Lý thuyết “nguyên tử luận lôgíc” (“chủ nghĩa đa nguyên tuyệt đối”) được
B.Russell đưa ra trong các bài viết của hợp tuyển Chủ nghĩa thần bí và lôgíc học
(1917) và trong tập bài giảng Triết học của nguyên tử luận lôgíc(1918). Lý thuyết
này “thường xuyên len lách vào triết học thông qua việc nghiên cứu toán học một
cách có phê phán”(10). Cái đã có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành quan
điểm đa nguyên luận này của B.Russell là Lược khảo lôgíc học -triết học của
L.Wittgenstein. Theo B. Russell, nhiệm vụ của nguyên tử luận lôgíc là sử dụng
những sự kiện tối giản để tạo ra một bức tranh khoa học về cấu trúc một cách phù
hợp với cấu trúc của ngôn ngữ lý tưởng về mặt lôgíc, giống như ngôn ngữ của
“Principia Mathematica”. Song, nguyên tử luận lôgíc lại hóa ra là một sự tư biện
trừu tượng và tất yếu dẫn đến chủ nghĩa duy ngã.
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2135 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu B. Russell -Nhà triết học, nhà nhân văn học kiệt xuất của thế kỷ XX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vậy về thế giới đã trở thành một
khuynh hướng đặc biệt, khi B.Russell triển khai những vấn đề của lôgíc toán.
Năm 1900, B.Russell đã tích cực tham gia vào Hội nghị toán học ở Paris. Tại đây,
ông đã làm quen với các công trình của nhà toán học người Italia - J.Peano và
những người thuộc trường phái này. Điều này đã khiến ông phải quan tâm đến
những công trình nghiên cứu sâu sắc hơn về sự luận chứng lôgíc học cho toán học
và cho việc ứng dụng các phương pháp của lôgíc toán vào triết học. B.Russell đã
cố gắng chứng minh rằng, triết học cần phải trở thành khoa học giống như toán
học, còn toán học trở thành khoa học giống như lôgíc học. Từ quan niệm này, ông
đã nghiên cứu các tác phẩm của nhiều nhà lôgíc học (A.J.Morgan, J.Boull,
S.Jevons, H.Frege, v.v.) và tiến hành những tìm tòi, nghiên cứu riêng của mình.
Nhờ những tìm tòi ấy, ông đã viết các tác phẩm chuyên sâu về sự luận chứng lôgíc
học cho toán học ở hai thập niên đầu thế kỷ XX.
Năm 1903, B.Russell cho xuất bản Những nguyên lý của toán học, trong đó ông
giữ lập trường duy danh, chứ không phải duy thực đối với các khái niệm của lôgíc
toán. Sau đó vài năm, ông cùng với nhà duy thực nổi tiếng người Anh là
A.N.Whitehead đã biên soạn tác phẩm gồm 3 tập về lôgíc toán cổ điển Principia
Mathematica (1910-1913). “Mục đích của công trình nghiên cứu này, - B.Russell
viết, - là nhằm chỉ ra rằng, toàn bộ toán học thuần tuý đều bắt nguồn từ các tiền đề
lôgíc học thuần tuý và chỉ sử dụng những khái niệm được khẳng định bởi những
thuật ngữ lôgíc học”(5). Động cơ để B.Russell viết tác phẩm này là việc ông phát
hiện ra nghịch lý tập hợp của mọi tập hợp hữu hạn trong hệ thống Frege.
Trong Lời nói đầu cho triết học toán học (1918), B.Russell đã lưu ý tới một thực
tế là, mặc dù toán học và lôgíc học đã hình thành như hai khoa học hoàn toàn khác
nhau, nhưng giờ đây “toán học đã bắt đầu mang tính lôgíc học nhiều hơn, còn
lôgíc học cũng mang tính toán học nhiều hơn”(6). Và, khi xây dựng lôgíc học,
B.Russell đã phân định rành mạch giữa lôgíc học mệnh đề và lôgíc học lớp, phát
triển lý thuyết hàm chân thực và phương pháp ma trận. Những cách tân này là một
bước tiến quan trọng trên con đường phát triển của lôgíc học, đi vào di sản lôgíc
học cổ điển.
Trong Principia Mathematica, B.Russell tuyên bố “hoàn toàn có thể xây dựng
được lôgíc học của toán học mà không dẫn đến những mâu thuẫn”(7) và đi đến kết
luận rằng, để loại bỏ nghịch lý thì cần phải phân biệt rõ các cấp độ ngôn ngữ, và
dựa trên cơ sở đó, cấm áp dụng các đặc trưng của một cấp độ này vào cấp độ khác.
Để đạt được mục đích này, năm 1908, B.Russell đã xây dựng lý thuyết phân cấp
các cấp độ khách thể của thao tác lôgíc và coi đó là cơ sở của hệ thống Principia
Mathematica. Sau đó, tư tưởng này của ông đã kích thích A.Tarssky nghiên cứu
một cách hết sức căn bản về khái niệm tính chân thực trong ngôn ngữ hình thức.
Chủ ý của B.Russell là quy toán học về lôgíc học, tức là xây dựng một hệ thống
lôgíc học toàn vẹn và không có nghịch lý, mà khi xuất phát từ một số những
“mệnh đề nguyên tử” sơ đẳng đã không thể thực hiện được. Theo ông, các nghịch
lý lôgíc bị loại bỏ bằng cái giá là đánh mất các lớp định đề chân thực, không
nghịch lý là điều rất quan trọng đối với toán học. Và, khi không thể chạy trốn khỏi
các tiền đề nằm ngoài lôgíc học, thất bại này còn gắn liền với quan niệm duy tâm
về toán học và lôgíc học. Từ quan niệm này, B.Russell đã lý giải các bộ môn khoa
học này như các khoa học “tiên nghiệm”, tức là hoàn toàn nằm ngoài kinh nghiệm
và không phụ thuộc vào cấu trúc của thế giới khách quan.
Với B.Russell, toán học và lôgíc học là những lĩnh vực độc lập của tồn tại, không
có quan hệ nào với thế giới kinh nghiệm và do vậy, chúng phù hợp với cả chủ
nghĩa duy thực mới lẫn chủ nghĩa thực chứng mới. Quan niệm này đã đưa ông đến
chỗ tách rời cái chung với cái riêng, cảm tính với lý tính, bởi theo ông, cái chung
có thực tại độc lập nên những tư tưởng này là phù hợp với quan niệm gắn liền chủ
nghĩa duy thực mới với quan niệm của Platon về khách thể toán học - lôgíc học.
Coi yếu tố cơ bản của thế giới là “những ý niệm của Platon” hay những khái niệm
chung tồn tại như một cái gì đó nằm ngoài thời gian, B.Russell đã khẳng định:
“Thế giới khái niệm chung, được mô tả như một thế giới tồn tại bất biến, chặt chẽ,
chính xác là cái hấp dẫn không chỉ đối với nhà toán học, với người sáng tạo ra các
hệ thống siêu hình học, mà còn đối với cả những ai yêu thích sự hoàn hảo hơn sự
sống”(8). Theo ông, thế giới khái niệm chung và quan hệ giữa chúng chỉ khả tri
đối với nhận thức “tiên nghiệm”, bởi nó đứng đối lập với thế giới tồn tại nhất thời,
bao gồm những khách thể vật lý cùng với những quan hệ đặc thù của chúng và đời
sống tinh thần. Thế giới phát sinh này là cái được đem lại cho chúng ta thông qua
kinh nghiệm trực tiếp mà B.Russell đã hạn chế nó ở nội dung của các cảm giác.
Bất chấp những luận điểm duy thực mới, trong ý thức của B.Russell vẫn xuất hiện
giải pháp đưa ông đến gần với lập trường của chủ nghĩa thực chứng lôgíc. Cái
đóng vai trò quan trọng, xét về phương diện này, là lý thuyết mệnh đề mô tả “biểu
tượng không đầy đủ” và “kết cấu lôgíc” mà ông đã xây dựng vào năm 1905.
Không dừng lại ở chức năng lôgíc thuần tuý của mệnh đề mô tả, B.Russell còn
biến lý thuyết này thành một quan điểm nhận thức luận và áp dụng nó vào triết
học. Xuất phát từ mong muốn rút ra các kết luận triết học rộng lớn từ các khái
niệm và quan hệ lôgíc, ông đã áp dụng lôgíc học vào triết học, đồng thời hướng
những tìm tòi triết học vào lôgíc học. Trong cuốn Nhận thức của chúng ta về thế
giới bên ngoài như lĩnh vực tác động của phương pháp khoa học trong triết học
(1914), B.Russell đã đi đến quan niệm rằng, “nghiên cứu lôgíc học trở thành
nghiên cứu chủ yếu trong nghiên cứu triết học; nó đem lại phương pháp nghiên
cứu triết học, còn toán học đem lại phương pháp cho vật lý học”(9). Theo ông, đối
tượng của triết học cần phải là sự phân tích các khoa học về mặt lôgíc học; nó có
nhiệm vụ phát hiện ra cấu trúc tối hậu của tư liệu khoa học dưới dạng những sự
kiện đơn giản và có thể ghi nhận được nhờ những mệnh đề đơn giản.
Trong lý thuyết mô tả, phù hợp với định hướng duy danh của mình trong vấn đề
này, B.Russell đã chứng minh rằng, các mệnh đề mô tả có chức năng ký hiệu -
lôgíc khác với tên gọi của nó và không mang nghĩa của bản thân đối tượng. Chúng
là biến thể của các “biểu tượng không đầy đủ”, không có nghĩa xác định. Nếu
mệnh đề này biểu thị một cái gì đó khác với “biểu tượng không đầy đủ” thì nó là
mệnh đề sai. Để thoát ra khỏi bế tắc này, theo ông, cần phải thừa nhận mệnh đề mô
tả không biểu thị denotate (tên gọi), mặc dù điều đó mâu thuẫn với ngôn ngữ hàng
ngày. Thế nhưng, đó lại là sai lầm của trực giác ngôn ngữ, mà theo B.Russell, việc
xác định nó cho phép chúng ta né tránh được những thuật ngữ riêng và giải quyết
được nghịch lý tồn tại của những đối tượng không tồn tại.
Tuy nhiên, những luận điểm ấy đã đưa Russell đến những sai lầm nghiêm trọng về
phương diện triết học. Khi chuyển “tồn tại” sang biểu tượng (quantum) của các
mệnh đề hiện sinh và thay thế vấn đề về tồn tại bằng vấn đề về sự “giả định” có
chung những dấu hiệu nằm trong mệnh đề mô tả, B.Russell đã tuyệt đối hóa một
cách sai lầm ý nghĩa của thao tác này, đã hòa tan các loại hình tồn tại khác nhau về
chất vào khái niệm “tồn tại nói chung” và chuyển dịch một cách sai trái tính không
có vị từ của “tồn tại nói chung” sang mọi loại hình ấy. Không chỉ thế, ông còn
đồng nhất mọi loại hình tồn tại với tồn tại trong ý thức của chủ thể có tư duy lôgíc.
Qua đó, vấn đề tồn tại đã được ông lý giải theo lối duy tâm chủ quan.
Trong Nhận thức của chúng ta về thế giới bên ngoài như những tác động của
phương pháp khoa học trong triết học, B.Russell đã cố gắng giải phóng hoàn toàn
khỏi khái niệm “khách thể vật chất”. Ông phân tích những dữ liệu cảm tính mà,
xét từ góc độ phân tích, được gọi là “dữ liệu tối hậu” về thế giới do tính không quy
giản được của chúng. Quan điểm “nguyên tử luận lôgíc” và “nhất nguyên luận
trung lập” của ông đã bắt đầu hình thành ở đây.
Lý thuyết “nguyên tử luận lôgíc” (“chủ nghĩa đa nguyên tuyệt đối”) được
B.Russell đưa ra trong các bài viết của hợp tuyển Chủ nghĩa thần bí và lôgíc học
(1917) và trong tập bài giảng Triết học của nguyên tử luận lôgíc (1918). Lý thuyết
này “thường xuyên len lách vào triết học thông qua việc nghiên cứu toán học một
cách có phê phán”(10). Cái đã có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành quan
điểm đa nguyên luận này của B.Russell là Lược khảo lôgíc học - triết học của
L.Wittgenstein. Theo B. Russell, nhiệm vụ của nguyên tử luận lôgíc là sử dụng
những sự kiện tối giản để tạo ra một bức tranh khoa học về cấu trúc một cách phù
hợp với cấu trúc của ngôn ngữ lý tưởng về mặt lôgíc, giống như ngôn ngữ của
“Principia Mathematica”. Song, nguyên tử luận lôgíc lại hóa ra là một sự tư biện
trừu tượng và tất yếu dẫn đến chủ nghĩa duy ngã.
Trong Phân tích tinh thần (1921), Phân tích vật chất (1927) và Lược khảo triết
học (1928), do ảnh hưởng của nhà triết học thực dụng W.Jemes, của những người
theo “chủ nghĩa duy thực mới” và chủ nghĩa Mach ở Mỹ, B.Russell đã phát triển
hệ thống “nhất nguyên luận trung lập” mà theo đó, cơ sở đầu tiên của vạn vật
không phải là vật chất, mà là một “vật liệu trung lập” nào đó và cũng do vậy, ranh
giới giữa cái vật chất và cái tinh thần, cái vật lý và cái tâm lý bị thủ tiêu. Phát triển
quan niệm này, trong Phân tích vật chất, ông đã tuyên bố rằng, “vật chất trở nên ít
có tính vật chất hơn, còn tinh thần - ít có tính tinh thần hơn so với lẽ phải giả
định”(11). Theo ông, tinh thần và vật chất không đối lập nhau, không khác nhau
và do vậy, “không còn tồn tại nhị nguyên luận của vật chất và lý tính: vật chất trở
nên giống với lý tính hơn, lý tính trở nên giống với vật chất hơn”(12). Thực ra,
B.Russell, cũng thừa nhận có một sự khác biệt nào đó giữa cái vật lý và cái tâm lý,
nhưng ông cho đó chỉ là sự khác biệt về quan hệ, chứ không phải về phương diện
bản thể luận của chúng. Theo ông, “vật liệu trung lập” hay các bộ phận của nó
(“những thể thống nhất trung lập”) có thể được tổ chức theo các con đường khác
nhau, theo các loại quan hệ khác nhau, cấu thành vật chất trong một số trường hợp,
còn tinh thần - trong một số trường hợp khác. “Vật lý học nghiên cứu một số quan
hệ, còn tâm lý học thì nghiên cứu một số quan hệ khác”(13).
Vào năm 1940, B.Russell đã xuất bản một công trình nghiên cứu mới của ông -
Nghiên cứu nghĩa và chân lý, trong đó, mặc dù vẫn thể hiện thiện cảm với chủ
nghĩa thực chứng lôgíc và tán thành với nó ở nhiều điểm, song ông không chấp
nhận chủ nghĩa thỏa hiệp và chủ nghĩa vật lý của các nhà thực chứng lôgíc và phê
phán họ ở điểm này. Ông cũng bác bỏ lập trường của E.Mach. Khác với tất cả các
nhà triết học ấy, ông đã cố gắng lý giải khái niệm “sự kiện” như một cái khách
quan và không phụ thuộc vào tư duy của chúng ta. Thế nhưng, ông đã không đi
đến chủ nghĩa duy vật, vì “sự kiện” theo quan niệm của ông, là cái khác với
“những yếu tố kinh nghiệm”, không mang tính chủ quan, nhưng lại phụ thuộc vào
“khách thể” mà xét về thực chất, là những kết cấu lôgíc dựa trên “những yếu tố
kinh nghiệm” và do vậy, không chỉ một vòng tròn luẩn quẩn đã xuất hiện trong
suy luận của ông, mà cả chủ nghĩa hiện tượng cũng xuất hiện.
Trong một tác phẩm lớn - Nhận thức của con người, lĩnh vực và giới hạn của nó
(1948) mà B.Russell đã giành tám năm để hoàn thành nó, dường như ông muốn
tổng kết quá trình hình thành và phát triển quan điểm nhận thức luận của mình.
Trong tác phẩm này, sắc thái của chủ nghĩa hoài nghi và thuyết bất khả tri lại nổi
bật lên. Nếu như, trong Phân tích vật chất, ông đã khẳng định “lập trường duy
nhất hợp lý trong các vấn đề về thế giới vật lý là ở thuyết bất khả tri hoàn toàn đối
với vạn vật”(14), thì trong tác phẩm này, ông đã đưa ra quan niệm về tính bất khả
tri của chân lý. Khi đặt vấn đề liệu chúng ta có hiểu biết chắc chắn về tính chân
thực của các kết luận khoa học hay không, ông cho rằng, “nhận thức chịu sự chi
phối quá lớn của những tiền đề sinh học và do vậy, là ảo tưởng lừa dối”(15). Điều
đó cho thấy B.Russell đã trở nên đặc biệt gần gũi với những quan điểm của Hume.
Thực ra, B.Russell đã cố gắng thoát ra khỏi vũng lầy của sự hoài nghi tuyệt đối,
khi ông thừa nhận niềm tin là cái nằm ngoài kinh nghiệm và sự tồn tại của thế giới
bên ngoài. Theo ông, “nếu loại bỏ niềm tin như vậy sẽ không còn cơ sở nào để
thừa nhận khoa học trong khuôn khổ rộng lớn của nó, mà việc không thừa nhận
khoa học thì lại là điều không hợp lý”(16). Để khoa học trở nên hợp lý, B.Russell
đã đưa ra năm định đề nhận thức lý luận: “tính bất định giả danh của những hiện
tượng, tính độc lập của quan hệ nhân quả, tính liên tục về không - thời gian, định
đề cấu trúc và định đề ngoại tỷ”, mà theo ông, là cần thiết để minh biện cho những
khái quát bằng quy nạp trong khoa học và là những định đề mang tính tiên
nghiệm(17).
Sự phát triển triết học của tôi là công trình kết thúc quá trình hình thành và phát
triển tư tưởng triết học của B.Russell. Ở đây, ông đã một lần nữa cố gắng khắc
phục bất khả tri luận, nhưng lại thất bại. Luận chiến với các đại diện của chủ nghĩa
thực chứng lôgíc và trường phái “phân tích ngôn ngữ”, B.Russell đã chỉ rõ sự bất
đồng chủ yếu giữa ông với họ thể hiện ở sự bất đồng về luận điểm coi việc thừa
nhận sự tồn tại của thế giới bên ngoài là một sự nhảm nhí đã lỗi thời. Theo ông, sự
thất bại về phương diện triết học của họ được thể hiện ở chỗ, họ đã lãng quên lẽ
phải và sa vào chủ nghĩa duy ngã. Rằng, triết học phân tích ngôn ngữ đã “không
căn cứ trên một cơ sở rộng rãi, vững chắc của nhận thức và tách rời khỏi thế giới
mà triết học từ Thalet đến nay vẫn cố gắng hiểu”(18).
Trong thời kỳ thế chiến thứ nhất và sau đó là trước thế chiến thứ hai, B.Russell đã
thể hiện rõ là người theo chủ nghĩa hòa bình, khi phản đối nước Anh tham gia
chiến tranh. Vì lý do này, ông đã từng bị cầm tù trong thời gian thế chiến thứ nhất.
Năm 1920, ông đến Liên Xô và đã tiếp xúc với V.I.Lênin. Trong Tiểu sử của mình
(1968), ông đã ghi lại cuộc gặp gỡ này và khẳng định không tìm thấy tiếng nói
chung giữa hai người. B.Russell cho rằng, V.I.Lênin giữ lập trường mácxít một
cách kiên định, còn ông thì “đã và sẽ là người chống lại chủ nghĩa Mác”(19).
Song, ông rất ấn tượng về V.I.Lênin và đánh giá V.I.Lênin làm một nhà hoạt động
chính trị, một con người rất cao đẹp, bởi ở V.I.Lênin luôn có sự giản dị và niềm tin
sâu sắc vào sự nghiệp của mình. Khi trở về Anh, B.Russell đã viết tác phẩm Thực
tiễn và lý luận của chủ nghĩa Bônsêvích (1920). Tác phẩm này đã cho thấy rõ ông
không hiểu mục đích của những sự kiện trọng đại đang diễn ra ở Nga. Ông tỏ ra sợ
hãi cách mạng xã hội. Trong Con đường dẫn đến tự do (1918), ông đã vội vàng
tuyên bố rằng, thế giới cần được cải biến nhưng chỉ theo con đường hòa bình và
do vậy, cần phải xác lập tình yêu và sự đồng thuận giữa các tầng lớp xã hội khác
nhau.
Những năm đầu chiến tranh thế giới thứ hai, B.Russell coi thành tựu cao nhất của
văn minh nhân loại là “nền dân chủ Anh” và văn hóa Anh. Trong thời gian chiến
tranh và những năm sau đó, ông đã nhiều lần đến Mỹ và viết về những phẩm chất
vượt trội của “lối sống Mỹ”. Năm 1946, trong Những giá trị trong kỷ nguyên
nguyên tử, ông đã bảo vệ tư tưởng về chiến tranh hạt nhân phủ đầu chống lại Liên
Xô. Tuy nhiên, sau đó, ông đã thừa nhận quan điểm này là sai lầm lớn nhất trong
đời mình và lên án chiến tranh hạt nhân.
Trong các tác phẩm được công bố sau thế chiến thứ hai - Quyền lực và cá nhân
(1949), Hy vọng trong thế giới thường biến (1957), B.Russell quan tâm nhiều đến
những vấn đề chiến tranh và hòa bình. Thái độ của ông đối với chiến tranh vẫn
mang tính chất yêu chuộng hòa bình và chứa đựng những mâu thuẫn trái ngược.
Đôi lúc ông còn khẳng định “chiến tranh từ xưa tới nay đều là động lực chủ yếu
của xã hội”(20). Nhưng, trong các tác phẩm được viết vào những năm 60 - Lương
tri và chiến tranh nguyên tử (1960), Con người có tương lai hay không (1961),
Chiến thắng vũ khí (1963), Tội phạm chiến tranh ở Việt Nam (1967), ông đã thể
hiện rõ là người tích cực chống lại chiến tranh. Ông viết: “Trước khi xuất hiện vũ
khí nguyên tử, tôi không phản đối chiến tranh, vì cho rằng chiến tranh có lúc là
cần thiết. Nhưng bây giờ, khi vũ khí hạt nhân xuất hiện, tôi chống lại chiến
tranh”(21).
Để cứu thoát loài người khỏi một cuộc chiến tranh mới, B.Russell đã đưa ra tư
tưởng thành lập một “nhà nước toàn cầu”. Tư tưởng này, về thực chất, mang tính
không tưởng; nó xuất hiện dựa trên hệ thống quan điểm đạo đức học của ông, đặc
biệt là căn cứ trên nguyên tắc về “mệnh lệnh tối cao”: hãy hành động như thế nào
đó để kích thích ở con người những khát vọng mang tính hài hòa lớn hơn những
khát vọng đối kháng. Xuất phát từ nguyên tắc này, trong Xã hội loài người xét từ
góc độ đạo đức và chính trị, ông đã xây dựng một hệ thống những luận cứ đạo đức
học nhằm bảo vệ hòa bình.
Vốn là một nhà nhân văn theo định hướng dân chủ, nhưng cho đến cuối đời,
B.Russell vẫn không khắc phục được những hạn chế trong quan niệm trừu tượng
về chủ nghĩa nhân văn, mặc dù trong những năm cuối đời, ông đã tổ chức những
hoạt động cụ thể nhằm chống lại chính sách hiếu chiến của Mỹ. Luôn tin tưởng
vào “những thiên kiến của người theo chủ nghĩa tự do thủ cựu”, song ông vẫn tỏ
thái độ hoài nghi đối với các quyền tự do mang tính hình thức ở phương Tây. Ông
cho rằng, “trong thế giới tự do, cá nhân luôn bị áp bức bởi cái gọi là “dư luận xã
hội” do các nhóm xã hội thống trị đưa ra”(22). Trong một số tác phẩm viết về đạo
đức, chính trị của mình, ông đã cảm nhận thấy ngày một sâu sắc hơn sự khủng
hoảng của văn hóa phương Tây(23).
Vào những năm 20 của thế kỷ XX, B. B.Russell đã dành nhiều thời gian cho vấn
đề giáo dục. Trong lời nói đầu viết cho tác phẩm Về giáo dục trẻ em ở độ tuổi
trước khi đến trường (1926), B.Russell cho rằng, nếu tình yêu được củng cố bằng
tri thức “trở thành cơ sở hiện thực của giáo dục, thì thế giới sẽ được cải biến”(24).
Trong tác phẩm này cũng như trong Khoa học và nghệ thuật dưới chủ nghĩa xã
hội (1919) và Giáo dục và văn minh (1934), B.Russell đã kịch liệt phê phán hệ
thống giáo dục Anh, chống lại ảnh hưởng của giới đầu sỏ tài chính và Giáo hội
đến hệ thống này, đòi hỏi dân chủ hóa giáo dục và yêu cầu để cho trẻ em tự bộc lộ
những khả năng, tính sáng tạo của mình thay vì kiểu giáo dục áp đặt suy nghĩ của
người lớn đối với chúng. Mặc dù rất tâm huyết với giáo dục, nhưng ông không
biên soạn giáo trình về lý luận giáo dục giống như H.Braudi và J.Dewey. Những
tư tưởng giáo dục của ông khi áp dụng vào thực tiễn đã không đạt được kết quả
như mong muốn.
Bình luận các mục từ “văn minh”, “dân chủ”, “lịch sử”, v.v. trong Từ điển về
những vấn đề nhận thức luận, vật chất và đạo đức, B.Russell đã cho thấy ông
“không bao giờ chấp nhận một lược đồ về phát triển lịch sử giống như lược đồ của
Hegel và của Mác”(25). Đối với ông, sử học không phải là khoa học, mà là nghệ
thuật, mặc dù có thể chỉ ra được một số xu hướng phát triển chung của tiến trình
lịch sử. Nếu Mác, Hegel và Spengler tin tưởng vào “các quy luật chung của sự
phát triển lịch sử, hoặc là các quy luật tiến hóa, hoặc là các quy luật có chu kỳ, thì
các quy luật đó đối với tôi không tồn tại và không bao giờ là thực tại. Các quy luật
này phản ánh những luận điểm riêng của tôi đối với vũ trụ”(26). Do vậy, trong
Phái dân chủ xã hội Đức (1896), ông đã tỏ thái độ không tán thành quan niệm duy
vật về lịch sử. Trong bài viết ở những năm 30 của thế kỷ XX - Chủ nghĩa cộng sản
và chủ nghĩa phát xít và trong những tác phẩm, tiểu luận khác, B.Russell luôn bác
bỏ học thuyết mácxít về tiến bộ xã hội. Ông nhấn mạnh: “Tôi không tin rằng có một
tất yếu biện chứng nào đó trong sự biến đổi lịch sử”(27). Vào trước những năm 20
của thế kỷ XX, B.Russell truyền bá tư tưởng chủ nghĩa xã hội Gilde với tư cách
phản đề của chủ nghĩa Mác, mặc dù ông cũng chống lại các tổ chức độc quyền lớn,
coi chúng là mối nguy hiểm đối với tự do tư sản.
Trong Các lý tưởng chính trị (1917), Các nguyên tắc tái thiết xã hội (1916),
Quyền lực (1938), Quyền lực và cá nhân (1949) và Động cơ hoạt động của con
người (1952), B.Russell đã dựa vào công trình của các nhà xã hội học và các nhà
triết học thế kỷ XIX - XX để phát triển quan điểm riêng của mình về vấn đề phát
triển xã hội. Theo ông, cơ sở ứng xử của con người cũng như của toàn bộ đời sống
xã hội là những bản năng, những dục vọng xác định. Trong Các nguyên tắc tái
thiết xã hội, ông quan niệm “triết học chính trị căn cứ trên định đề cho rằng xung
lượng có hiệu quả mong muốn hơn là mục đích có ý thức trong việc hình thành
cuộc sống con người”(28). Xung lượng này có hai loại: xung lượng tư hữu và
xung lượng “sáng tạo”. Nhà nước, chiến tranh và sở hữu tư nhân là những biểu
hiện chủ yếu của xung lượng tư hữu, còn giáo dục, hôn nhân, tôn giáo là sự hiện
thực hóa xung lượng “sáng tạo”. B.Russell đã mô tả toàn bộ lịch sử loài người như
kết quả biểu hiện và tác động của các xung lượng này. Theo ông, không phải
phương thức sản xuất và tái sản xuất ra phương tiện sinh hoạt của con người, mà
những bản năng khác nhau, trong đó có khát vọng thống trị, là cơ sở của tiến trình
lịch sử. Rằng, “khát vọng quyền lực và tình yêu quyền lực là các động cơ chủ yếu
của những chuyển biến đang diễn ra trong xã hội”(29). Trong Quyền lực,
B.Russell thậm chí còn tuyên bố rằng, “chỉ có tình yêu quyền lực là nguyên nhân
của những hoạt động quan trọng trong lĩnh vực xã hội và cho phép lý giải đúng
lịch sử cổ đại và lịch sử hiện đại”(30).
Sử dụng sự tương tự bề ngoài giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội,
B.Russell cố gắng chứng minh rằng, khái niệm cơ bản trong các khoa học nhân
văn phải là khái niệm “quyền lực” giống như khái niệm “năng lượng” trong vật lý
học. Và, giống như năng lượng, quyền lực cũng có các hình thức khác nhau, như
lực lượng quân sự, quản lý dân sự, v.v. và nó có thể chuyển từ một hình thức này
sang hình thức khác. Nhiệm vụ của các khoa học xã hội là tìm ra các quy luật của
sự chuyển hóa ấy. Ông viết: “Thử nghiệm chỉ khảo cứu một hình thức nào đó của
quyền lực, đặc biệt là hiện nay, thí dụ như quyền lực kinh tế, đã và vẫn tiếp tục là
cội nguồn của những sai lầm chính trị”(31).
B.Russell đã bỏ qua cách tiếp cận lịch sử - cụ thể đối với vấn đề quyền lực và bạo
lực. Trong các công trình lý luận, bao giờ ông cũng viết về quyền lực nói chung
một cách rất trừu tượng. Theo ông, nếu khát vọng quyền lực là bản năng bẩm sinh,
thì sự thống trị của giai cấp tư sản là quy luật vĩnh hằng của tự nhiên, không phụ
thuộc vào việc cải biến những điều kiện sinh hoạt mang tính lịch sử - xã hội của
con người. B.Russell xem xét con người từ góc độ siêu giai cấp, nằm ngoài lịch sử
và như là sự hợp nhất giữa động cơ “thiện” và động cơ “ác” trong ứng xử xã hội.
Trong các tác phẩm được viết vào những năm 60 của thế kỷ XX, B.Russell ủng hộ
lý luận “đa nhân tố” trong cải biến xã hội. Ông cho rằng, không thể tách nhân tố
chủ yếu ra từ tổng thể những nhân tố quyết định những biến đổi lịch sử, mà chỉ có
thể xác định một số sự tương tác giữa chúng. Theo ông, kinh tế và quan hệ hôn
nhân - gia đình thể hiện ra là các nhân tố có tác động như nhau trong suốt toàn bộ
lịch sử. Từ quan hệ qua lại giữa chúng, người ta, không thể tách biệt “sự chiếm ưu
thế của một nhân tố này đối với nhân tố khác, xét từ góc độ quan hệ nhân
quả”(32). Xuất phát từ quan niệm này, một lần nữa, B.Russell lại đi đến kết luận
rằng, chúng ta không thể xác lập được các quy luật lịch sử khách quan và do vậy,
sử học không phải là khoa học, mà chỉ là sự mô tả hàng loạt những ngẫu nhiên,
trong đó vai trò đặc biệt cần phải dành cho hoạt động của các vĩ nhân. Tuy nhiên,
ông cũng thường khẳng định rằng, trong lịch sử văn hóa, “cơ sở của thế giới quan
biến đổi tuỳ thuộc vào kỹ thuật”(33).
Phân tích sự hình thành và phát triển của xã hội và vai trò của cá nhân trong xã
hội, B.Russell quan tâm nhiều đến vấn đề tự do cá nhân và lương tâm cá nhân, dân
chủ hóa văn hóa và giáo dục. Nhìn chung, những suy luận của ông về các vấn đề
này mang tính chất khai sáng và nhân văn. Điều này đã khiến một số nhà nghiên
cứu so sánh ông với Voltaire. Với toàn bộ ưu điểm của mình, các tác phẩm của
B.Russell vẫn có một hạn chế chung: không phân tích cụ thể con người bị áp bức
trong điều kiện xã hội hiện đại như là cái tạo ra cảm giác sợ hãi và bị đàn áp ở con
người phương Tây hiện đại, mặc dù bản thân ông lên tiếng chống lại trạng thái bị
áp bức và đàn áp một cách mãnh mẽ. Các tác phẩm viết về lĩnh vực tôn giáo: Bản
chất của tôn giáo (1912), Tôn giáo và giáo hội (1916), Tại sao tôi lại kh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- yt_6668.pdf