Xây dựng mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam

MỤC LỤC

 Phần mở đầu

 Phần nội dung

CHƯƠNG I: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN CỔ

PHIẾU – BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM

1.1 Lịch sử hình thành và phát triển thị trường quyền chọn chứng khoán .1

1.2 Thị trường quyền chọn giao dịch có tổ chức . . .2

1.2.1 Thị trường Mỹ . . . .2

1.2.2 Thị trường Nhật . . . .4

1.2.3 Thị trường Hàn Quốc . . . .6

1.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ thị trường các nước trên thế giới .7

CHƯƠNG II: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM – RỦI RO VÀ HƯỚNG

KHẮC PHỤC

2.1 Tính hình thị trường chứng khoán Việt Nam . . .9

2.1.1 Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam . .9

2.1.2 Những đặc điểm đáng nổi bật của TTCK nước ta từ năm 2006 đến nay . 11

2.1.3 Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng hàm chứa nhiều rủi ro . 13

2.1.4 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên của thị trường chứng khoán Việt Nam . 17

2.2 Sự cần thiết của Option chứng khoán . . . 18

2.2.1 Tạo ra công cụ bảo vệ cho nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán . 18

2.2.2 Đa dạng hoá cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư tài chính trong và ngoài

nước . . . . . 19

2.2.3 Thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán . . 19

2.2.4 Ảnh hưởng tích cực đến các doanh nghiệp trong nước và nền kinh tế . 19

2.2.5 Thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam . . 20

2.3 Một số thuận lợi và khó khăn khi xây dựng thị trường quyền chọn cổ phiếu ở Việt

Nam hiện nay . . . . 21

2.3.1 Những thuận lợi . . . 21

2.3.1.1 Tiềm năng phát triển thị trường chứng khoán . . 21

2.3.1.2 Sức cầu về đầu tư chứng khoán cao . . . 21

2.3.1.3 Sự quyết tâm và cam kết của Chính phủ xây dựng và phát triển thị trường chứng

khoán ở Việt Nam. . . . 22

2.3.1.4 Sự ra đời của các hiệp hội . . . 22

2.3.1.5 Kinh nghiệm từ việc ứng dụng quyền chọn trong giao dịch ngoại tệ và vàng ở

Việt Nam . . . . 22

2.3.1.6 Đặc điểm kinh tế của Việt Nam . 22

2.3.2 Những khó khăn . . . . 23

2.3.2.1 Chưa có hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động này . . 23

2.3.2.2 Hạn chế về mặt pháp lý,quy mô họat động . . 23

2.3.2.3 Nhận thức và trình độ của các nhà đầu tư,người quản lý . . 24

2.3.2.4 Tiến trình c ổ phần hoá và niêm yết diễn ra quá chậm . . 24

2.3.2.5 Chính sách quản lý, kiểm soát thị trường còn hạn chế . . 25

CHƯƠNG III: TỔNG QUAN VỀ QUYỀN CHỌN

3.1 Giới thiệu về quyền chọn . . . . 26

3.1.1 Định nghĩa . . . . 26

3.1.2 Quyền chọn mua . . . . 26

3.1.3 Quyền chọn bán . . . . 27

3.1.4 Phân loại quyền chọn theo thời gian thực hiện . . 28

3.2 Cấu trúc cơ bản của thị trường quyền chọn . . . 28

3.2.1 Điều kiện niêm yết . . . 29

3.2.2 Quy mô hợp đồng . . 29

3.2.3 Giá thực hiện . . . . 30

3.2.4 Chi phí giao d ịch, phí thanh toán v à hoa hồng . . 30

3.2.5 Ngày đáo hạn . . . . 30

3.2.6 Hạn mức vị thế và hạn mức thực hiện . . . 31

3.3 Thị trường quyền chọn và thị trường cổ phiếu . . 31

3.3.1 Quyền chọn cổ phiếu có nhiều nét tương đồng với cổ phiếu trên sàn giao dịch . 31

3.3.2 Mặc dù có những điểm tương đồng, nhưng thị trường quyền chọn và thị trường cổ

phiếu vẫn có những điểm khác nhau quan trọn . 32

3.3.2.1 Về phương diện giao dịch và thời gian . . . 32

3.3.2.2 Về phương diện quản trị rủi ro . 32

3.3.2.3 Về phương diện đòn bẩy . . . 33

3.3.2.4 Thị trường quyền chọn cũng cung cấp một thông tin hiệu quả về xu hướng giá . 34

3.3.2.5 Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả . . 34

3.3.2.6 Thị trường sản phẩm phái sinh chứa đựng đầy rủi ro so với thị trường giao

ngay? . 35

CHƯƠNG IV: MÔ HÌNH THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN CHỨNG KHOÁN Ở

VIỆT NAM

4.1 Điều kiện cần để xây dựng thị trường quyền chọn chứng khoán . . 37

4.1.1 Có hệ thống cơ sở pháp lý hoàn thiện . . . 37

4.1.2 Điều kiện về hàng hóa trên TTCK . . . 37

4.1.3 Điều kiện về thông tin trên thị trường . . . 37

4.1.4 Điều kiện về kỹ thuật . . . 38

4.1.5 Điều kiện về con người . . . 38

4.2 Mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam . . 38

4.2.1 Môi trường giao dịch . . . 39

4.2.2 Sàn giao dịch quyền chọn . . . 39

4.2.3 Phương thức giao dịch . . . 40

4.2.4 Phí quyền chọn . . . . 43

4.3 Thị trường quyền chọn chứng khoán và nhà đầu tư . . 45

4.3.1 Mua quyền chọn mua cổ phiếu . . . 45

4.3.2 Mua quyền chọn bán cổ phiếu . . . 46

4.4 Giải pháp xây dựng mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam. 47

4.4.1 Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán và thị trường option chứng

khoán. . . . 47

4.4.2 Hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho thị trường option chứng khoán và hoàn thiện hệ

thống cung cấp thông tin . . . . 48

4.4.3 Nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán . . 48

4.4.4 Nâng cao vai trò , trách nhiệm của các cơ quan chức năng . 49

4.4.5 Tăng cung kích cầu cho thị trường chứng khoán và option chứng khoán . 49

4.4.6 Thực hiện các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia thị

trường chứng khoán . . . . 49

4.4.7 Tăng cường công tác đào tạo, nghiên cứu và thông tin tuyên truyền. 50

4.4.8 Tăng cường hoạt động tư vấn cho các nhà đầu tư . . 50

 Phần kết luận

 Phần phụ lục

pdf60 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2308 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh. Thông tin không cân xứng là nguyên do đem lại khoản lợi nhuận không nhỏ cho một số cá nhân và gây thiệt hại cho nhiều nhà đầu tư khác. Trong khi đó, một hiện tượng trên thị trường thời gian qua là việc các công ty đua nhau tăng vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tài chính, chứ không phải là tập trung cho sản xuất. Theo thống kê, trong năm 2006 trên 90% số doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động đầu tư tài chính và chỉ có chưa đầy 50% trong số đó hạch toán lợi nhuận "dương". Đây chính là một khe hở cần quản lý thì lại không được sự quản lý chặt chẽ. Trong ngắn hạn, có thể hoạt động này mang lại nguồn lợi nhuận bất thường đáng kể cho doanh nghiệp, nhưng trong dài hạn với cung cách đầu tư thiếu chuyên nghiệp, doanh nghiệp không những không phát triển được hoạt động sản xuất, kinh doanh như kế hoạch đã đề ra, mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông mình nếu việc thua lỗ xảy ra.  Rủi ro đến từ các báo cáo nghiên cứu thị trường Những báo cáo thị trường của các tổ chức đầy danh tiếng trong và ngoài nước như IMF, HSBC hay SSI, TSC có những tác động nhất định đến tâm lý thị trường. Điều đáng bàn luận ở đây là tính chính xác của các báo cáo nước ngoài này khi nêu những thống kê và những cảnh báo về thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhất là những khuyến nghị mang tính nhạy cảm kiểu như: P/E của thị trường chứng khoán Việt Nam đang ở mức quá cao, hay "VN-Index giảm xuống 900 điểm vào cuối năm 2007"... khiến không ít nhà đầu tư có những dự đoán tiêu cực về thị trường. 2.1.4 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên của thị trường chứng khoán Việt Nam Trước hết, phải nói rằng thị trường chứng khoán là một thị trường mới nên công chúng đầu tư chưa thực sự hiểu biết về hoạt động chứng khoán, cũng như chưa thấy được lợi ích của việc tham gia thị trường. Trong khi đó sự thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức (bảo hiểm, quỹ đầu tư, các tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp) trên thị trường đã ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường bởi tác động tâm lý của các nhà đầu tư nhỏ, thiếu tính chuyên nghiệp. Các nhà đầu tư cá nhân còn thiếu kiến thức về chứng khoán, còn có tâm lý bầy đàn, thiếu sự mạnh dạn trong đầu tư, và mang tính đầu cơ trong ngắn hạn… Các doanh nghiệp Việt Nam còn mang nặng tư tưởng của cơ chế bao cấp, còn trông chờ vào nguồn vay ưu đãi, chưa muốn huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Nhiều doanh nghiệp lại e ngại kiểm toán và công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, và sự thiếu vắng các doanh nghiệp lớn ra niêm yết trên thị trường chứng khoán đã không hấp dẫn các nhà đầu tư, do vậy, hàng hoá trên thị trường còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng. Thêm vào đó, tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước chưa gắn kết được với việc phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Các chính sách khuyến khích, ưu đãi, đặc biệt là ưu đãi về thuế đối với các tổ chức tham gia thị trường chưa được chú ý đúng mức, có ảnh hưởng không nhỏ đến sự vận hành và phát triển của thị trường chứng khoán. Mặt khác, việc quản lý và điều hành thị trường còn bất cập, hạn chế do sự thiếu chủ động và thiếu kinh nghiệm thực tiễn của cơ quan quản lý và giám sát thị trường. Do sự phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng, đến nay, hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán đã bộc lộ những điểm hạn chế nhất định làm cản trở sự phát triển của thị trường, chưa bao quát và phù hợp với điều kiện thực tế cũng như định hướng chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2010. Hơn nữa, hệ thống các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán ở tầm Nghị định chưa mang tính pháp lý cao, chưa đồng bộ, do vậy không thể giải quyết được một cách triệt để những mâu thuẫn với các văn bản pháp luật khác có liên quan. Phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn hẹp, chưa bao quát và điều chỉnh thống nhất việc phát hành chứng khoán ra công chúng, các hoạt động kinh tế chứng khoán của các đối tượng tham gia thị trường, chưa tạo cơ sở pháp lý cao cho hoạt động của các tổ chức dịch vụ chứng khoán v.v...  Do đó, điều quan trọng nhất hiện nay là phải đưa ra được giải pháp hợp lý cho thị trường chứng khoán, và sự bảo vệ hữu hiệu cho nhà đầu tư trước tình hình như hiện này, vì thế, thị trường quyền chọn là giải pháp tốt nhất cho thị trường chứng khoán Việt Nam. 2.2 Sự cần thiết của Option chứng khoán 2.2.1 Tạo ra công cụ bảo vệ cho nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Bằng việc sở hữu quyền chọn, nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán có thể cố định giá mua, bán chứng khoán của mình trong một khoảng thời gian nhất định (là thời gian hiệu lực của hợp đồng quyền chọn). Do đó, nếu biết vận dụng các kỹ thuật mua bán chứng khoán kết hợp với quyền chọn, các nhà đầu tư có thể hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán một cách hữu hiệu. Hơn nữa, việc kết hợp mua bán chứng khoán và các hợp đồng quyền chọn sẽ tạo ra những chiến lược tự bảo hiểm đồng vốn cho các nhà đầu tư - đối với chứng khoán riêng rẻ hay cả danh mục đầu tư - chống lại xu hướng giá cả biến động bất lợi nhưng vẫn thu được lợi nhuận nếu giá cả thay đổi theo hướng có lợi. Đây là đặc trưng nổi trội của công cụ quyền chọn so với các sản phẩm phái sinh khác trên thị trường. 2.2.2 Đa dạng hoá cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư tài chính trong và ngoài nước Việc ứng dụng giao dịch quyền chọn đem lại cho người đầu tư trên TTCK Việt Nam một công cụ đầu tư mới. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với người đầu tư ở Việt Nam bởi những lý do sau đây:  Hàng hóa trên TTCK Việt Nam hiện nay đang rất ít, cơ hội lựa chọn đầu tư của người đầu tư không nhiều;  Hơn nữa với tính cách khá thận trọng, người đầu tư Việt Nam ngại bỏ ra những khoản tiền lớn để đầu tư;  Trên thực tế, thu nhập đầu người ở Việt Nam còn rất thấp, nên một công cụ đầu tư với số vốn ban đầu bỏ ra tương đối ít sẽ rất thích hợp với đại đa số người đầu tư Việt Nam. Chính vì vậy, với những đặc tính của hợp đồng quyền chọn chứng khoán, rõ ràng nó đã đáp ứng được những mong đợi của người đầu tư Việt Nam. Do đó, nếu quyền chọn chứng khoán được ứng dụng giao dịch trên TTCK Việt Nam sẽ thu hút thêm được rất nhiều người đầu tư vào thị trường 2.2.3 Thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Với ý nghĩa quyền chọn cổ phiếu vừa là công cụ bảo vệ lợi nhuận, và là công cụ giảm thiểu rủi ro hữu hiệu và đồng thời là một loại hàng hóa có thể mua bán trên TTCK nên khi ứng dụng giao dịch quyền chọn sẽ làm cho TTCK rất sôi động. Với vai trò là một công cụ bảo vệ lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, quyền chọn tạo tâm lý an toàn hơn trong đầu tư vào cổ phiếu, do đó thu hút được thêm nhiều người đầu tư còn e ngại về mức độ mạo hiểm, rủi ro trên TTCK mạnh dạn tham gia thị trường. Với vai trò là một hàng hóa trên TTCK, quyền chọn cổ phiếu mang đến khát khao kiếm lợi nhuận nên khi quyền chọn được ứng dụng giao dịch, nhiều nhà đầu tư sẽ tham gia thị trường để kinh doanh quyền chọn. Khi nhiều người đầu tư tham gia thị trường sẽ làm cầu hàng hóa chứng khoán tăng. Điều này làm cho thị trường trở nên sôi động và cơ hội phát triển, mở rộng thị trường là rất cao. 2.2.4 Ảnh hưởng tích cực đến các doanh nghiệp trong nước và nền kinh tế Đối với các công ty niêm yết để quyền chọn cổ phiếu một công ty được niêm yết thì công ty đó (công ty niêm yết - CTNY) phải đáp ứng được những điều kiện của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đề ra như số lượng cổ phiếu đang lưu hành, số lượng cổ phiếu được giao dịch trên thị trường, số cổ đông nắm giữ cổ phiếu, giá cổ phiếu… Hơn nữa, không một CTNY nào muốn quyền chọn bán cổ phiếu công ty mình được mua bán liên tục bởi đó là dấu hiệu cho thấy thị trường dự đoán giá cổ phiếu công ty sẽ đi xuống, và điều này cũng cho thấy uy tín của công ty trên thị trường đang giảm dần. Như vậy, công ty có thể nhìn vào xu hướng giao dịch quyền chọn trên thị trường mà nhận biết được sự đánh giá của thị trường đối với công ty mình, điều này giúp công ty có những điều chỉnh kịp thời trong chiến lược kinh doanh để giữ uy tín của công ty trên thị trường. Như vậy, quyền chọn giúp người đầu tư giám sát gián tiếp hoạt động của các CTNY. Khi có thêm người giám sát, đòi hỏi CTNY phải nỗ lực hơn trong hoạt động kinh doanh,quan tâm đến hiệu quả hoạt động, đánh bóng thương hiệu, lành mạnh hoá tài chính và cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh trong đơn vị. Đối với các công ty chứng khoán và các định chế tài chính khác, thị trường quyền chọn hợp đồng quyền chọn gia tăng cơ hội kinh doanh và kiếm lời trên các hoạt động giao dịch, hỗ trợ, tư vấn và thanh toán, góp phần thúc đẩy quá trình hoàn thiện hoá hệ thống giao dịch, môi giới và tăng thu cho ngân sách Nhà nước trong tương lai. 2.2.5 Thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam Từ năm 2002 đến nay, dòng vốn đầu nước ngoài vào Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, số lượng và quy mô hoạt động các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Đến tháng 09/2006, đã có 19 quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư gần 2 tỷ USD (trong đó, Dragon Capital: 600 triệu USD, VinaCaptital: 450 triệu USD, Indochina: 150 triệu USD, Vietnam Holding: 112 triệu USD...), các quỹ này đã rót vào Trung tâm chứng khoán TP.HCM tổng cộng 840 triệu USD. Tuy nhiên, hiện nay, lượng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn. Trong 5 năm tới Việt Nam cần 140 - 150 tỷ USD đầu tư phát triển, nếu vốn đầu tư gián tiếp chỉ ở mức 2 -3 tỷ USD như hiện nay, so với vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam vẫn ở mức thấp khoảng 2-3%, trong khi tỷ lệ này ở một số nước trong khu vực là 30-40% thì tác động rất hạn chế đến sự phát triển nền kinh tế. Do đó, bên cạnh các điều kiện vĩ mô cơ bản như hoàn thiện hệ thống pháp lý, đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước..., công tác phát triển thị trường chứng khoán nói chung và thị trường phái sinh chứng khoán nói riêng là giải pháp cấp bách và phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay. Như vậy, việc phát triển thị trường chứng khoán phái sinh trong tương lai ở Việt Nam vừa đóng vai trò thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài, vừa là tác nhân gián tiếp gia tăng tính năng động của thị trường chứng khoán, thông qua các chức năng phòng ngừa rủi ro, tăng tính thanh khoản và cung cấp thông tin về thị trường tài chính, giúp nhà đầu tư có thêm tự tin khi tham gia thị trường, điều này giúp thu hút thêm nhà đầu tư tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư hiệu quả... Thị trường giao dịch các hợp đồng phái sinh chứng khoán khi được phát triển sẽ là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy nâng cao chiều sâu tài chính cho thị trường tài chính trong nước. 2.3 Một số thuận lợi và khó khăn khi xây dựng thị trường quyền chọn cổ phiếu ở Việt Nam hiện nay 2.3.1 Những thuận lợi 2.3.1.1 Tiềm năng phát triển thị trường chứng khoán Tiềm năng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam là rất lớn, trên cơ sở ổn định về chính trị, tốc độ tăng trưởng và các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế. Tổng giá trị vốn các đơn vị cổ phần ngày càng gia tăng do Luật Doanh nghiệp đang phát huy tác dụng mạnh trong đời sống kinh tế, hoạt động cổ phần hóa đang được Chính phủ chú trọng đẩy mạnh. Trong số những doanh nghiệp trên, có các ngân hàng thương mại, các tổng công ty lớn của nhà nước, khi cổ phiếu của các công ty này được niêm yết trên sàn sẽ là nguồn hàng chất lượng thu hút nhiều nhà đầu tư trong cũng như ngoài nước tham gia vào thị trường, đây là nguồn cung về hàng cho thị trường chứng khoán phát triển. Ngoài ra, việc trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội khai trương và đi vào hoạt động ngày 08/03/2005 phần nào đã đáp ứng được phần nào nhu cầu rất lớn của nhà đầu tư hiện nay, họ có cơ hội để tiếp cận với các cổ phiếu của các công ty vừa và nhỏ, mà số công ty này ở Việt Nam chiếm khoảng 80%. Trong tương lai, sẽ có rất nhiều cổ phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, đặc biệt là cổ phiếu của các công ty, tổ chức tài chính lớn, uy tín. Những cổ phiếu này tạo nên lượng cổ phiếu cơ sở dồi dào tạo điều kiện cho ra đời quyền chọn. 2.3.1.2 Sức cầu về đầu tư chứng khoán cao Các nhà đầu tư trong nước, với khoảng trên 10 tỷ USD tiền đang nhàn rỗi trong công chúng, là nguồn cầu tiềm năng rất lớn cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Cùng với chính sách mở rộng tỷ lệ tham gia vào thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích thành lập, liên kết các quỹ đầu tư tài chính, quỹ đầu tư chứng khoán…là các yếu tố khả quan trong công tác kích cầu trên thị trường. Sự ra đời của Quỹ đầu tư chứng khoán của Công ty quản lý quỹ Việt Nam gần đây đã tạo thêm một kênh huy động có hiệu quả, làm động lực thúc đẩy sự phát triển cả về mặt cung và cầu của hàng hóa cho thị trường. Như vậy, có rất nhiều thành phần đầu tư đang quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam, đây là yếu tố thuận lợi cho việc ra đời quyền chọn. Nhưng còn phải phụ thuộc nhiều vào công tác xây dựng tính hệ thống và hiệu quả cho thị trường. 2.3.1.3 Sự quyết tâm và cam kết của Chính phủ xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam Trước tầm quan trọng của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế thị trường, Chính phủ quyết tâm “Phát triển thị trường chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế”. Điều đó được thể hiện qua việc Chính phủ ban hành hàng loạt các nghị định, nghị quyết, quyết định, Thông tư nhằm điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán theo hướng tích cực và hoàn thiện. 2.3.1.4 Sự ra đời của các hiệp hội Sự ra đời của các hiệp hội (hiệp hội kinh doanh chứng khoán, hiệp hội các nhà đầu tư tài chính,…) một mặt, liên kết hỗ trợ, trao đổi thông tin kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ,…; mặt khác, kiến nghị về các chính sách lên cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia và thúc đẩy thị trường phát triển. 2.3.1.5 Kinh nghiệm từ việc ứng dụng quyền chọn trong giao dịch ngoại tệ và vàng ở Việt Nam Đầu năm 2003 Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam chính thức cho ra đời sản phẩm mới có tên gọi là quyền chọn ngoại tệ. Sau Eximbank, các ngân hàng khác cũng ứng dụng sản phẩm này là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam…, và một ngân hàng nước ngoài là Citibank. Quyền chọn ngoại tệ hiện nay được sử dụng như một công cụ bảo vệ người mua bán ngoại tệ trước sự biến động của tỷ giá. Việc ứng dụng giao dịch quyền chọn ngoại tệ, người kinh doanh, đầu tư ở Việt Nam bắt đầu quen với việc sử dụng quyền chọn. Đây là tiền đề cho một thị trường quyền chọn chứng khoán trong tương lai ra đời và phát triển. 2.3.1.6 Đặc điểm kinh tế của Việt Nam Hiện nay nền kinh tế Việt nam đã và đang thực sự trở thành nền kinh tế thị trường đầy đủ, đang có rất nhiều thay đổi về mặt chính sách: Mở cửa thị trường vào không gian WTO, áp dụng các Luật chơi chung với quốc tế, lãi suất đã được tự do hoá; lộ trình tự do hoá tài chính đã đi qua rất nhiều bước và trên thực tế, các luồng vốn đã tương đối tự do chảy vào và chảy ra khỏi Việt nam cả trực tiếp và gián tiếp với qui mô và tần suất ngày càng lớn; chính sách tỷ giá cũng từng bước linh hoạt theo tín hiệu thị trường... Những bối cảnh trên đã, đang là những nhân tố khách quan thúc đẩy các bên tham gia thị trường tài chính Việt nam phải đổi mới tư duy khi nhận thức về vai trò của thị trường các công cụ tài chính phái sinh... 2.3.2 Những khó khăn 2.3.2.1 Chưa có hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động này Hiện nay, Luật Chứng khoán chưa có quy định về giao dich quyền chọn, gây khó khăn cho người đầu tư, hạn chế sự phát triển thị trường và đặc biệt là Nghị định chưa hề đề cập đến hoạt động giao dịch quyền chọn chứng khoán. 2.3.2.2 Hạn chế về mặt pháp lý, quy mô hoạt động Ngân hàng muốn kinh doanh sản phẩm phái sinh phải xin phép Ngân hàng Nhà nước và chỉ được hoạt động khi có sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước, điều này cũng khiến ngân hàng “ngại” triển khai nghiệp vụ này. Mặc dù thị trường các công cụ tài chính phái sinh đã hình thành ở Việt Nam, nhưng còn rất nhỏ bé và chưa phổ biến. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn thấp dưới “tầm” tác động của các cơn gió lớn hay cơn bão tài chính quốc tế, tư duy kinh doanh truyền thống còn phổ biến. Ngoài ra, Bản thân các khách hàng nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng còn dè dặt áp dụng công cụ phái sinh. Được biết, với Ngân hàng HSBC mặc dù hoạt động tại Việt Nam đã hơn 6 năm với trên 1.000 doanh nghiệp là khách hàng “ruột”, nhưng sau 2 năm được phép sử dụng các công cụ phái sinh, mới chỉ có một vài doanh nghiệp trong số hàng ngàn doanh nghiệp khách hàng đó dám ứng dụng nghiệp vụ này.Với Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), các nghiệp vụ phái sinh vẫn còn ít được khách hàng áp dụng, thậm chí có công cụ chưa có khách hàng nào giao dịch. Xét cả về môi trường chính sách, vẫn còn rất thiếu và yếu đã tham gia gây cản trở sự phát triển của thị trường công cụ tài chính phái sinh ở Việt nam. Có những qui định thậm chí trực tiếp bóp chết sự phát triển công cụ phái sinh như qui định về thuế đánh trên lãi thu được từ việc thực hiện công cụ hoán đổi. Qui định này vừa gây kìm hãm, vừa khó thực hiện và công cụ này nhằm phòng chống rủi ro để tối đa hoá lợi nhuận chứ không phải là mục tiêu lợi nhuận. Tại hầu hết các nước trên thế giới đều không đánh thuế đối với doanh thu (nếu có) từ công cụ phái sinh vì các công cụ này được sử dụng để phòng chống rủi ro trên thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Thêm nữa, các nhà đầu tư cá nhân được tạm thời miễn thuế trên phần lợi nhuận đạt được từ việc mua bán cổ phiểu của các CTNY, các nhà đầu tư là tổ chức lại không được miễn thuế, nên họ chịu bất lợi so với các nhà đầu tư cá thể. Và thuế áp dụng cho các nhà đầu tư là tổ chức nước ngoài trên phần lợi nhuận từ việc bán cổ phiếu còn chưa khuyến khích, làm hạn chế sự tham gia của người đầu tư nước ngoài. 2.3.2.3 Nhận thức và trình độ của các nhà đầu tư, người quản lý Nhân sự của các doanh nghiệp Việt Nam thường làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, ít chịu tiếp thu cái mới, thiếu sự năng động, nhạy bén, trong khi sản phẩm phái sinh là những sản phẩm khá phức tạp, đòi hỏi người sử dụng phải có trình độ cao. Thêm nữa, mạng lưới của các NHTMQD trải rộng khắp cả nước, với hơn 100 chi nhánh, do đó nếu muốn triển khai thì đòi hỏi trình độ giữa các chi nhánh phải tương đồng, điều này rất khó xảy ra. Có thể sản phẩm phái sinh sẽ chỉ được thực hiện tại một số tỉnh, thành lớn, nhưng như thế sẽ tạo nên sự thiếu đồng bộ giữa các chi nhánh. Đối tượng sử dụng các công cụ phái sinh chủ yếu là doanh nghiệp, nhưng sự hiểu biết của doanh nghiệp về các sản phẩm phái sinh còn hạn chế, trong khi đó môi trường hoạt động ít biến động nên họ cảm thấy không có nhu cầu hoặc chưa ý thức trong việc phòng chống rủi ro, nhất là đối với các DNNN. Các nhà đầu tư cá nhân chủ yếu mang tính ngắn hạn, chưa ổn định và thường theo phong trào, làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của thị trường. Nhà đầu tư tổ chức chưa thực sự quan tâm đến việc đầu tư vào chứng khoán và có nhiều quy định hạn chế đầu tư áp dụng đối với các tổ chức này. Sở dĩ như vậy là do tính chuyên nghiệp của thị trường còn ở mức rất thấp, kể cả người đầu tư, người môi giới, kinh doanh và người điều hành, quản lý thị trường. Từ áp lực của một nhóm nhỏ người đầu tư để rồi đưa ra những giải pháp can thiệp sai nguyên tắc, không thực tế, là nguyên nhân gây ra sự không ổn định và nhiều rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam . Tham gia thị trường tài chính Việt nam còn thiếu các nhà đầu tư am hiểu về lợi ích cũng như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các loại nghiệp vụ này. Các nhà môi giới chuyên nghiệp, các trung gian tài chính đủ năng lực tổ chức thị trường phái sinh còn quá ít trên thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng, thị trường chứng khoán Việt nam để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ vào thị trường phái sinh. 2.3.2.4 Tiến trình cổ phần hoá và niêm yết diễn ra quá chậm Mặc dù chủ trương của Chính phủ là sắp xếp lại doanh nghiệp theo hướng khoán, bán, cho thuê và cổ phần hoá,.. nhưng đến nay, tiến trình cổ phần hoá diễn ra hết sức chậm chạp và tất nhiên sẽ không thể gia tăng hàng hóa cho thị trường chứng khoán và hàng hoá cơ sở cho giao dịch quyền chọn. Tính đến thời điểm hiện nay, cả nước cổ phần hóa được gần 3.500 doanh nghiệp Nhà nước và bộ phận doanh nghiệp Nhà nước. Số doanh nghiệp được cổ phần hóa nhiều nhưng số vốn của doanh nghiệp được cổ phần hóa mới chiếm 12% tổng số vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước. Trong đó, chỉ có 24,1% cổ phần do cổ đông bên ngoài nắm giữ, nghĩa là chỉ có khoảng 3,6% vốn Nhà nước được bán ra bên ngoài, cán bộ công nhân viên nắm giữ 29,6%, Nhà nước vẫn nắm giữ 46,3%. Về thực chất vẫn là cổ phần hóa khép kín, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư chiến lược 2.3.2.5 Chính sách quản lý, kiểm soát thị trường còn hạn chế Hiện nay trong nền kinh tế nước ta tồn tại một tâm lý ỷ lại và liều lĩnh khá phổ biến. Người dân “liều lĩnh” như vậy một phần vì họ thiếu thông tin, nhưng quan trọng hơn là vì họ ỷ lại Ngân hàng Nhà nước sẽ “bảo kê” cho hệ thống ngân hàng, không để xảy ra hiện tượng khủng hoảng tín dụng.và các nhà đầu tư chứng khoán cũng ỷ lại vào các nhà điều hành thị trường chứng khoán, với tâm lý rằng “Chính phủ sẽ không để thị trường chứng khoán xuống dốc được!”. Vì thế, khi mà thị trường đi xuống, và các tín hiệu phân tích kỹ thuật lẫn yếu tố cơ bản đều không ủng hộ một sự tăng giá nhanh và mạnh. Điều này cũng do chính bản thân Nhà nước cũng đưa ra tuyên bố trấn an khi thị trường sụt giảm, đồng thời chính bản thân giới phân tích cũng vịn vào câu chữ mà đưa ra những phân tích lạc quan thái quá. Ngược lại, đến khi Nhà nước vì phải “thiên vị” một mục tiêu khác mà giảm phần ưu ái cho một vài thị trường, thì các nhà đầu tư trên những thị trường này bắt đầu than phiền, phản ứng lại với các chính sách, đề nghị “cứu” thị trường. Không thể đổ lỗi hoàn toàn cho việc nhà đầu tư ỷ lại, mà phải xét lại chính cách điều hành dân kêu đến đâu thì xử lý đến đấy của Nhà nước đã tạo ra tâm lý ỷ lại cho họ. Doanh nghiệp kinh doanh lỗ cũng kêu, đô la giảm cũng bị than phiền, nhà đầu tư lỗ cũng trách Nhà nước vì Nhà nước không tạo ra một văn hóa quản trị rủi ro cho toàn xã hội, khiến người dân chỉ biết hưởng lợi từ chính sách, khi chính sách có biến động bất lợi thì chỉ biết tìm đến Nhà nước chứ không tự cứu. Bên cạnh đó, giá cổ phiếu biến động không lớn vì bị điều chỉnh bởi biên độ giao động giá (hiện nay là 1%). Trong khi đó, quyền chọn không phải là công cụ có giá trị vĩnh viễn mà có thời gian đáo hạn cụ thể. Điều này dễ nảy sinh tâm lý, giá có thể không thay đổi nhiều trong thời gian hiệu lực của quyền chọn, nhà đầu tư không thích bỏ thêm phí để mua quyền chọn. Tuy nhiên, có thể thấy hiện tại biên độ giao động là một công cụ bảo vệ tính ổn định của thị trường non trẻ một cách hữu hiệu. Điều này cho thấy, việc ứng dụng giao dịch quyền chọn chỉ có thể được áp dụng khi mà TTCK Việt Nam đã tương đối phát triển, thị trường tương đối ổn định và đi vào quy luật, khi đó, giá có thể do cung cầu quyết định và đó cũng là thời điểm thích hợp để ứng dụng giao dịch quyền chọn. CHƯƠNG III: TỔNG QUAN VỀ QUYỀN CHỌN 3.1 Giới thiệu về quyền chọn 3.1.1 Định nghĩa Quyền chọn là một hợp đồng giữa hai bên – người mua và người bán – trong đó cho người mua quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, để mua hoặc bán một số lượng chứng khoán nào đó vào một ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Người mua quyền chọn trả cho người bán một số tiền gọi là phí quyền chọn. Người bán quyền chọn sẵn sàng bán hoặc tiếp tục nắm giữ chứng khoán theo các điều khoản của hợp đồng nếu người mua muốn như vậy. Một quyền chọn để mua chứng khoán gọi là quyền chọn mua (call). Một quyền chọn để bán chứng khoán gọi là quyền chọn bán (put). 3.1.2 Quyền chọn mua Quyền chọn mua là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua có quyền được mua một số lượng chứng khoán nhất định tại mức giá đã xác định và sẽ được thực hiện vào trước hoặc ngay khi đã đến ngày đáo hạn của hợp đồng. Hãy xem ví dụ sau: Vào ngày 16/09/2002, nhiều sàn giao d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh (4).pdf
Tài liệu liên quan