Vào cuối những năm 1960 tình hình Đông Dương có sự diễn biến phức tạp. Cuộc kháng chiến của nhân dân Đông Dương chống can thiệp Mỹ và tay sai đang ngày một lớn mạnh. Hiệp hội các nước Đông Nam Á ra đời năm 1967 trong bối cảnh Đông Nam Á đang có sự đối đầu giữa các thế lực khác nhau. Các nước trong ASEAN đều ít nhiều có sự dính líu tới cuộc chiến tranh Việt Nam. Philippin và Thái Lan là hai nước có quân tham gia lực lượng Mỹ tại Việt Nam. Các căn cứ ở hai nước này là địa điểm xuất phát của lực lượng Mỹ đánh phá Việt Nam.
Do vậy, cho tới khi có sự biến chuyển về chiến tranh, thắng lợi về mặt chiến lược của cách mạng Việt Nam diễn ra không ngừng (Tổng tiến công 1968, đánh bại chiến tranh phá hoại ở miền Bắc của không quân Mỹ v.v.) làm cho thế lực của Mỹ ngày càng giảm sút, ảnh hưởng của Trung Quốc và Liên Xô tăng lên ở khu vực. Tình hình đó làm cho ASEAN phải xem xét, đổi mới, tính toán lại chiến lược của mình. Sự can thiệp ngày càng lớn của Trung Quốc cùng với việc Mỹ rút dần quân khỏi Thái Lan v.v. làm cho hơn lúc nào hết chính quyền các nước ASEAN bị gây áp lực, đe doạ tới sự ổn định của đất nước. Tháng 11 - 1971 tuyên bố ZOPFAN được ký kết, tuyên bố này chính là sự thay đổi về đường lối đối ngoại của các nước ASEAN. Mong muốn đạt mục đích tách các nước ASEAN khỏi sự can thiệp của các nước lớn, đặt ASEAN đứng ngoài cuộc tranh chấp giữa các thế lực khác. Biến ASEAN thành khu vực tự do và trung lập, không liên kết. Mặt khác tuyên bố ZOPFAN còn tạo điều kiện để các nước ASEAN thăm dò khả năng quan hệ với Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
36 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Asean - Quá trình hình thành và phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
độc lập, chủ quyền, bình đẳng toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các nước.
b. Quyền của các dân tộc, quốc gia được tồn tại mà không có sự cạn thiệp, lật đổ hay sức ép từ bên ngoài.
c. Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
d. Giải quyết tranh chấp hoặc bất đồng bằng biện pháp hoà bình
e. Không đe doạ, sử dụng vũ lực.
f. Hợp tác có hiệu quả giữa các nước. Như vậy chứng tỏ ASEAN là một liên minh hợp tác về chính trị, quân sự, không phải là một liên minh quân sự.
3. Cơ cấu tổ chức của ASEAN
Theo điều 2 tuyên bố Băng Cốc 1967, được bổ sung và cụ thể hoá bằng các văn kiện khác, bộ máy cơ cấu tổ chức của ASEAN bao gồm:
+ Cơ quan cao nhất là hội nghị cấp cao các nhà lãnh đạo của các quốc gia thành viên (lãnh đạo chính phủ) có chức năng vạch ra đường lối cho từng thời kỳ.
+ Hội nghị bộ trưởng các ngành chuyên môn.
+ Các uỷ ban thường trực ASEAN do Bộ trưởng ngoại giao các nước đăng cai làm chủ tịch và đại sứ các nước thành viên khác, có nhiệm vụ chuẩn bị cho các cuộc họp hàng năm và hội nghị bất thường của Hội nghị cấp Bộ trưởng nói trên.
+ Các uỷ ban chuyên môn (gồm viên chức và chuyên gia của các nước thành viên).
+ ASEAN có 5 uỷ ban kinh tế: Thương mại và du lịch công nghiệp năng lượng và tài nguyên, lương thực và nông nghiệp. Liên lạc và giao thông vận tải, tài chính và ngân hàng. Có 4 uỷ ban về văn hoá là:
- Khoa học kỹ thuật
- Văn hoá và thông tin
- Phát triển xã hội.
- Ngân quỹ
+ Ban thư ký: Được thành lập năm 1978 (theo chương trình hoạt động 1976); trụ sở đặt tại Giacacta, có nhiệm vụ phối hợp theo dõi và tạo điều kiện để tiến hành hoạt động của ASEAN.
* Từ cơ cấu tổ chức của ASEAN ta có thể nhận thấy tổ chức này không phải là một tổ chức siêu quốc gia chỉ đạo các nước thành viên mà là cơ quan phối hợp các hoạt động của các nước hội viên, dung hoà quyền lợi dân tộc của mỗi nước với quyền lợi của tất cả các nước thành viên.
III - Vai trò của ASEAN với sự tồn tại, phát triển của khu vực Đông Nam á và sự ổn định của thế giới.
1. Trong lĩnh vực chính trị:
+ Với tư cách là tổ chức của các quốc gia Đông Nam á. ASEAN đóng vai trò quan trọng đối với sự ổn định, tồn tại của khu vực và thế giới. Với đường lối đối ngoại hoà bình, tạo lập mối đoàn kết giữa các nước trong khu vực, tăng cường tiếp xúc với các nước và tổ chức quốc tế, tất cả các nước Đông Nam á giờ đây đều tích cực tham gia vào quá trình hợp tác vì hoà bình ổn định và phát triển. Với chính sách đối thoại, hợp tác cùng nhau giải quyết mâu thuẫn bằng con đường chính trị ASEAN đã biến khu vực Đông Nam á từ một điểm nóng trở thành một trong những khu vực có nền an ninh - chính trị - ổn định nhất trên thế giới, mối xung đột giữa các quốc gia thông qua vai trò của ASEAN đã được giải quyết êm thấm bằng con đường đối thoại. Thông qua ASEAN, các nước Đông Nam á đã có tiếng nói, quan trọng trên trường quốc tế, với tinh thần đoàn kết khu vực, bằng hành động của mình ASEAN trở thành một lực lượng đủ mạnh để ngăn chặn mưu đồ thống trị của các thế lực bên ngoài, giữ gìn được bản sắc của khu vực, bảo vệ được nền độc lập, tự chủ của các quốc gia thành viên.
2. Trong lĩnh vực kinh tế:
+ Các quốc gia Đông Nam á trong ASEAN là những nước vừa và nhỏ. Nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Sức mạnh kinh tế của hầu hết các nước thành viên chưa đủ để có thể có tiếng nói quyết định trong nền kinh tế thế giới. Với cơ chế hợp tác, ASEAN đã trở thành một thị trường to lớn đầy hứa hẹn đối với mỗi nước thành viên. Hợp tác kinh tế khu vực góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của mỗi nước, đồng thời ASEAN với sức mạnh của sự tập trung của nhiều nền kinh tế trở thành cánh cửa để các nước thành viên bước ra bên ngoài hợp tác với các khối, tổ chức kinh tế lớn trên thế giới.
Với tiềm năng to lớn về nhiều mặt, ngày nay ASEAN với tư cách là khu vực kinh tế năng động và có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới đang trở thành một khu vực có sức hấp dẫn đầu tư của nước ngoài. Qua đó sự vững mạnh về kinh tế của các nước thành viên càng được củng cố, sức mạnh kinh tế của khu vực tăng lên góp phần đẩy mạnh quá trình liên kết kinh tế của ASEAN với các nền kinh tế khác. ASEAN trở thành một mắt xích quan trọng, không thể thiếu trong chuối liên kết kinh tế thế giới và có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của khu vực.
3. Trong một số lĩnh vực khác:
- ASEAN là cầu nối hợp tác giữa các nước thành viên trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật. Sự giao lưu, hợp tác, trao đổi của các nước trong ASEAN củng cố thêm tình đoàn kết khu vực, đưa sự tiến bộ của khối lên ngang tầm thế giới, góp phần không nhỏ vào sự phát triển và tiến bộ của nhân loại.
Chương II
Hợp tác kinh tế ASEAN - Việt Nam.
I - Việt Nam gia nhập ASEAN.
Cùng nằm trong khu vực Đông Nam á. Qua từng thời kỳ quan hệ Việt nam - ASEAN có sự thăng trầm khác nhau, tuỳ tình hình và hoàn cảnh quốc tế trong chiến tranh lạnh và sau chiến tranh lạnh ASEAN luôn có những vị trí khác nhau, quan trọng trong chính sách đối ngoại của nước ta.
1. Quan điểm của chính phủ Việt Nam về tổ chức ASEAN và mức độ quan hệ của chúng ta với tổ chức này.
a. Giai đoạn 1967 - 1978.
- Vào cuối những năm 1960 tình hình Đông Dương có sự diễn biến phức tạp. Cuộc kháng chiến của nhân dân Đông Dương chống can thiệp Mỹ và tay sai đang ngày một lớn mạnh. Hiệp hội các nước Đông Nam á ra đời năm 1967 trong bối cảnh Đông Nam á đang có sự đối đầu giữa các thế lực khác nhau. Các nước trong ASEAN đều ít nhiều có sự dính líu tới cuộc chiến tranh Việt Nam. Philippin và Thái Lan là hai nước có quân tham gia lực lượng Mỹ tại Việt Nam. Các căn cứ ở hai nước này là địa điểm xuất phát của lực lượng Mỹ đánh phá Việt Nam.
Do vậy, cho tới khi có sự biến chuyển về chiến tranh, thắng lợi về mặt chiến lược của cách mạng Việt Nam diễn ra không ngừng (Tổng tiến công 1968, đánh bại chiến tranh phá hoại ở miền Bắc của không quân Mỹ v.v...) làm cho thế lực của Mỹ ngày càng giảm sút, ảnh hưởng của Trung Quốc và Liên Xô tăng lên ở khu vực. Tình hình đó làm cho ASEAN phải xem xét, đổi mới, tính toán lại chiến lược của mình. Sự can thiệp ngày càng lớn của Trung Quốc cùng với việc Mỹ rút dần quân khỏi Thái Lan v.v... làm cho hơn lúc nào hết chính quyền các nước ASEAN bị gây áp lực, đe doạ tới sự ổn định của đất nước. Tháng 11 - 1971 tuyên bố ZOPFAN được ký kết, tuyên bố này chính là sự thay đổi về đường lối đối ngoại của các nước ASEAN. Mong muốn đạt mục đích tách các nước ASEAN khỏi sự can thiệp của các nước lớn, đặt ASEAN đứng ngoài cuộc tranh chấp giữa các thế lực khác. Biến ASEAN thành khu vực tự do và trung lập, không liên kết. Mặt khác tuyên bố ZOPFAN còn tạo điều kiện để các nước ASEAN thăm dò khả năng quan hệ với Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trước chính sách đối ngoại ngày một tiến bộ của các nước ASEAN cùng với hoạt động giảm bớt sự can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Chính phủ nước ta đã tỏ thái độ hoan nghênh và khuyến khích chúng ta đã tiến hành thiết lập một số chính sách với các nước thuộc ASEAN (Năm 1970 - Malaixia đình chỉ việc đào tạo cảnh sát và cố vấn cho chính quyền Sài Gòn, từ chối yêu cầu của Sài Gòn lên án cuộc tấn công của quân dân Việt Nam ở Nam Việt Nam. Singapor chấp nhận để Việt Nam dân chủ cộng hoà đặt cơ quan Tổng Công ty xuất nhập khẩu (7 - 1971), 1969, 1970 hai nước Philippin và Thái Lan công bố và thực hiện kế hoạch rút quân và nhân viên ra khỏi miền Nam Việt Nam chúng ta cũng tiến hành thay đổi thái độ với Philippin v.v... Tuy nhiên quan hệ giữa hai bên vẫn chưa có phát triển gì đáng kể).
+ Đầu năm 1973 ở khu vực tình hình có sự thay đổi. Mỹ đã phải ký hiệp định Pari chấm dứt hoạt động quân sự ở Đông Dương xu thế hoà bình trung lập ở khu vực phát triển mạnh, chính quyền độc tài thân Mỹ Thanon ở Thái Lan sụp đổ, sức ép đòi rút quân Mỹ khỏi Thái Lan ngày một tăng. Vì vậy, các nước ASEAN phải điều chỉnh mạnh mẽ chính sách đối ngoại của mình. ở bình diện quốc tế ASEAN tăng cường quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, thực hiện chính sách cân bằng, giữa các nước lớn. (thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ, bình thường hoá quan hệ thương mại, thiết lập quan hệ ngoại giao giữa các nước ASEAN với Liên Xô và Trung Quốc) các nước.
- Trên khu vực ASEAN thực hiện nhiều hành động, cử chỉ thân thiện nhằm tạo cơ sở cho việc đặt quan hệ với Việt Nam (3 - 1973; Philippin Thái Lan rút hết quân đội khỏi Nam Việt nam, Thái Lan hạn chế Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự ở Thái Lan hạn chế Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự ở Thái Lan chống lại các nước Đông Dương 7 - 1974; kêu gọi viện trợ kinh tế cho các nước Đông Dương v.v...
Sau khi ký hiệp định Pari chúng ta cũng tích cực triển khai chính sách khu vực đẩy mạnh quan hệ song phương với các nước thuộc ASEAN (thiết lập quan hệ ngoại giao với Malaixia và Singapor (1973) tổ chức cho các nước ASEAN thăm viếng Việt Nam, xúc tiến đàm phán lập quan hệ ngoại giao với Philippin).
Với chính sách 4 điểm phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các nước Đông Nam á. Bằng việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Thái Lan (8 - 1976) chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với tất cả các nước thành viên ASEAN. Quan hệ song phương Việt Nam với từng nước ASEAN ngày càng phát triển ở các lĩnh vực. Các bên tiến hành lập sứ quán ở Việt nam và các nước ASEAN. Đây là thời kỳ quan hệ Việt Nam - ASEAN có sự phát triển nhảy vọt tạo nền móng vững chắc cho quan hệ giữa Việt nam với tổ chức ASEAN. (giai đoạn này chúng ta chưa có quan hệ hợp tác với tổ chức ASEAN.
b. Giai đoạn 1979 - 1988.
+ Khi Việt Nam thực hiện quyền tự vệ chính đáng và theo yêu cầu của nhân dân Campuchia đưa quân vào Campuchia quét sạch bè lũ Pôn Pốt. Quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN chuyển sang đối đầu. Chúng ta vẫn kiên định thực hiện đường lối đối ngoại hoà bình tôn trọng đối với các nước ASEAN vì một Đông Nam á hoà bình và ổn định. (Tích cực giải quyết vấn đề Campuchia trên nguyên tắc hợp tác, tích cực giải quyết mâu thuẫn khu vực; kêu gọi hợp tác đẻ xây dựng Đông Nam á ) Tuy nhiên thiện chí của Việt nam đã bị một số nước ASEAN không ủng hộ.
Sau khi tình hình Campuchia có biến chuyển tích cực một số nước như Indonexia và Malaixia đã vượt lên vấn đề Campuchia để đi tới việc thực hiện ZOPFAN. Từ những biến đổi quan trọng đó xu thế đối thoại giữa các nước Đông Nam á được phát triển theo một bước ngoặt mới.
c. Giai đoạn 1988 - 1991.
- Vấn đề Campuchia được dần tháo gỡ Việt Nam đơn phương rút quân khỏi Campuchia. Quan hệ song phương Việt Nam - các nước ASEAN phát triển chính sách hợp tác khu vực được tăng cường. Các nước ASEAN thể hiện mong muốn hợp tác và thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào ASEAN. Đây là thời kỳ có tính chất bước đệm, là đà phát triển cho quan hệ Việt Nam - ASEAN bước sang một thời kỳ mới: thời kỳ hợp tác và phát triển.
d. Giai đoạn 1992 - trước khi Việt Nam là thành viên ASEAN.
Trước vận hội mới cho phát triển và hợp tác cùng với sự cần thiết về an ninh khu vực cả Việt Nam và các nước ASEAN đã thực hiện đường lối xích lại gần nhau. Quan hệ hợp tác Việt Nam - ASEAN trở thành chính sách quan trọng đối với cả hai phía từ 1992 - tới khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN chúng ta đã tham gia vào rất nhiều hoạt động chung của tổ chức nhằm chuẩn bị cho sự tham gia vào ASEAN. Qua các hội nghị của tổ chức việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã được sự đồng tình và nhất trí cao. ASEAN trở thành đối tác quan trọng cho sự phát triển của Việt Nam.
2. Việt Nam trở thành thành viên ASEAN (28 - 7 - 1995).
Sau một thời gian dài chuẩn bị. Với thiện chí làm bạn với tất cả vì hoà bình ổn định và phát triển nhằm xây dựng Đông Nam á hoà bình hữu nghị và hợp tác. Ngày 28 - 7 - 1995 tại thủ đô Brunay. Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 28 và ARF lần thứ 2 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN đồng thời Việt Nam cũng tuyên bố gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); Việt Nam cũng tiến hành hoà nhập vào các hoạt động chung khác của ASEAN. Việc Việt Nam với thế mạnh về lãnh thổ, dân cư gia nhập ASEAN đã thực sự làm cho ASEAN trở thành tổ chức hợp tác đa văn hoá, chính trị, kinh tế. Tăng cường sự ổn định khu vực, góp phần xây dựng Đông Nam á hoà bình và phồn vinh.
II - Quan hệ pháp lý Việt Nam - ASEAN.
Mối quan hệ pháp lý được thiết lập giữa các nước trong ASEAN nhằm xác định một hành lang pháp lý cho quan hệ giữa các nước thành viên trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh v.v... Việt Nam với tư cách là thành viên của ASEAN, việc tham gia các mối liên kết pháp lý này là rất cần thiết và tất yếu. Mối quan hệ pháp lý này được thể hiện ở các văn bản hiệp định, hiệp ước và các văn bản khác. Trong đó quy định về quy tắc xử sự giữa các nước trong quan hệ song phương và đa phương với mục tiêu là xây dựng một Đông Nam á như tiêu chí thành lập của tổ chức.
1. Trong lĩnh vực chính trị.
Trong lĩnh vực chính trị và an ninh khu vực các nước thành viên ASEAN đã thoả thuận và ký kết, tham gia hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam á (Hiệp ước Bali 24 - 2 - 1976) Việt Nam đã tham gia hiệp ước này vào năm 1992 thể hiện cam kết của mình trong việc thực hiện đường lối đối ngoại hoà bình, đảm bảo sự tuân thủ của Việt Nam đối với những mục tiêu của tổ chức ASEAN. Ngoài ra Việt Nam còn thừa nhận các mục đích như: Xây dựng khu vực hoà bình, tự do, trung lập (tuyên bố Kualalămpua 1971) các mục tiêu trong tuyên bố thành lập ASEAN coi đó là mục đích của Việt Nam. Ngoài các văn bản pháp lý có tính chất đa phương Việt Nam còn ký những văn bản song phương đề ra những quy định trong quan hệ giữa Việt Nam và nước thành viên ASEAN.
2. Trong lĩnh vực kinh tế:
Để đảm bảo sự công bằng và cùng có lợi trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước, ASEAN đã hình thành một số văn bản mang tính chất điều chỉnh các quan hệ này trên cơ sở hợp tác, không phương hại đến lợi ích của nhau. Mặt khác còn tạo ra khung pháp lý để phát triển mối quan hệ, hợp tác kinh tế, xây dựng các chương trình kinh tế lớn của tổ chức, làm cơ sở pháp lý để điều chỉnh quan hệ kinh tế giữa hai nước thành viên. Hiện nay, văn bản quy định chương trình kinh tế lớn nhất của ASEAN là thoả thuận về xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) là thành viên đầy đủ của ASEAN Việt Nam đã tham gia AFTA và tuân thủ chặt chẽ, nghiêm túc các chương trình hành động bắt buộc đối với thành viên (VD cắt giảm thuế tiến tới đánh thuế từ 0 à5% các mặt hàng theo danh mục vào năm 2003. Mặc dù chương trình này gây thiệt hại khá lớn cho sản xuất trong nước v.v.... Hiệp định thoả thuận ưu đãi thương mại (PTA - 1977) đã được Việt Nam tham gia và thực hiện. Chúng ta đã xây dựng chính sách cho hướng tối huệ quốc với các nước ASEAN, nghiêm chỉnh chấp hành mức thuế ưu đãi đối với các sản phẩm thuộc PTA.
Việt Nam đã ký kết các hiệp định, hiệp ước và các văn bản khác xác định quyền lợi và trách nhiệm của mình với các nước đối tác (quan hệ song phương) các quy chế pháp lý này tạo nên các quy chế và đường lối thực hiện quan hệ kinh tế hai chiều giữa Việt Nam với từng nước trong khu vực. Có thể kể tới các hiệp định hàng không, hiệp định hợp tác hàng hải (Việt Nam - Malaixia; Việt Nam - Lào - Campuchia - Myanma, v.v...), hiệp định hợp tác khoa học kỹ thuật, công nghệ (Việt Nam - Malaixia; Việt Nam - Philippin), hiệp ước hợp tác du lịch (1978) với philippin; hiệp định thương mại, hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư - Singapor... và rất nhiều các văn bản song phương khác. Việc Việt Nam ký kết và thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản có tính pháp lý đó đã làm tăng độ tin cậy của các nước trong khu vực, tạo cơ sở để tiến tới các hoạt động hợp tác trong tương lai. Mặt khác, các quy phạm pháp lý này đảm bảo quyền lợi của Việt Nam cả về chính trị và kinh tế, xu hướng trong tương lai Việt Nam sẽ cùng với các nước khác xây dựng các văn bản pháp lý để điều chỉnh luồng quan hệ còn “khoảng trống” đặc biệt là trong khu vực hợp tác kinh tế.
III - Hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN.
1. Hợp tác trong các chương trình kinh tế ASEAN.
Trước năm 1986 do quan hệ Việt Nam - ASEAN chưa được khai thông và hoạt động hợp tác kinh tế của Việt Nam chủ yếu với Liên Xô và Đông Âu. Do vậy, quan hệ kinh tế Việt Nam - ASEAN là không đáng kể. Sau 1986 trên cơ sở đường lối mở chửa và hội nhập, phát triển hợp tác kinh tế, ASEAN đã trở thành một đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam. Thị trường ASEAN đã thay thế vai trò của Liên Xô và Đông Âu trong việc cung cấp các mặt hàng nhập khẩu quan trọng của Việt Nam, đặc biệt là vai trò của Singapor. Hàng nhập khẩu từ Singapor giúp Việt Nam trong giai đoạn Liên Xô sụp đổ, giảm áp lực về phụ thuộc thị trường của Việt Nam. Mặt khác Singapor đóng vai trò trung gian giúp xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam sang các thị trường mới. Cho nên chỉ trong 5 năm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng rất lớn. (Ví dụ năm 1986 tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam với ASEAN chỉ đạt 118 triệu USD chiếm 4% tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đến 1993 đã tăng lên 2 tỷ USD gấp 6,5 lần, chiếm 21% tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam. Năm 1995 ASEAN chiếm 1/3 kim ngạch nhập khẩu và 1/3 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam). Các nước trong khối ASEAN đều dành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc trong thương mại.
Quan hệ kinh tế Việt Nam ASEAN chủ yếu là thương mại và đầu tư. Đầu tư trực tiếp (FDI) từ ASEAN vào Việt Nam đã tăng lên rất mạnh tới 1996 các nước đã đầu tư vào Việt Nam 306 dự án với tổng vốn đạt 6,9 tỷ USD. Đây là động lực không nhỏ để phát triển nền kinh tế Việt Nam.
* Quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN (Quan hệ đa phương).
+ Một trong những mục tiêu quan trọng trong hoạt động của ASEAN là hợp tác kinh tế nhằm phát triển kinh tế, xoá bỏ đói nghèo nâng cao đời sống nhân dân. Việt Nam ngay từ khi chưa là thành viên chính thức của ASEAN cũng đã tham gia hợp tác kinh tế trong các chương trình của ASEAN. Với mục tiêu kinh tế của mình ASEAN đã tăng cường sự hợp tác khu vực nhằm xây dựng mối liên kết kinh tế linh hoạt giữa các nước thành viên Hội nghị thượng đỉnh IV tại Singapor 1992 đã xác định những nội dung hợp tác chủ yếu của ASEAN trong thập kỷ 90 là:
- Thiết lập khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
- Tăng cường đầu tư, liên kết và bổ sung công nghiệp thông qua việc áp dụng các biện pháp và hình thức hợp tác mới.
- Củng cố và phát triển hơn nữa sự hợp tác trong các lĩnh vực: thị trường vốn, tạo điều kiện dễ dàng cho chu chuyển tự do vốn và các nguồn tài chính khác.
- Phát triển mạng lưới hạ tầng cơ sở vận tải và thông tin an toàn kể cả hệ thống viễn thông và bưu chính; phát triển hợp tác du lịch và năng lượng.
- Thúc đẩy buôn bán các sản phẩm nông nghiệp.
- Phát triển hợp tác tiểu vùng giữa các nước ASEAN, giữa ASEAN với quốc tế.
- Đẩy mạnh hợp tác giữa các khu vực tư nhân.
Việt Nam với tư cách là thành viên ASEAN đã tích cực tham gia các hoạt động hợp tác kinh tế chung trong ASEAN.
+ Chương trình hợp tác thương mại.
Thúc đẩy tăng cường buôn bán trong nội bộ ASEAN là một mặt rất quan trọng trong hợp tác kinh tế ASEAN. Do vậy, thoả thuận ưu đãi thương mại (Preferentia Trading Arrangements - PTA) được thực hiện từ 1977 nhằm tự do hoá thương mại, thúc đẩy trao đổi buôn bán trong khu vực. Theo thoả thuận này các nước thành viên dành cho nhau những ưu đãi về thuế quan (mức giảm thuế quan MOP cho những sản phẩm PTA là 50% so với mức thuế tối huệ quốc của nước nhập khẩu - sản phẩm ưu đãi PTA là những sản phẩm được sản xuất, khai thác tại ASEAN hoàn toàn hoặc một phần).
+ Việt Nam - ASEAN trong AFTA.
Thoả thuận thiết lập khu mậu dịch tự do AFTA năm 1992 nhằm tăng cường buôn bán giữa các nước ASEAN, góp phần cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài vào ASEAN, tạo ASEAN có nền sản xuất cạnh tranh hướng ra thị trường thế giới (tháng 9 - 1994 các nước ASEAN quyết định rút thời gian hoàn thành ASEAN từ 2008 xuống 2003. Bruney đề nghị hoàn thành AFTA vào năm 2000). Việt Nam tích cực tham gia vào thực hiện AFTA, tăng cường sản xuất trong nước, sửa đổi chính sách thuế cho phù hợp. Chúng ta được ưu tiên 3 năm so với các nước khác trong quá trình thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (EPT). Tiến hành cải cách thủ tục hải quan, tham gia hệ thống chất lượng quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm để được cấp chứng nhận chất lượng quốc tế ISO, dỡ bỏ dần các hàng rào phi thuế quan v.v...
Để thực hiện AFTA được suôn xẻ Việt Nam tham gia thực hiện cùng các nước thành viên các biện pháp hỗ trợ như hợp tác hải quan (thống nhất biểu thuế quan, thống nhất hệ thống giá trị hải quan, lập luồng xanh để thông qua nhanh các hàng hoá thuộc CEPT v.v...
- Thống nhất tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá v.v...
- Và nhiều biện pháp khác.
+ Phối hợp lập trường trong các vấn đề thương mại quốc tế - Việt Nam cùng các nước ASEAN hợp tác chặt chẽ để mở rộng tăng cường buôn bán giữa ASEAN và thế giới bên ngoài. Các nước phối hợp chặt chẽ với nhau giữ vững lập trường trong quan hệ với các tổ chức thương mại đa bên và với các nước giầu trên thế giới. ASEAN đề cao các nguyên tắc thương mại, ủng hộ các nước thành viên chương trình kinh tế cuả APEC, WTO v..v. hậu thuẫn để các nước thành viên tham gia hợp tac kinh tế quốc tế. Các nước ASEAN cam kết ủng hộ Việt Nam tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO ..v..v. cùng nhau hợp tác nghiên cứu những vấn đề liên quan tới lập trường của ASEAN trong các vấn đề thương mại quốc tế như: những biện pháp đối phó với chính sách bảo hộ mậu dịch của các quốc gia ngoài ASEAN, chính sách thuế quan, tỷ giá v..v.
+ Hợp tác phát triển công nghiệp
+ Việt Nam hợp tác cùng với ASEAN trong các chương trình công nghiệp. Đặc biệt là chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO). AICO là chương trình công nghiệp nhằm thay thế cho 2 chương trình công nghiệp đã bị lỗi thời là: Chương trình liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) và chương trình liên kết sản xuất chung nhãn mác (BBC). Hai chương trình này có mục đích khuyến khích đầu tư nước ngoài vào ASEAN, hợp tác đầu tư trong nội bộ khu vực vào công nghiệp(AIJV), khuyến khích các công ty tư nhân ASEAN hợp tác sản xuất và trao đổi các linh kiện ô tô, qua đó thúc đẩy chuyên môn hoá trong việc sản xuất các sản phẩm này (BBC).
AICO có mục đích tương tự như BBC và AIJV hơn nữa AICO còn tạo điều kiện cho các công ty nhỏ và vừa có thể tham gia. Các sản phẩm AICO căn cứ vạo tính hoàn chỉnh hoặc nguồn gốc nguyên liệu để tạo ra sản phẩm sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi 0-5% và các khuyến khích phi thuế quan do từng nước quy định. Tổ chức này mang tính phối hợp sản xuất giữa các công ty của ASEAN. (AICO không phải là doanh nghiệp mới và phải có ít nhất 2 công ty của 2 nước ASEAN cùng hợp tác). Đây là một chương trình hợp tác mà Việt Nam rất quan tâm. AICO góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước, nâng cao chất lượng hàng hoá, tìm hiểu và áp dụng những công nghệ mới, sản xuất được sản phẩm mới.
Khi hợp tác công nghệ theo chương trình này tại Việt Nam các doanh nghiệp nước ngoài được hưởng các điều kiện miễn trừ. (Quy định chung của AICO là: các công ty muốn tham gia một tổ chức AICO phải được thành lập, đang hoạt động ở bất kỳ một nước nào; có tối thiểu 30% cổ phần quốc gia; có thực hiện các hoạt động cung cấp nguồn lực cho nhau, hoạt động công nghiệp phụ trợ và hoat động hợp tác công nghiệp. Trong trường hợp không đủ 30% cổ phần quốc gia nhưng đáp ứng được các điều kiện miễn trừ tiêu chuẩn cho nước sở tại tham gia AICO quy định vẫn có thể được phép tham gia. Các điều kiện miễn trừ do Việt Nam gồm:
- Các công ty xin tham gia phải sản xuất sản phẩm mới có sử dụng thiết kế, cách thức, phương pháp, quy trình, hệ thống chưa có ở Việt Nam.
- Cam kết xuất khẩu sản phẩm AICO của công ty xin tham gia phải từ 50% trở lên.
- Hàm lượng nội địa hoá sản phẩm AICO phải trên 50% trước năm 2000.
-Công ty xin tham gia phải có ít nhất 40% cổ phần cộng gộp của ASEAN
- Có sự tham gia của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đơn xin tham gia tổ chức AICO tại Việt Nam phải gửi tới Bộ Công nghiệp theo mẫu .
+ Hợp tác năng lượng khoáng sản Việt Nam - ASEAN
Nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế cuả các nước thành viên, trong khuôn khổ hợp tác ASEAN về năng lượng và khoáng sản. Tiến hành các hoạt động trao đổi thông tin thành lập cơ sở dữ liệu khoáng sản, kế hoạch sử dụng nhiên liệu. Ký kết hợp tác quản lý nguồn dầu mỏ ở các khu vực còn tranh chấp ( Ví dụ: Hợp đồng Việt Nam - Malaixia về thăm dò dầu khí trong khu vực biển Đông, tại vùng mà 2 nước đều cho là thuộc chủ quyền của mình. Hai bên đồng ý chia đều lợi tức). Hợp tác xây dựng một kế hoạch tổng thể về khai thác và sử dụng khí tự nhiên đang được triển khai
+ Hợp tác kinh tế Việt Nam- ASEAN trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng
- Trong hợp tác kinh tế tài chính, tiền tệ, ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng. Việt Nam bằng hành động của mình cùng ASEAN hợp tác cải cách hệ thống ngân hàng, sửa đổi chính sách thuế cho phù hợp, hợp tác giải quyết hậu quả khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á . Theo hướng đó bằng kinh nghiệm của mình cùng các nước thành viên khác xây dựng chính sách kinh tế vĩ mô, củng cố hệ thống tài chính và thị trường vốn, tăng cường quy chế giám sát các dòng vốn ngắn hạn, giả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0150.doc