ra, nhưng không hoàn toàn bền vững. Có nghĩa, nếu ngân hàng không cẩn trọng thì sẽ phải còn đối mặt với nhiều thách thức. Thực tế, đầu 2009 mặc dù không tuyên bố chính thức, nhưng việc nới lỏng chính sách tiền tệ là có và với quy mô lớn. Nới lỏng ở đây là tiền cung ra thị trường nhiều, lãi suất thấp, ưu đãi cho người vay vốn nhiều hơn khi có chủ trương hỗ trợ lãi suất, kích cầu. Thế nhưng, sang năm 2010, với thông điệp được đưa ra kiểm soát tăng trưởng tín dụng dưới mức 25% thì hoạt động của ngành sẽ bị kiểm soát chặt chẽ hơn. Như vậy, năm 2010, sẽ không loại trừ việc các ngân hàng sẽ phải đối mặt với những vấn đề khó giải quyết. Bởi nếu năm 2008 khủng hoảng xảy ra, 2009 bước qua khủng hoảng, bắt đầu vào điều kiện kinh doanh bình thường, nhưng quá trình đó diễn ra trong thời gian ngắn và hiện chính sách tiền tệ đã bắt đầu được "siết" lại. Thế nhưng, với kỳ vọng kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,5% trong năm 2010, Tổng giám đốc ACB cho rằng, ngành tài chính - ngân hàng vẫn là công cụ dẫn dắt nền kinh tế, hoạt động của ngành sẽ vận động theo quá trình hồi phục của nền kinh tế. Điều quan trọng là ngân hàng phải biết hành động như thế nào, kết hợp với công cụ nào để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động. Theo ông Hải, yếu tố đầu tiên đối với ngân hàng là phải xây dựng công cụ dự báo và lượng hóa được những gì sẽ diễn ra trong thời gian tới. Bởi ngân hàng sẽ dễ bị gặp rủi ro nếu thiếu dự báo và không có biện pháp thích ứng tình hình. Kiểm soát tăng trưởng tín dụng trong năm nay của toàn ngành là 25%, nhưng nếu vẫn không đáp ứng được mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì có thể NHNN sẽ điều chỉnh, nhưng vấn đề là công cụ để điều tiết tăng, giảm như thế nào. Đồng thời, việc kiểm soát rủi ro trong tín dụng của ngân hàng phải được thực hiện ra sao để có hiệu quả và hạn chế tối đa rủi ro nợ xấu. “Tăng trưởng ngành ngân hàng là một viễn cảnh lạc quan” Đây là nhận định của ông Nguyễn Hùng Mạnh, Tổng giám đốc Ngân hàng An Bình (ABBank), khi trao đổi với báo chí về triển vọng phát triển của ngành ngân hàng những năm tới. Sau năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 nhiều khó khăn, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã dần đi vào hoạt động ổn định. Đến thời điểm này, nhiều ngân hàng thương mại thông báo đã hoàn thành những kế hoạch kinh doanh chính của cả năm 2009. Về chuyển biến trên, ông Nguyễn Hùng Mạnh, Tổng giám đốc ABBank, bình luận: “Năm 2008, ngành tài chính ngân hàng đã trải qua thời điểm khó khăn, đồng thời cũng chưa dự đoán được rõ ràng về tình hình kinh tế năm 2009. Vì vậy, có thể thấy là các ngân hàng đều không đặt mục tiêu cao, mà chỉ đưa ra mục tiêu vừa phải, và tập trung vào việc củng cố hoạt động để phát triển vững chắc hơn. Bước sang năm 2009, nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, do đó việc các ngân hàng thương mại sớm hoàn thành kế hoạch kinh doanh cả năm cũng không nằm ngoài dự đoán. Đặc biệt vừa qua gói kích cầu của Chính phủ đã phát huy tác dụng đúng lúc, giúp hoạt động của ngành tài chính khởi sắc hơn”. Với những kết quả đó, có thể nói các ngân hàng đã trải qua thời điểm khó khăn nhất của ảnh hưởng khủng hoảng tài chính thế giới và suy giảm kinh tế trong nước. Theo ông, điều gì cần rút ra trong hoạt động ngân hàng sau những ảnh hưởng đó? Theo tôi, có một số điều cần rút ra từ sau ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Trước hết, cần xây dựng hệ thống dự báo rủi ro, đặc biệt chú ý đến rủi ro về thị trường. Điều này có thể thấy qua cuối năm 2007 khi các ngân hàng thương mại đang trong giai đoạn phát triển với tốc độ cao thì khủng hoảng kinh tế thế giới xẩy ra, trong khi đó công tác dự báo của chúng ta kém nên phần lớn các ngân hàng đều gặp khó khăn ở các mức độ khác nhau. Do đó bài học quan trọng nhất là chúng ta phải xây dựng một cơ chế phòng ngừa rủi ro toàn diện, đặc biệt là rủi ro về thị trường. Trong phương pháp xây dựng kế hoạch kinh doanh, thường thì trước nay các ngân hàng ít chú ý đến điều này. Tại ABBank, chúng tôi đã thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng Quản trị, độc lập với Ban điều hành. Chúng tôi tự hào là một trong các ngân hàng đầu tiên xây dựng hệ thống quản trị rủi ro tương đối hoàn chỉnh. Trong đó bao gồm cả quản trị rủi ro thị trường và quản trị rủi ro điều hành. Ngoài ra các ngân hàng phải chú trọng đa dạng hoá hoạt động, không chỉ tập trung vào tín dụng mà còn phải mở rộng nguồn thu từ dịch vụ - rủi ro sẽ thấp hơn. Bên cạnh đó, có thể mở rộng mối quan hệ liên kết với các đối tác để đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, chẳng hạn như hiện nay ABBank đang hợp tác với EVN để triển khai dịch vụ thu hộ tiền điện, hợp tác với Prudential Việt Nam để phân phối sản phẩm bảo hiểm qua ngân hàng… Có thể không phù hợp với nội dung cuộc phỏng vấn này, nhưng xin được hỏi ông về một phản ánh cụ thể từ thị trường chứng khoán. Thời gian gần đây, giá cổ phiếu của những nhóm ngành như bất động sản, vật liệu xây dựng, cao su… tăng rất mạnh, các chỉ số của thị trường cũng tăng cao nhưng giá cổ phiếu ngân hàng lại không có nhiều chuyển biến. Liệu đó có phải là một phản ánh về triển vọng hoạt động của các ngân hàng? Ông có bình luận gì không? Thời điểm hiện nay thị trường chứng khoán đang ở trong xu thế giằng co, biến động nhiều, do đó nhà đầu tư tập trung vào các cổ phiếu tạo ra lợi nhuận nhanh. Trong khi đó cổ phiếu ngân hàng lại mang tính chất ổn định, ít biến động giá cả nên nhà đầu tư ngắn hạn ít quan tâm. Thế nhưng, theo tôi, nếu đầu tư dài hạn, cổ phiếu ngân hàng sẽ là lựa chọn tốt. Như vậy có thể hiểu hoạt động ngân hàng có triển vọng khả quan trong dài hạn? Ông dự tính thế nào về triển vọng đó trong năm 2010, thậm chí xa hơn? Và triển vọng phát triển của ABBank như thế nào? Hiện nay tình hình kinh tế trong và ngoài nước đã dần hồi phục và bắt kịp đà tăng trưởng. Theo các chuyên gia, GDP Việt Nam có thể tăng trưởng đến 6,5% trong năm 2010. Trong 3 năm tới, tình hình kinh tế sẽ phát triển rất khả quan. Tôi hy vọng khoảng năm 2012 kinh tế Việt Nam sẽ sớm trở lại thời kỳ mà tốc độ tăng trưởng có thể lên đến 7% - 8%. Vì vậy sự tăng trưởng của ngành tài chính ngân hàng là một viễn cảnh lạc quan. Tuy nhiên nền kinh tế có thể đối mặt với nguy cơ lạm phát cao hơn. Dù vậy, tôi tin rằng Nhà nước sẽ có những chính sách phù hợp để điều tiết, giám sát chặt chẽ và hỗ trợ hoạt động của hệ thống ngân hàng. Về phía ABBank, chúng tôi phấn đấu giữ nhịp độ tăng trưởng ở mức 30% - 40% trong năm 2010, hướng đến mục tiêu trở thành một trong 10 Ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam.(Nguồn: TBKT, 28/9) (VOV) - Hơn 2 năm tham gia vào nền kinh tế thị trường, lĩnh vực tài chính ngân hàng TP.HCM đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tổng tài sản của các ngân hàng trên địa bàn tăng gấp 2,1 lần so với cuối năm 2006, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 57%. TP.HCM là trung tâm tài chính ngân hàng lớn nhất Việt Nam, dẫn đầu cả nước về số lượng ngân hàng và doanh số quan hệ tài chính - tín dụng. Việc gia nhập vào nền kinh tế thế giới cuối năm 2006 là một tất yếu và cũng là động lực hỗ trợ cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng. Đối với TP.HCM, tài chính ngân hàng được đánh giá là lĩnh vực nhạy cảm và chịu tác động rất lớn từ sự kiện này. Ngày càng chuyên nghiệp Theo thống kê cho thấy, đối với ngân hàng thương mại cổ phần, đa số có mức vốn điều lệ khoảng 200-300 tỷ đồng, nhưng sau 2 năm gia nhập WTO, vốn điều lệ củ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docvietcombank.doc
Tài liệu liên quan