Hỏi: Nhưng cái dân chủ cấu trúc ấy khác gì với biểu hiện của thời đại bây giờ là dân chủ chịu tác động của các nhóm lợi ích?
Trả lời: Nó khác nhau ở một điều thôi, đó là tính minh bạch và sự trong sáng chính trị.
Các lực lượng cấu trúc ra nền chính trị Hồ Chí Minh thì chỉ có một lợi ích thống nhất trong toàn Đảng. Còn các nhóm lợi ích thì phấn đấu vì nhiều lợi ích khác nhau. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng biết rất rõ rằng, các cấu trúc ở chừng mực nào đó đều mang tính chủ quan cho nên ông không dừng lại ở đấy. Ngay từ những ngày đầu tiên của nền cộng hòa của chúng ta, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến nền dân chủ phổ quát của phương Tây. Tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp, sự cấu trúc đa dạng trong đời sống chính trị thể hiện rất rõ nhận thức rằng về lâu về dài vẫn cần phổ quát hóa khái niệm dân chủ. Phổ quát hóa bằng cách nào? Bằng cách xây dựng nhà nước pháp quyền. Trung tâm của các giải pháp chính trị là xây dựng nhà nước pháp quyền, không phải pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Pháp quyền xã hội chủ nghĩa là cái không cần phải nói đến, bởi vì ngay bản thân khái niệm "xã hội chủ nghĩa" cũng không được định nghĩa rõ ràng ở đâu cả, kể cả trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế. Làm gì có chủ nghĩa chính trị nào được tóm tắt là làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu? Những khái niệm được tóm tắt theo kiểu thực dụng chủ nghĩa như vậy không phản ánh trí tuệ chính trị.
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2070 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ba cấp độ của Dân chủ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành động một cách tự do ngay trong những điều kiện không có tự do. Cái vĩ đại của Đặng Tiểu Bình là ở chỗ đấy. Và nó được giải thích cho dễ hiểu, cho dễ chấp nhận bằng cái gọi là chủ nghĩa thực dụng Đặng Tiểu Bình, là chủ nghĩa mèo. Đấy là cái giải thích dễ hiểu và đơn giản hóa, nhưng trên thực tế nó không đơn giản như thế. Đặng Tiểu Bình là một học giả, là người đã đi học ở Pháp cùng vớiChu Ân Lai và nhiều người khác. Đặng Tiểu Bình là một người được đào tạo rất căn bản. Ông ta có năng lực tổ chức ngay từ thời kỳ ông ta đi học. Người ta kể chuyện rằng trên một chuyến tàu, các đoàn sinh viên ở các tỉnh khác nhau để đồ đạc thất lạc lung tung, nhưng Đặng Tiểu Bình biết lấy dây buộc hành lý của những người cùng tỉnh với mình lại, do đó đoàn củaĐặng Tiểu Bình không bị thất lạc hành lý. Năng lực tổ chức của ông ta được thể hiện khi còn trẻ như thế. Sau này, thủ tướng Chu Ân Lai cũng điều hành chính phủ Trung Hoa rất giỏi. Phá đến như Mao mà Chu Ân Lai vẫn sắp xếp lại để có một nhà nước Trung Hoa không tan rã thì đấy là thiên tài. Mà cụ Hồ thì quen với những ông ấy ở Pháp chứ không phải ở Trung Quốc. Cứ lên án dân chủ phương Tây nhưng những thủ lĩnh anh minh nhất, những người có ích nhất cho Trung Quốc, cho Việt Nam đều học ở phương Tây và đều dùng những giá trị phương Tây chứ không chỉ có giá trị dân chủ. Nếu không học ở Pari, không hiểu về chủ nghĩa tư bản thì làm sao Đặng Tiểu Bình mở cửa được, trong con người của Đặng Tiểu Bình làm sao có phẩm chất của kẻ thực dụng tư bản chủ nghĩa để tạo ra Trung Quốc bây giờ được. Phải nói rằng phương Tây là cái nôi của những khái niệm xã hội học tốt nhất mà nhân loại có. Cái đó phải khẳng định và nếu cứ cãi đi cãi lại thì chẳng đi đến đâu cả. Chúng ta phải học họ. Và cho đến bây giờ, tổng thống Medvedev và Thủ tướng Putin mới thấy rằng càng đến gần phương Tây bao nhiêu thì càng tốt cho nước Nga bấy nhiêu. Ngay cảĐặng Tiểu Bình và các nhà lãnh đạo của Trung Quốc bây giờ, mồm họ nói khác thì không biết, nhưng trong bụng họ nghĩ rằng càng đến gần phương Tây bao nhiêu thì càng tốt cho Trung Quốc bấy nhiêu. Tất nhiên, nhà chính trị thì nói một đằng họ nghĩ một nẻo, cho nên nghe họ nói và hiểu được thực bụng của họ thì phải có một hệ thống phiên dịch rất cẩn thận. Phải có kiến thức thì mới hiểu được các thông điệp chính trị từ những lãnh tụ Châu Á như Đặng Tiểu Bình, ông Giang Trạch Dân, ông Hồ Cầm Đào. Để hiểu họ là không đơn giản.
Hỏi: Quay lại chủ đề chúng ta đang bàn là dân chủ Hồ Chí Minh, ở thời điểm mà dân chủ Hồ Chí Minh thăng hoa nhất nó thể hiện bởi những đặc trưng như thế nào?Trả lời: Hồ Chí Minh không chỉ có dân chủ phương Tây. Dân chủ Hồ Chí Minh là một khái niệm rộng hơn, hay có thể nói là một tập hợp bao của cả khái niệm dân chủ phương Tây trong khuôn khổ ứng dụng khái niệm ấy cho nền chính trị Việt Nam. Nền dân chủ Hồ Chí Minh có ba cấp độ, ba hình thức hay ba căn bản khác nhau. Cấp độ thứ nhất tôi gọi là nền dân chủ thái độ, thể hiện ở đạo đức và tác phong quần chúng. Tác phong Hồ Chí Minh nổi tiếng trong phòng trào Cộng sản Quốc tế. Đã có một thời Đảng ta gọi "Chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Mao Trạch Đông, tác phong Hồ Chí Minh". Về mặt sử liệu tôi không biết ai đặt ra sự phân loại ấy, nghe nói là đồng chí Nguyễn Chí Thanh, nhưng đã có thời chúng ta gọi công khai trên văn bản của Đảng ta như thế.Cái cơ sở của nền dân chủ thái độ là đạo đức, bởi vì nếu không có tình cảm, tình yêu đối với nhân dân, không có sự trân trọng con người, không có nền tảng đạo đức thì không thể có nền dân chủ thái độ được. Cho nên tác phong quần chúng trở thành một động lực, một sức mạnh chính trị của Hồ Chí Minh trong suốt cả cuộc đời của Ông. Có lẽ tôi là người Việt Nam đầu tiên gọi nền dân chủ ấy của Hồ Chí Minh là nền dân chủ thái độ. Hỏi: Ông có thể nói thêm về dân chủ thái độ? Dân chủ thái độ toát ra từ giá trị đạo đức của con người ấy?Trả lời: Đúng, chính giá trị đạo đức nó toát ra thái độ. Khi chúng ta không còn căn bản đạo đức, chúng ta coi thường đạo đức cách mạng, chúng ta sẽ không có nền dân chủ thái độ. Và phải nói rằng từ đầu thế kỷ XX, đến những năm 40 của thế kỷ XX, thậm chí đến những năm cuối cùng của thế kỷ XX, trình độ nhân dân, trình độ dân trí của Việt Nam chưa đủ để hiểu các nền dân chủ khác của Hồ Chí Minh, chỉ mới đủ điều kiện để hiểu nền dân chủ cơ sở của Hồ Chí Minh là nền dân chủ thái độ.Hỏi: Như vậy là với đại đa số người dân là người nông dân, họ không có được những hiểu biết, cảm nhận được dân chủ từ phương Tây du nhập vào, mà người ta chỉ cảm nhận được dân chủ dưới hình thức là dân chủ thái độ của Hồ Chí Minh?Trả lời: Đấy là điều vô cùng quan trọng khi nghiên cứu Lịch sử Đảng, nghiên cứu Lý luận cầm quyền của Đảng. Hỏi: Nền dân chủ thái độ ấy có thấm đến các đồng chí của Hồ Chí Minh không?Trả lời: Nó thấm vô cùng. Sau này, do thắng lợi, do cầm quyền lâu thì nó bị thoái hóa và biến mất dần dần, cho đến thời điểm chúng ta ngồi đây, nền dân chủ thái độ đã bắt đầu biến mất gần hết. Những người cộng sản quên mất rằng, dân chủ thái độ là một lực lượng quan trọng, một sức mạnh quan trọng, một động lực quan trọng để phát triển cả Đảng và sự nghiệp của Đảng. Nhân dân nhận ra giá trị đạo đức của những người cộng sản thông qua thái độ của họ. Bây giờ chúng ta làm biến mất. Bây giờ việc đầu tiên trong hoạt động xây dựng Đảng, việc đầu tiên trong cải cách chính trị theo hướng dân chủ là khôi phục lại nền dân chủ thái độ. Khôi phục lại nền dân chủ thái độ thì anh mới giữ mình để có thể đủ yên tĩnh để nhận thức ra những chất lượng dân chủ cao hơn.Trước đây, những người cộng sản đến với nhân dân đều đi bộ, nhiều lắm thì đi xe đạp. Bây giờ những người cộng sản đến với nhân dân bằng máy bay trực thăng. Do đó không có cơ hội để họ và nhân dân giao lưu với nhau, họ không hiểu nhân dân nữa, và quan trọng hơn, nhân dân không yêu họ nữa. Bởi vì hầu hết nhân dân chúng ta yêu mến những người cộng sản trước đó là yêu mến thái độ của những người cộng sản, khi không còn thái độ ấy nữa thì nhân dân không yêu họ nữa. Và muốn nhân dân yêu lại thì phải khôi phục lại nền dân chủ thái độ, được gọi là tác phong quần chúng.Hỏi: Cấp độ thứ hai của nền dân chủ Hồ Chí Minh là gì?Trả lời: Cấp độ thứ hai của nền dân chủ Hồ Chí Minh là dân chủ cấu trúc. Tại sao Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh gửi ra đây tặng bức tượng Bác Hồ và Bác Tôn? Bác Tôn xuất hiện như là một giải pháp của nền dân chủ cấu trúc Hồ Chí Minh. Nhân dân miền Nam không có điều kiện tham gia vào các sinh hoạt hình thành các quyết định chính trị, cho nên phải có Bác Tôn để nhắc nhở người Nam Bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ rằng, họ không có ở đây nhưng người đại diện cho họ là Tôn Đức Thắng có ở đây. Ông ấy giữ địa vị cực kỳ quan trọng, ông ấy là một biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước Nam Bộ, tác phong đạo đức của ông ấy là biểu tượng của đạo đức người Nam Bộ. Sự gắn bó giữa Hồ Chủ tịch và Tôn Chủ tịch là sự gắn bó mang chất lượng cấu trúc chính trị, mang chất lượng kế sách chính trị. Cấu trúc chính trị ba miền là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng Cộng sản, nhưng quan trọng hơn Hồ Chí Minh là người tìm lại sự thống nhất trong phong trào Cộng sản Việt Nam, sau này để tiện hơn nữa ông biến thành Mặt trận dân tộc thống nhất. Tất cả những chính sách mặt trận ấy là sáng tạo của Hồ Chí Minh, và đấy chính là chủ nghĩa dân chủ cấu trúc. Chúng ta chưa có điều kiện để thực thi nền dân chủ phổ quát theo cái mà người ta gọi là dân chủ phương Tây mặc dù Hồ Chí Minh rất ý thức về chuyện ấy. Hồ Chí Minh phải tạo ra, phải cấu trúc ra một nền dân chủ, và dùng cấu trúc ấy để huấn luyện xã hội và huấn luyện các đồng chí của mình thừa nhận dân chủ bằng sự có mặt của các bộ phận hoặc đại diện của các bộ phận dân chúng trong đời sống chính trị của Hồ Chí Minh. Đấy là nền dân chủ thứ hai của Hồ Chí Minh, tôi gọi là nền dân chủ cấu trúc mà sau này mọi người gọi là cơ cấu. Khi gọi là cơ cấu và gọi là cấu trúc nó có các ý nghĩa khác nhau. Hồ Chí Minh chỉ cơ cấu một chút, nhưng bản chất cái cấu trúc khách quan của nền dân chủ Hồ Chí Minh về phương diện ấy rõ hơn. Hồ Chí Minh không cưỡng bức một cơ cấu, mà cỗ vũ một cấu trúc. Phải có bắc, có nam, phải có trung, thiếu Trường Chinh không được, thiếu Hoàng Văn Thụkhông được, thiếu Nguyễn Văn Cừ cũng không được. Thời nào cụ Hồ cũng cố tìm ra những yếu tố để làm hoàn thiện cái cấu trúc chính trị của mình.
Có lẽ tôi cũng là người Việt Nam đầu tiên gọi tên cái nấc thứ hai, yếu tố thứ hai của nền dân chủ Hồ Chí Minh là dân chủ cấu trúc. Cứ để ý mà xem, có nam, có bắc một cách rất rõ ràng, và thành một kỷ luật chính trị. Kỷ luật chính trị ấy phải là kỷ luật buộc cấu trúc chính trị của các lực lượng chính trị phải phản ánh được tính đại diện. Không phải ông Giang Trạch Dân là người sáng tạo ra chủ nghĩa đại diện, Hồ Chí Minh là người đã sáng tạo ra chủ nghĩa đại diện ấy từ lâu lắm rồi, thậm chí từ lúc ông Giang Trạch Dân còn nhỏ thì đã có chủ nghĩa đại diện Hồ Chí Minh hay chủ nghĩa cấu trúc Hồ Chí Minh. Trong nền dân chủ cấu trúc của Hồ Chí Minh có tất cả các lực lượng xã hội. Tỷ trọng chính trị có thể khác nhau cùng với thời thế, cùng với tình thế, nhưng luôn luôn có đủ các yếu tố. Nếu không nghiên cứu kỹ chủ nghĩa cấu trúc của Hồ Chí Minh như là một biểu hiện của nền dân chủ, của các quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh thì tức là chưa nghiên cứu về chủ nghĩa Hồ Chí Minh. Gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh tôi nghĩ là chưa đánh giá được các giá trị của Hồ Chí Minh, cho nên có thể mạnh dạn gọi là chủ nghĩa cấu trúc chính trị Hồ Chí Minh.Hỏi: Nhưng cái dân chủ cấu trúc ấy khác gì với biểu hiện của thời đại bây giờ là dân chủ chịu tác động của các nhóm lợi ích?Trả lời: Nó khác nhau ở một điều thôi, đó là tính minh bạch và sự trong sáng chính trị. Các lực lượng cấu trúc ra nền chính trị Hồ Chí Minh thì chỉ có một lợi ích thống nhất trong toàn Đảng. Còn các nhóm lợi ích thì phấn đấu vì nhiều lợi ích khác nhau. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng biết rất rõ rằng, các cấu trúc ở chừng mực nào đó đều mang tính chủ quan cho nên ông không dừng lại ở đấy. Ngay từ những ngày đầu tiên của nền cộng hòa của chúng ta, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến nền dân chủ phổ quát của phương Tây. Tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp, sự cấu trúc đa dạng trong đời sống chính trị thể hiện rất rõ nhận thức rằng về lâu về dài vẫn cần phổ quát hóa khái niệm dân chủ. Phổ quát hóa bằng cách nào? Bằng cách xây dựng nhà nước pháp quyền. Trung tâm của các giải pháp chính trị là xây dựng nhà nước pháp quyền, không phải pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Pháp quyền xã hội chủ nghĩa là cái không cần phải nói đến, bởi vì ngay bản thân khái niệm "xã hội chủ nghĩa" cũng không được định nghĩa rõ ràng ở đâu cả, kể cả trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế. Làm gì có chủ nghĩa chính trị nào được tóm tắt là làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu? Những khái niệm được tóm tắt theo kiểu thực dụng chủ nghĩa như vậy không phản ánh trí tuệ chính trị. Hỏi: Ông có thể nói rõ hơn những đặc điểm của nền dân chủ phổ quát trong dân chủ Hồ Chí Minh?Trả lời: Dân chủ phổ quát chính là dân chủ mà chúng ta vẫn luôn kêu ca, lên án nó là dân chủ phương Tây. Không phải phương Tây tạo ra nó mà các nhà nghiên cứu phương Tây tạo ra nó, các nhà Khai sáng phương Tây tạo ra nó. Phương Tây không tạo ra nó, thậm chí phương Tây ứng dụng nó cũng vất vả giống như chúng ta ứng dụng nó. J.J. Rousseau bị lưu đày, bị truy nã, Montesquieu cũng bị truy nã, Voltaire cũng bị truy nã, tất cả những người sáng tạo ra những nguyên lý căn bản nhất của nền dân chủ phương Tây đều từng là kẻ địch của tất cả những người cầm quyền ở phương Tây vào thời điểm đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ lâm thờisau phiên họp chính phủ đầu tiên 3-9-1945 – Ảnh tư liệu
Hỏi: Vậy dân chủ phổ quát ấy thể hiện như thế nào trong dân chủ Hồ Chí Minh?Trả lời: Nó là một tầng phát triển cao hơn khái niệm dân chủ Hồ Chí Minh. Tức là bằng khái niệm dân chủ phổ quát, Hồ Chí Minh không biến nền dân chủ của ông trở thành nền dân chủ làng xã, dân chủ đặc thù của riêng Việt Nam, mà ông muốn phổ quát hóa nền dân chủ của ông trở thành một nền dân chủ được chấp nhận bởi tiêu chuẩn quốc tế về cái gọi là dân chủ. Điều đó thể hiện trong Tuyên ngôn độc lập và trong Hiến pháp 1946. Cho nên, ở trong con người Hồ Chí Minh, có cả yếu tố đạo đức làm nền tảng chính trị thông qua tác phong quần chúng mà tôi gọi đó là nền dân chủ thái độ, có cả sự phản ánh cái đặc thù của cấu trúc dân cư Việt Nam, cấu trúc lịch sử Việt Nam, cấu trúc chính trị Việt Nam để tạo ra nền dân chủ cấu trúc mà đã có thời kỳ chúng ta gọi một cách tầm thường là cơ cấu. Nền dân chủ ấy phản ánh bắc-trung-nam đều phải có các đại diện trong đời sống chính trị. Phải có nam có nữ, bởi vì nền dân chủ Hồ Chí Minh hình thành khi con người thức tỉnh về giá trị nhân quyền, quyền của phụ nữ là một vấn đề chính trị trong thời đại Hồ Chí Minh sống, vì thế ông rất để ý đến việc có tính giới trong đời sống chính trị. Rồi phải có cả miền xuôi, miền ngược, tức là có cả sự chênh lệch phát triển. Phải có bằng được ông Y Blok Eban, phải có bằng được ông Núp, phải có bằng được những người miền núi. Đó là sự phấn đấu rất kiên nhẫn của Hồ Chí Minh để đảm bảo tất cả các lực lượng xã hội dù là gì đều có mặt trong cấu trúc chính trị. Đấy là chưa kể có tôn giáo nữa, trong các cấu trúc chính trị của Hồ Chí Minh có mặt tất cả các tôn giáo với địa vị hết sức bình đẳng. Đấy là nền dân chủ cấu trúc của Hồ Chí Minh.Hỏi: Thế còn sự hình thành các đảng phái?Trả lời: Sự hình thành các đảng phái là đa nguyên chính trị, đấy là nền dân chủ phổ quát. Bản chất của nền dân chủ phương Tây là nền dân chủ đa nguyên chính trị, tức là nó đã đạt đến trạng thái chuyên nghiệp là mỗi một lực lượng xã hội đều có các đảng chính trị rồi. Cái này ngay từ năm 1946 Hồ Chí Minh đã nghĩ đến và hiểu rất rõ cái thực tiễn rằng, các đảng phái chính trị không phải lúc nào cũng thống nhất, không phải lúc nào cũng ủng hộ nhau, cũng có lúc nó đấu tranh với nhau và tạo ra sự mâu thuẫn có hại cho các cuộc kháng chiến mà ông Cụ tiến hành. Vì thế ông Cụ có những thái độ khá kiên quyết với những đảng chính trị không ủng hộ độc lập dân tộc theo quan điểm của ông Cụ. Nhưng thay vì vứt bỏ các đảng chính trị khác thì Hồ Chí Minh thay thế nó bằng những đảng chính trị hỗ trợ đảng cộng sản, những người cộng sản Việt Nam trong quá trình giải phóng dân tộc, tìm kiếm độc lập dân tộc. Đấy là một thái độ rất quan trọng. Hồ Chí Minh chưa đạt đến nền dân chủ phổ quát, nhưng ông đã đặt tiền đề cho một nền dân chủ phổ quát. Rất đáng tiếc là chiến tranh và tính hiếu thắng của người Việt Nam đã làm cho chúng ta trong một lúc nào đó lãng quên cái công phu mà cụ Hồ đã tạo ra cho tương lai chính trị của Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa
Hỏi: Ông nói Hồ Chí Minh chưa đạt đến nền dân chủ phổ quát, ý muốn nói là chưa đạt đến khía cạnh là các đảng chính trị ấy phải tham gia vào giành quyền lực?Trả lời: Thế mới thực sự là phổ quát, tức là các đảng chính trị phải thay thế nhau trong quá trình chuyển đổi năng lực cầm quyền.Hỏi: Nghĩa là các đảng chính trị ấy phải đối lập nhau đúng không?Trả lời: Nó có thể đối lập, nó có thể là đồng minh. Các chính phủ liên hiệp là kết quả của sự đồng minh hóa các đảng chính trị. Dân chủ và đa đảng thú vị lắm. Nó không đơn giản như cái mà chúng ta quan niệm. Dân chủ phổ quát của Hồ Chí Minh mới chỉ đặt nền móng. Ở đây chúng ta không bình luận về những cái cụ thể mà bình luận trên khía cạnh là ngay từ đầu Hồ Chí Minh đã ý thức rằng tương lai của nền dân chủ Việt Nam chính là nền dân chủ phổ quát. Khi phân tích như thế mới thấy Hồ Chí Minh công phu lắm. Hỏi: Có những thông tin rằng có những trí thức không phải là người của Đảng cộng sản, không phải là Đảng viên, khi tổ chức, sắp xếp, người ta định gợi ý để vào Đảng thì chính Hồ Chí Minh đã gạt ra bảo: chú đứng ngoài Đảng tốt hơn. Cái đó thể hiện điều gì?Trả lời: Đấy là câu chuyện rất nổi tiếng giữa Hồ Chí Minh và giáo sư Tôn Thất Tùng. Cái đấy thể hiện năng lực cấu trúc chính trị của Hồ Chí Minh, cấu trúc ra các lực lượng chính trị, cấu trúc ra một nền chính trị, cấu trúc ra một loại nhà nước chính trị. Đấy là chủ nghĩa cấu trúc, nó vẫn mang tính chủ quan, nó chưa phải là một nền dân chủ khách quan thực sự. Chính vì thế Hồ Chí Minh mới chuẩn bị cho tầng thứ ba của nền dân chủ là dân chủ phổ quát, đó chính là sự hiện diện của các đảng chính trị như những thực thể đại diện cho các khuynh hướng chính trị khác nhau tồn tại trong xã hội. Cái tầng thứ ba này Hồ Chí Minh phấn đấu và chưa đạt được đến. Hồ Chí Minh mới hoàn thiện được nền dân chủ thái độ, mới hoàn thiện được nền dân chủ cấu trúc và đặt nền móng cho nền dân chủ phổ quát.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh và một số vị trong Chính phủ kháng chiến ở Việt Bắc năm 1948. GS Tôn Thất Tùng, người thứ hai hàng trước, từ phải sang, mặc áo sơ-mi cổ bẻ, hai túi ngực, lúc bấy giờ giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế.
Hỏi: Nghiên cứu lịch sử chính trị Việt Nam, giai đoạn tồn tại các đảng chính trị thì quá trình tồn tại, vận động nó diễn ra như thế nào?Trả lời: Khi trao đổi với các nhà hoạt động lý luận của Đảng, tôi có nói rằng, bây giờ trong phòng của một người phụ nữ, nếu không có ai cả thì họ có thể cởi áo mà không ngượng, nhưng hãy thử đặt bức tượng một người đàn ông ở trong phòng thì bất kỳ một người phụ nữ nào có giáo dục cũng đều ý tứ. Các đảng chính trị đôi khi không bao giờ thắng cử cả, và anh biết là trong nhiều cuộc bầu cử trên thế giới này có những đảng chính trị nhận được dưới 5% số phiếu và không có người đại diện trong Quốc hội hay trong chính phủ. Có những đảng chính trị không bao giờ cầm quyền được vì họ luôn là thiểu số. Nhưng sự tồn tại một cách thiểu số ấy luôn luôn nhắc nhở những người cầm quyền rằng, nếu không cẩn thận thì ngày mai những kẻ kia sẽ thay thế mình. Tôi đã theo dõi một cuộc tranh luận giữa một thủ lãnh đối lập và Paul Keating, thủ lĩnh của đảng cầm quyền trong chính phủ Úc giai đoạn đầu những năm 90. Trong cuộc tranh luận, phe đối lập chỉ trích Paul Keating, tức là chỉ trích Công đảng.Paul Keating trả lời rằng: chính sách xã hội là một loại chính sách phải có thời gian mới tạo ra tác động, mới hiện hình các tác động, và các ông nên nhớ rằng, chúng tôi phải có cái gì đó thì chúng tôi mới ngồi bên này, còn các ông mới ngồi bên kia. Sau đó một vài năm thì Paul Keating sang ngồi bên kia và những người chỉ trích Paul Keating thì ngồi bên này. Đấy chính là công nghệ chuyển giao quyền lực một cách công khai và hòa bình. Đấy là thành tựu của nhân loại, làm cho quyền lực không khu trú và được dịch chuyển từ lực lượng xã hội này đến lực lượng xã hội khác. Để tránh thoái hóa, Đảng Dân chủ tự do của Nhật Bản chia thành các phái và trong quá trình cầm quyền của đảng ấy thì quyền lực vẫn luân chuyển một cách nội bộ trong các phái khác nhau. Làm cho quyền lực luân chuyển một cách mềm dẻo giữa các lực lượng hay giữa các khuynh hướng của đời sống chính trị luôn luôn là giải pháp phổ quát để giải quyết vấn đề chống suy thoái chính trị. Chống khu trú quyền lực, chống suy thoái chính trị chính là thành tựu quan trọng nhất của chính trị học của nhân loại. Gần đây Đảng ta mới đặt ra vấn đề dân chủ trong Đảng, nhưng đặt ra vẫn chưa đến đầu đến đũa, cho nên nhìn ngoài thì Đảng ta thống nhất, nhưng đi vào bên trong thì không phải như thế, vì chúng ta chưa thừa nhận quy luật luân chuyển của quyền lực như là một trong những quy luật quan trọng nhất để chống lại sự suy thoái chính trị. Hồ Chí Minh biết rất rõ quy luật của sự suy thoái, nên cùng lúc triển khai cả ba nền dân chủ. Nền dân chủ thái độ để duy trì đạo đức cách mạng, và để biểu dương đạo đức. Thái độ đối với nhân dân là biểu hiện đạo đức. Nền dân chủ trí khôn là phải biết cấu trúc. Ngay cả khi mình toàn quyền thì vẫn phải cấu trúc để chống lại sự suy thoái. Và nền dân chủ phổ quát là lối thoát khách quan của quá trình chống suy thoái. Bản chất của hoạt động cầm quyền là chống suy thoái. Hỏi: Nhưng mà tại sao dân chủ phổ quát của Hồ Chí Minh mới chỉ đạt đến mức độ là đặt nền móng mà không phát triển được?Trả lời: Chiến tranh. Chiến tranh làm cho chúng ta buộc phải thống nhất ý chí và hành động bằng mọi giá. Cho nên, nhân danh chiến tranh, nhân danh sự thống nhất ý chí và hành động, đôi khi chúng ta giảm bớt, chúng ta hi sinh khía cạnh tích cực của khái niệm dân chủ, và dần dần nó phổ biến trở thành một kinh nghiệm lẩn tránh dân chủ. Và đến khi chúng ta tỉnh ngộ ra thì những nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng ta bắt đầu kêu gọi dân chủ trong Đảng. Đã kêu gọi dân chủ trong Đảng tức là trong Đảng không còn dân chủ nữa, mà đã không có dân chủ thì làm sao có kiến thức và có ý thức về dân chủ được? Không có ý thức về dân chủ và không dân chủ hóa ngay cả đời sống chính trị ở trong Đảng là tự sát.
“Chính phủ Cụ Hồ gồm rất nhiều trí thức nhân sĩ trong chiến khu Việt Bắc” – ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng gia đình luật sư Phan Anh (có chữ ký của Võ Đại tướng dưới ảnh).
Hỏi: Việc kêu gọi dân chủ hóa trong Đảng có từ rất lâu rồi, từ những năm bắt đầu công cuộc đổi mới, trước năm 86 đã có những cuộc kêu gọi như thế. Tại sao sự kêu gọi ấy đến bây giờ nó vẫn không ngớt?Trả lời: Bởi vì càng ngày quyền lực càng gắn với quyền lợi. Cuộc đấu tranh để dân chủ hóa trong Đảng bây giờ khó hơn nhiều so với cuộc đấu tranh để dân chủ hóa trong Đảng thời Hồ Chí Minh. Bởi vì cuộc đấu tranh để dân chủ hóa trong Đảng thời kỳ Hồ Chí Minh là cuộc đấu tranh giữa những quan điểm khác nhau, hay là sự mưu cầu tập trung quyền lực khác nhau để tiến hành, để thực thi một quan điểm. Nó không liên quan đến quyền lợi. Nhưng bây giờ khi chúng ta mở cửa, khi chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường (dù có là định hướng gì đi nữa thì về bản chất nó vẫn là nền kinh tế thị trường) thì nó gắn liền với quyền lợi, nó gắn liền với thực lợi của cầm quyền. Cho nên, cuộc đấu tranh trong Đảng bây giờ nếu có là cuộc đấu tranh không đơn thuần vì sự nghiệp chung, mà nó tiềm ẩn đâu đó với những mức độ khác nhau ở những bộ phận khác nhau của xã hội. Cho nên, bây giờ đây, trong việc lựa chọn những người cầm quyền thì sự lựa chọn đạo đức, lựa chọn không tham nhũng trở thành sự lựa chọn quan trọng nhất đối với người dân. Tại sao lại như thế? Bởi vì chỉ có những người trong sạch mới không bị quyền lợi chi phối trong các quá trình vận hành nền chính trị của mình. Chứ không phải là anh này cởi mở, anh kia cấp tiến mới đáng chọn. Tất cả những cái đấy đều có thể giả vờ được hết, và không đủ thông tin để nhận dạng nhà chính trị thông qua các quan điểm. Quyền lợi là yếu tố đen tối nhất thao túng đời sống chính trị. Cho nên nhân dân yêu những người nào trong sạch, không tham nhũng. Đòi hỏi của xã hội và của nhân dân không phải là đòi hỏi đơn giản, đòi hỏi ấy thông minh hơn tất cả những sự khôn ngoan chính trị khác cộng lại. Sự đòi hỏi cần có những người trong sạch để lãnh đạo Đảng và Nhà nước lúc này là sự đòi hỏi thông minh nhất, thực tế nhất. Tôi không ủng hộ quan điểm lấy tài ba, linh hoạt làm tiêu chuẩn để chọn người lãnh đạo. Hy sinh phẩm hạnh đi để có một người có tài, tất cả những chuyện ấy chẳng có nghĩa lý gì cả. Trước hết phải trong sạch, không trong sạch thì không còn chính trị nữa, mà chỉ còn độc tài.Độc tài là điểm kết thúc của chính trị. Nên nhớ là không ai đem ra xử nhau về những sự sai lầm quan điểm cả, nhưng những sự sai lầm liên quan đến quyền lợi thì người ta truy đuổi nhau đến chết để tước lại. Những quan điểm chính trị sai lầm thì có thể tạo ra thất bại. Không ai muốn giành lấy thất bại cho mình cả, nhưng cái sự thất bại trong chính trị bằng quyền lợi thì người ta vẫn truy đuổi để tìm lại quyền lợi. Vì thế, người ta mới lên án trên quy mô toàn thế giới cái gọi là nền chính trị tiền bạc. Hay nói cách khác, chúng ta chọn những người trong sạch chính là chúng ta chống lại nền chính trị tiền bạc, và Đảng ta nếu không làm nổi cái việc chống lại nền chính trị tiền bạc lén lút ở bên trong cái đời sống chính trị ấy là chết.
Hỏi: Những nỗ lực của Đảng, những kêu gọi của Đảng về sự tăng cường dân chủ trong Đảng có liên quan gì đến sự hình thành và nổi lên ngày càng rõ của các nhóm lợi ích không?Trả lời: Có chứ. Liên quan ở chỗ khi tiền bạc tham gia vào quá trình chính trị thì những kẻ nhiều tiền, những kẻ huy động được nhiều tiền sẽ là những kẻ thắng thế. Và do đó Đảng chính trị không còn là nó nữa, mà thái độ cũng như quyết sách chính trị được mua bởi tiền bạc của xã hội, và trên thực tế không còn lãnh đạo, không còn nhà nước nữa. Không còn lãnh đạo thì còn được, nhưng không còn nhà nước nữa thì hỏng, bởi vì người ta bỏ tiền không phải để mua một nhà chính trị mà để mua giá trị cầm quyền của một nhà chính trị.Hỏi: Khi phê phán mô hình chính trị đa đảng ở phương Tây thì cách phê phán phổ biến hiện nay cho rằng, đứng sau các đảng chính trị đó là các Tờ rớt, các ông chủ công nghiệp, các ông trùm vũ khí, đầu nậu chiến tranh... Vậy thì nếu như so với ở ta bây giờ có sự hình thành các nhóm lợi ích thì có màu sắc nào của hiện tượng ấy không?.Trả lời: Cái đấy là một thực tế chính trị toàn cầu. Ở đâu có quyền lực thì ở đó sẵn sàng có kẻ chiếm đoạt và mua nó. Chiếm đoạt thì bằng đảo chính, còn mua là phổ biến. Ở đâu cũng thế. Cho nên, việc xây dựn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ba cấp độ của Dân chủ.docx