Bài báo cáo thực hành xưởng

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỘP SỐ TỰ ĐỘNG

1.1.Sơ lược về hộp số tự động

Đối với xe sử dụng hộp số thường, cần sang số được sử dụng để chuyển số khi đạp chân ga nhằm mục đích tăng tốc độ xe. Khi lái xe lên dốc hay khi động cơ không đủ lực để leo dốc tại số đang chạy, hộp số được chuyển về số thấp. Vì lý do trên nên điều kiện cần thiết đối với lái xe là phải thường xuyên nhận biết tải động cơ và tốc độ xe để chuyển số một cách phù hợp.

ở hộp số tự động, lái xe không cần phải chuyển số mà việc chuyển lên hay xuống đến số thích hợp nhất được thực hiện một cách tự động tại thời điểm thích hợp nhất theo tải động cơ và tốc độ xe. Việc điều khiển xe đối với xe có hộp số tự động đã được đơn giản hóa, người lái xe không còn phải thường xuyên đạp ly hợp và chuyển cần sang số như ở hộp số thường vì xe sử dụng hộp số tự động không có bàn đạp ly hợp nhờ việc dùng biến mô thủy lực.

Theo cách điều khiển có thể chia hộp số tự động thành hai loại, chúng khác nhau về hệ thống sử dụng để điều khiển chuyển số và thời điểm khóa biến mô. Một loại là điều khiển hoàn toàn bằng thủy lực, loại kia là loại điều khiển điện tử (ECT), nó cũng sử dụng số liệu trong ECU để điều khiển nhưng có thêm chức năng chẩn đoán và dự phòng. Hộp số điều khiển hoàn toàn bằng thủy lực hoạt động bởi sự biến đổi một cách cơ khí tốc độ của xe thành áp suất ly tâm và độ mở bướm ga thành áp suất bướm ga rồi dùng các áp suất thủy lực này để điều khiển hoạt động của các ly hợp và phanh trong cụm bánh răng hành tinh, do đó điều khiển thời điểm lên xuống số. Nó được gọi là phương pháp điều khiển thủy lực. Mặt khác, đối với hộp số điều khiển điện tử ECT, các cảm biến phát hiện tốc độ xe và độ mở bướm ga biến chúng thành tín hiệu điện và gửi về bộ điều khiển điện tử (ECU). ECU sau đó điều khiển hoạt động các ly hợp, phanh trên cơ sở những tín hiệu này. Vì vậy điều khiển thời điểm chuyển số.s

1.2.Chức năng của hộp số tự động

Về cơ bản, hộp số tự động có chức năng như một hộp số thường. Tuy nhiên, hộp số tự động cho phép đơn giản hóa việc điều khiển hộp số, quá trình chuyển số êm dịu, không cần ngắt đường truyền công suất từ động cơ xuống khi sang số. Hộp số tự động tự chọn tỉ số truyền phù hợp với điều kiện hoạt động của ôtô, do đó tạo điều kiện sử dụng gần như tối ưu công suất động cơ. Hộp số tự động có những chức năng cơ bản sau:

- Tạo ra các cấp tỉ số truyền phù hợp nhằm thay đổi mômen xoắn từ động cơ đến các bánh xe chủ động phù hợp với mômen cản luôn thay đổi và nhằm tận dụng tối đa công suất của động cơ.

- Giúp cho xe thay đổi chiều chuyển động.

- Đảm bảo cho xe dừng tại chỗ mà không cần tắt máy hoặc tách ly hợp.

Ngoài ra, ở hộp số tự động điều khiển điện tử (ECT) còn có các chức năng an toàn. Nếu có hư hỏng xảy ra trong hệ thống khi đang lái xe ECT sẽ hoạt động ở chế độ dự phòng, cho phép xe tiếp tục hoạt động ở chế độ đã được định trước.

 

doc70 trang | Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 3663 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài báo cáo thực hành xưởng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG Trường Đại Học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Công Nghệ Kỹ Thuật Ôtô BÀI BÁO CÁO THỰC HÀNH XƯỞNG Giáo viên hướng dẫn : Bùi Văn Hải Sinh viên thực hiện : 1. Đỗ Duy Bảo : Nhóm trưởng 2. Trần Duy Bắc 3.TRần Văn Đồng 4.Nguyễn Ninh Đồng 5.Đỗ Mạnh Cường 6.Trần Cao Cường 7.Bùi Khương Duy 8.Trần Công Duy 9.Nguyễn Trọng Hoan 10.Đặng Văn Mạnh 11.Đặng Văn Nam 12.Nguyễn Văn Hoàn 13.Phạm Tiến Dương Hà Nội – Năm 2011 LỜI NÓI ĐẦU Trong xu thế phát triển của thế giới ngày nay nói chung, và của VIỆT NAM nói riêng thì ngành công nghiệp ô tô là một ngành không thể thiếu và đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó giúp nền công nghiệp chung của cả thế giới phát triển, đồng thời nó là phương tiện chuyên chở đáp ứng nhu cầu vận tải và đi lại của con người, nó đóng vai trò quan trọng và thúc đẩy tất cả các ngành nghề và dịch vụ khác cùng phát triển theo. Nắm rõ được tầm quan trọng của ngành nghề và sự đam mê của bản thân, khi sắp tốt nghiệp đại học để trở thành một kỹ sư của ngành ôtô, thì việc củng cố và bồi bổ thêm kiến thức chuyên ngành là hết sức quan trọng . Trong thời gian đi xưởng vừa qua em có cơ hội được tìm hiểu về cấu tạo và sự hoạt động của hộp số tự động. Do kiến thức của bản thân còn hạn chế, kinh nghiệm chưa nhiều và thời gian có hạn nên bài làm này của em không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong thầy giáo hướng dẫn và các thầy cô trong bộ môn tận tình chỉ bảo thêm để bài làm của em được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn,cùng các thầy cô giáo trong bộ môn đã giúp đỡ em hoàn thành đồ án này. Hà Nội, ngày 22 tháng 4 năm 2011 Sinh viên thực hiện. CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỘP SỐ TỰ ĐỘNG 1.1.Sơ lược về hộp số tự động Đối với xe sử dụng hộp số thường, cần sang số được sử dụng để chuyển số khi đạp chân ga nhằm mục đích tăng tốc độ xe. Khi lái xe lên dốc hay khi động cơ không đủ lực để leo dốc tại số đang chạy, hộp số được chuyển về số thấp. Vì lý do trên nên điều kiện cần thiết đối với lái xe là phải thường xuyên nhận biết tải động cơ và tốc độ xe để chuyển số một cách phù hợp. ở hộp số tự động, lái xe không cần phải chuyển số mà việc chuyển lên hay xuống đến số thích hợp nhất được thực hiện một cách tự động tại thời điểm thích hợp nhất theo tải động cơ và tốc độ xe. Việc điều khiển xe đối với xe có hộp số tự động đã được đơn giản hóa, người lái xe không còn phải thường xuyên đạp ly hợp và chuyển cần sang số như ở hộp số thường vì xe sử dụng hộp số tự động không có bàn đạp ly hợp nhờ việc dùng biến mô thủy lực. Theo cách điều khiển có thể chia hộp số tự động thành hai loại, chúng khác nhau về hệ thống sử dụng để điều khiển chuyển số và thời điểm khóa biến mô. Một loại là điều khiển hoàn toàn bằng thủy lực, loại kia là loại điều khiển điện tử (ECT), nó cũng sử dụng số liệu trong ECU để điều khiển nhưng có thêm chức năng chẩn đoán và dự phòng. Hộp số điều khiển hoàn toàn bằng thủy lực hoạt động bởi sự biến đổi một cách cơ khí tốc độ của xe thành áp suất ly tâm và độ mở bướm ga thành áp suất bướm ga rồi dùng các áp suất thủy lực này để điều khiển hoạt động của các ly hợp và phanh trong cụm bánh răng hành tinh, do đó điều khiển thời điểm lên xuống số. Nó được gọi là phương pháp điều khiển thủy lực. Mặt khác, đối với hộp số điều khiển điện tử ECT, các cảm biến phát hiện tốc độ xe và độ mở bướm ga biến chúng thành tín hiệu điện và gửi về bộ điều khiển điện tử (ECU). ECU sau đó điều khiển hoạt động các ly hợp, phanh trên cơ sở những tín hiệu này. Vì vậy điều khiển thời điểm chuyển số.s 1.2.Chức năng của hộp số tự động Về cơ bản, hộp số tự động có chức năng như một hộp số thường. Tuy nhiên, hộp số tự động cho phép đơn giản hóa việc điều khiển hộp số, quá trình chuyển số êm dịu, không cần ngắt đường truyền công suất từ động cơ xuống khi sang số. Hộp số tự động tự chọn tỉ số truyền phù hợp với điều kiện hoạt động của ôtô, do đó tạo điều kiện sử dụng gần như tối ưu công suất động cơ. Hộp số tự động có những chức năng cơ bản sau: - Tạo ra các cấp tỉ số truyền phù hợp nhằm thay đổi mômen xoắn từ động cơ đến các bánh xe chủ động phù hợp với mômen cản luôn thay đổi và nhằm tận dụng tối đa công suất của động cơ. - Giúp cho xe thay đổi chiều chuyển động. - Đảm bảo cho xe dừng tại chỗ mà không cần tắt máy hoặc tách ly hợp. Ngoài ra, ở hộp số tự động điều khiển điện tử (ECT) còn có các chức năng an toàn. Nếu có hư hỏng xảy ra trong hệ thống khi đang lái xe ECT sẽ hoạt động ở chế độ dự phòng, cho phép xe tiếp tục hoạt động ở chế độ đã được định trước. 1.3.Lịch sử phát triển của hộp số tự động Ngay từ những năm 1900, ý tưởng về một loại hộp số tự động chuyển số đã được các kĩ sư hàng hải của Đức nghiên cứu chế tạo. Sau mấy thập kỉ nghiên cứu và thử nghiệm, đến năm 1938, hộp số tự động đầu tiên ra đời khi hãng GM giới thiệu chiếc Oldsmobile được trang bị hộp số tự động. Việc điều khiển ôtô được đơn giản hóa bởi vì không còn bàn đạp ly hợp. Tuy nhiên, hộp số thường vẫn được sử dụng phổ biến nhờ kết cấu đơn giản, dễ sửa chữa và giá thành thấp. Đến những năm 70, hộp số tự động đã thực sự hồi sinh khi hàng loạt các hãng ôtô cho ra các loại xe mới với hộp số tự động đi kèm. Từ đó đến nay hộp số tự động đã phát triển không ngừng và dần thay thế cho hộp số thường. Khi mới ra đời, hộp số tự động là loại có cấp được điều khiển hoàn toàn bằng thủy lực. Để chính xác hóa thời điểm chuyển số và để tăng cường tính an toàn trong sử dụng các nhà sản xuất ôtô đã cho ra đời hộp số tự động có cấp điều khiển bằng điện tử (ECT). Vẫn chưa hài lòng với các cấp tỉ số truyền của ECT, các nhà sản xuất ôtô đã nghiên cứu – chế tạo thành công một loại hộp số tự động có vô số cấp tỉ số truyền (hộp số vô cấp) vào những năm cuối của thế kỉ XX. Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu sử dụng của khách hàng và để tăng tính an toàn trong quá trình sử dụng, các nhà chế tạo đã cho ra đời loại hộp số điều khiển điện tử có thêm chức năng sang số bằng cần sang số như là ở hộp số thường. Ngày nay, hộp số tự động đã được sử dụng khá phổ biến trên các loại xe du lịch, thậm chí trên xe 4WD và xe tải nhỏ. ở nước ta, hộp số tự động đã xuất hiện từ những năm 1990 trên các xe nhập về từ Mỹ và Châu âu. Tuy nhiên, do khả năng công nghệ của nước ta lúc đó còn hạn chế, việc sửa chữa – bảo dưỡng rất khó khăn cùng với việc người lái xe chưa thấy được ưu điểm của hộp số tự động nên ít trang bị hộp số tự động trên xe. Hiện nay, cùng với những tiến bộ của khoa học kĩ thuật, công nghệ chế tạo hộp số cũng được hoàn chỉnh. Hộp số tự động đã khẳng định được khả năng ưu việt của nó so với hộp số thường và ngày càng được người lái xe ưa chuộng. 1.4.Ưu điểm của hộp số tự động So với hộp số thường, hộp số tự động có các ưu điểm sau: - Nó làm giảm mệt mỏi cho lái xe bằng cách loại bỏ các thao tác cắt ly hợp và thường xuyên phải chuyển số. - Chuyển số một cách tự động và êm dịu tại các tốc độ thích hợp với chế độ lái xe do vậy giảm bớt cho lái xe sự cần thiết phải thành thạo các kỹ thuật lái xe khó khăn và phức tạp như vận hành ly hợp. - Nó tránh cho động cơ và dịng dẫn động khỏi bị quá tải, do nó nối chúng bằng thủy lực (qua biến mô) tốt hơn so với bằng cơ khí. - Hấp thu va đập trên hệ thống truyền lực nhờ chứa dầu bên trong. Tuy nhiên, hộp số tự động có giá thành cao, khó bảo dưỡng - sửa chữa hơn hộp số thường. 1.5.Phân loại hộp số tự động Hiện nay, sử dụng trên xe có hai loại hộp số tự động: - Hộp số tự động có cấp. - Hộp số tự động vô cấp. Hộp số tự động vô cấp ít được sử dụng hơn do công nghệ chế tạo phức tạp, giá thành cao. Theo cách bố trí trên xe hộp số tự động được chia làm loại: Hộp số sử dụng trên xe FF ( động cơ đặt trước – cầu trước chủ động): loại này bao gồm cả bộ truyền lực cuối cùng (vi sai) ở trong hộp số.   - Hộp số sử dụng trên xe FR ( động cơ đặt trước – cầu sau chủ động) : loại này có bộ truyền lực cuối cùng ở ngoài hộp số.   Theo cách điều khiển, hộp số tự động chia thành 2 loại: - Loại điều khiển hoàn toàn bằng thủy lực.  Loại điều khiển điện tử kết hợp thủy lực  CHƯƠNG 2 : TÌM HIỂU KẾT CẤU VÀ NGUYÊN LÝ LÀM VIỆC CỦA HỘP SỐ TỰ ĐỘNG 2.1.Cấu tạo chung của hộp số tự động Hiện nay, hộp sô tự động trên xe có 3 cụm bộ phận chính: - Bộ biến mô. - Bộ truyền động bánh răng hành tinh - Bộ điều khiển thủy lực (đối với hộp số điều khiển hoàn toàn bằng thủy lực) hoặc bộ điều khiển điện tử kết hợp thủy lực (đối với hộp số điều khiển bằng điện tử). Ngoài ra, trên hộp số tự động còn có các cơ cấu và các hệ thống điều khiển khác như: Cơ cấu chuyển số cơ khí, hệ thống làm mát dầu hộp số, hệ thống khóa cần số (shift-lock system), hệ thống khóa công tắc máy (key interlock system)… 2.2.Cấu tạo các bộ phận trong hộp số tự động 2.2.1.Bộ biến mô a.Khái quát chung và cấu tạo  - Bộ biến mô vừa truyền vừa khuếch đại momen từ động cơ vào hộp số( bộ truyền bánh răng hành tinh) bằng việc sử dụng dầu hộp số tự động(ATF) như một môi chất. - Bộ biến mô gồm bánh bơm, bánh tua bin,khớp một chiều,stato và vỏ biến mô chứa tất cả các bộ phận đó. - Bộ phận biến đổi được đổ đầy ATF do bơm dầu cung cấp.Động cơ quay và bánh bơm quay,và dầu bị đẩy ra từ bánh bơm thành một dòng mạnh làm quay bánh tua bin. Bánh bơm Bánh bơm được bố trí trong vỏ bộ biến mô và được nối với truc khuỷu qua đĩa dẫn động. Nhiều cánh hình cong được lắp bên trong bánh bơm. Một vòng dẫn hướng được lắp trên mép trong của các cánh để đường dẫn dầu được êm.  Bánh tua bin Rất nhiều cánh được lắp trên bánh tua bin giống như trường hợp bánh bơm. Hướng cong của các bánh này ngược chiều với hướng của các bánh bơm,bánh tua bin được lắp trên trục sơ cấp của hộp số sao cho các cánh bên trong nó nằm đối diện với các cánh của bánh bơm với khe hở rất nhỏ ở giữa.  Stato Stato nằm giữa bánh bơm và bánh tuabin, qua khớp 1 chiều nó được lắp trên truc stato trục này được cố định trên vỏ hộp số. Hoạt động của stato Dòng bơm dầu trở về từ bánh tua bin vào bánh bơm theo hướng cản sự quay của bánh bơm.Do đó,stato đổi chiều của dòng dầu sao cho nó tác động lên phía sau của các cánh trên bánh bơm và bổ xung thêm lực đẩy cho bánh bơm do đó làm tăng thêm mômen. Hoạt động của khớp một chiều Khớp một chiều cho phép stato quay theo chiều quay của trục khuỷu của động cơ. Tuy nhiên nếu stato định bắt đầu quay theo chiều ngược lại thì khớp ngược chiều sẽ khóa stato để ngăn không cho nó quay.  Cơ cấu li hợp khoá biến mô Mô tả Cơ cấu li hợp khoá biến mô truyền công suất từ động cơ tới hộp số tự động một cách trực tiếp và cơ học. Do bộ biến mô sử dòng thuỷ lực để gián tiếp truyền công suất nên có sự tổn hao công suất.Vì vậy li hợp được lắp trong bộ biến mô để nối trực tiếp động cơ tới hộp số để giảm tổn thất công suất. Khi xe đạt được một tốc độ nhất định, thì cơ cấu li hợp khoá biến mô sẽ được sử dụng để nâng cao công suất và sử dụng nhiên liệu. Li hợp khoá biến mô sẽ được lắp trong moay ơ của bánh tuabin, phía trước bánh tuabin. Lò xo giảm chấn sẽ hấp thụ lực xoắn khi ăn khớp li hợp để ngăn không cho sinh ra va đập. Một vật liệu ma sát (cùng dạng vật liệu sử dụng trong phanh đĩa và đĩa li hợp) được gắn lên vỏ biến mô hoạc piston khoá của bộ biến mô để ngăn sự trượt ở thời điểm ăn khớp li hợp.  Vận hành Khi li hợp khoá biến mô được kích hoạt thì nó sẽ quay cùng vơi bánh bơm và bánh tuabin.Việc ăn khớp và nhả li hợp khoá biến mô được xác định từ những thay đổi về hướng của dòng thuỷ lực trong biến mô khi xe đạt được một tốc độ nhất định.  Nhả khớp Khi xe chạy ở tốc độ thấp thì dầu bị nén ( áp suất của bộ biến mô) sẽ chảy vào phía trước của bộ li hợp khoá biến mô. Do đó, áp suất trên mặt trước và mặt sau của li hợp khoá biến mô trở nên cân bằng và do đó li hợp khoá biến mô được nhả khớp.  Ăn khớp Khi xe chạy ở tốc độ trung bình hoạc cao thì dầu bị nén sẽ chảy vào phía sau của li hợp khoá biến mô. Do đó, vỏ bộ biến mô và li hợp khoá biến mô sẽ trực tiếp nối với nhau. Do đó li hợp khoá biến mô và vỏ biến mô sẽ quay cùng nhau.  b. Nguyên lý và hoạt động của bộ biến mô Sự truyền mômen Khi tốc độ của bánh bơm tăng thì lực ly tâm bắt đầu làm cho dầu chảy từ tâm bánh bơm ra ngoài. Khi tốc độ bánh bơm tăng lên nữa thì dầu bị ép văng ra khỏi bánh bơm.Dầu va vào cánh của bánh tuabin làm cho bánh tuabin bắt đầu quay cùng chiều với bánh bơm. Dầu chảy vào trong dọc theo các cánh của bánh tuabin.Khi nó chui được vào trong bánh tuabin thì mặt cong trong của bánh sẽ đổi hướng dầu ngược lại về phía bánh bơm, và chu kỳ lại bắt đầu lại từ đầu.Việc truyền moomen được thực hiện nhờ sự tuần hoàn dầu qua bánh bơm và bánh tua bin.  Khuếch đại mô men Việc khuếch đại momen do biến mô thực hiện bằng cách dẫn dầu khi nó vẫn còn năng lượng sau khi đã đi qua bánh tuabin trở về bánh bơm qua các cánh của stato. Nói cách khác bánh bơm được quay do mô men từ động cơ mà mô men này lại được bổ xung dầu quay về từ bánh tuabin. Có thể nói rằng bánh bơm đã khuếch đại mô men ban đầu để dẫn động bánh tuabin.  Hoạt động của biến mô Dưới đây là mô tả chung của hoạt động của bộ biến mô khi cần số di chuyển vào “D”, “2”, “L” hoạc “R”. Khi động cơ chạy không tải hoặc xe dừng Khi động cơ chạy không tải thì momen sinh ra do động cơ là rất nhỏ. Nếu gài phanh ( phanh tay hoạc phanh chân) thì tải trên bánh tuabin rất lớn vì nó không thể quay được. Tuy nhiên, do nó bị dừng nên tỷ số truyền tốc độ của bánh tuabin so với bánh bơm bằng không trong khi tỷ số truyền momen ở trị số lớn nhất. Do đó , bánh tuabin luôn sẵn sang quay với một momen lớn hơn momen do động cơ sinh ra.  Xe bắt đầu chuyển động Khi nhả phanh thì bánh tuabin có thể quay cùng với trục sơ cấp của hộp số. Do đó, bánh tuabin quay với momen lớn hơn momen do động cơ sinh ra khi đạp bàn đạp ga. Như vậy xe bắt đầu chuyển động .  Xe chạy với tốc độ thấp Khi tốc độ xe tăng lên, thì tốc độ quay của bánh tuabin sẽ nhanh tróng tiến gần tới tốc độ quay của bánh bơm. Vì vậy, tỷ số truyền của momen nhanh tróng tiến gần tới 1.0. Khi tỷ số truyền tốc độ của bánh tuabin và bánh bơm đạt tới điểm ly hợp thì stato bắt đầu quay, và sự khuếch đại momen giảm xuống. Nói cách khác, bộ biến mô bắt đầu hoạt động như một khớp nối thuỷ lực. Do đó, tốc độ xe tăng gần như tỷ lệ thuận với tốc độ quay của động cơ.  Xe chạy ổn định ở tốc độ trung bình hoạc ở tốc độ cao Bộ biến mô chỉ hoạt động nhử một khớp nối thuỷ lực. Bánh tuabin quay gần bằng tốc độ của bánh bơm.  Chú ý Trong điều kiện bình thường thì khi xe bắt đầu chuyển động thì bộ biến mô xẽ đạt được điểm li hợp trong thời gian từ 2 tới 3 giây. Tuy nhiên nếu tải nặng thì thậm trí cả khi xe chạy ở tốc độ trung bình hoạc ở tốc độ cao thì bộ biến mô vẫn có thể hoạt động trong dải biến mô. Khi nhả các phanh, thậm chí nếu không đạp bàn đạp ga thì xe vẫn từ chuyển động. Hiện tượng này gọi là hiện tượng trườn. c.Tính năng của bộ biến mô Tỷ số truyền momen và hiệu suất truyền Độ khuếch đại momen do bộ biến mô sẽ tăng theo tỷ lệ dòng xoáy.Có nghĩa là momen cực đại khi bánh tuabin dừng. Dải biến mô, trong đó có sự khuếch đại momen Dải khớp nối, chỉ đơn thuần là truyền momen Điểm li hợp là đường phân chia giữa hai phạm vi đó, hiệu suất truyền động của bộ biến mô cho thấy năng lượng truyền cho bánh bơm truyền tới bánh tuabin với hiệu quả là ra sao.Năng lượng ở đây là công suất của bản thân động cơ, tỷ lệ với tốc độ động cơ và momen động cơ. Do momen được truyền gần 1:1 trong khớp thuỷ lực nên hiệu suất truyền động trong giải khớp nối sẽ tăng tuyến tính và tỷ lệ so với tỷ số tốc độ. Tuy nhiên, hiệu suất truyền động của bộ biến mô không đạt được 100% và thường đạt 95% . Sự tổn hao năng lượng là do nhiệt sinh ra trong dầu và trong ma sát. Khi tuần hoàn dầu nó được bộ làm mát dầu làm mát  Điểm dừng và điểm li hợp -Điểm dừng Điểm dừng là chỉ tình trạng mà ở đó bánh tuabin không chuyển động. Sự chênh lệch giữa tốc độ của bánh bơm và bánh tuabin là lớn nhất. Tỷ số truyền momen của bộ biến mô là lớn nhất tại điểm dừng ( thường trong phạm vi từ 1.7 tới 2.5). Hiệu suất truyền bằng 0. - Điểm li hợp Khi bánh tuabin bắt đầu quay và tỷ số truyền tốc độ tăng lên, sự chênh lệch tốc độ giữa bánh bơm và bánh tuabin bắt đầu giảm xuống . Tuy nhiên, ở thời điểm này hiệu suất truyền động tăng. Hiệu suất truyền động lớn nhất ngay trước điểm li hợp. Khi tỷ số tốc độ đạt tới một trị số nào đó thì tỷ số truyền momen trở nên gần 1:1. Nói cách khác, stato bắt đầu quay ở điểm li hợp và bộ biến mô hoạt động như một khớp nối thuỷ lực ngăn không cho tỷ số truyền momen giảm xuống dưới 1.  Chức năng của khớp 1 chiều của stato - Mô tả Hướng của dầu đi vào stato từ bánh tuabin phụ thuộc vào sự chênh lệch tốc độ quay của bánh bơm và bánh tuabin - Khi chênh lệch lớn về tốc độ quay thì dầu tác động lên mặt trước của cánh stato làm cho stato quay ngược chiều quay của bánh bơm . Tuy nhiên, bánh bơm không thể quay ngược chiều lại vì stato bị khoá bởi khớp 1 chiều. Do đó hướng của dòng dầu bị đổi. - Khi chênh lệch nhỏ về tốc độ quay một lượng dầu từ cánh tuabin chảy vào mặt sau của cánh roto. Khi chênh lệch về tốc độ ở mức nhỏ nhất thì phần lớn dầu từ cánh tuabin ra sẽ tiếp xúc với mặt sau của cánh stato. Trong trường hợp đó các cánh của stato sẽ cản dòng dầu. Khớp một chiều làm cho stato quay trơn cùng chiều với bánh bơm, và dầu trở về cánh bơm một cách thuận dòng.  2.2.2.Bộ truyền động bánh răng hành tinh 2.2.2.1. Bánh răng hành tinh a.Khái quát Trong các xe hộp số tự động, bộ truyền bánh răng hành tinh điều khiển việc giảm tốc, đảo chiều, nối trực tiếp và tằng tốc. Bộ truyền bánh răng hành tinh gồm các bánh răng hành tinh, các li hợp và phanh. Bộ truyền bánh răng hành tinh trước và bộ truyền bánh răng hành tinh sau được nối với nhau bằng các li hợp và phanh, là các bộ nối và cắt công suất. Những cụm bánh răng này chuyển đổi vị trí của phần sơ cấp và các phần tử cố định để tạo ra các tỷ số truyền bánh răng khác nhau và vị trí số trung gian.  b.Cấu tạo Các bánh răng trong bộ truyền bánh răng hành tinh có 3 loại : bánh răng bao, bánh răng hành tinh, bánh răng mặt trời và cần dẫn. Cần dẫn nối với trục trung tâm của mỗi bánh răng hành tinh và làm cho các bánh răng hành tinh xoay chung quanh. Với các bộ phận nối với nhau kiểu này thì các bánh răng hành tinh giống như các hành tinh quay quanh mặt trời, và do đó chúng được gọi là bánh răng hành tinh. Thông thường nhiều bánh răng hành tinh được phối hợp với nhau trong bộ bánh răng hành tinh.  c.Nguyên lý vận hành Bằng cách thay đổi vị trí đầu vào, đầu ra,phần động và phần cố định có thể giảm tốc, đảo chiều, nối trực tiếp và tăng tốc. Các nét chính của các hoạt động đó được diễn giải dưới đây.  Giảm tốc - Đầu vào: bánh răng bao - Đầu ra : cần dẫn - Cố định : bánh răng mặt trời Khi bánh răng mặt trời bị cố định thì chỉ có bánh răng hành tinh quay và vận động xung quanh. Do đó, trục đầu ra chỉ giảm tốc độ so với trục đầu vào bằng chuyển động quay của bánh răng hành tinh. Độ dài của mũi tên chỉ tốc độ quay và chiều rộng của mũi tên chỉ momen. Mũi tên càng dài thì tốc độ quay càng lớn và mũi tên càng rộng thì momen càng lớn  Đảo chiều Đầu vào : bánh răng mặt trời Đầu ra : bánh răng bao Cố định : cần dẫn Khi cần dẫn được cố định ở vi trí bánh răng mặt trời quay thì bánh răng bao quay trên trục và hướng quay đảo chiều. Độ dài của mũi tên chỉ tốc độ quay và chiều rộng của mũi tên chỉ momen. Mũi tên càng dài thì tốc độ quay càng lớn và mũi tên càng rộng thì momen càng lớn.  Nối trực tiếp ( truyền thẳng) Đầu vào :bánh răng mặt trời và bánh răng bao Đầu ra : cần dẫn - Do bánh răng bao và bánh răng mặt trời quay cùng nhau với cùng một tốc độ nên cần dẫn cũng quay với cùng tốc độ đó Độ dài của mũi tên chỉ tốc độ quay và chiều rộng của mũi tên chỉ momen. Mũi tên càng dài thì tốc độ quay càng lớn và mũi tên càng rộng thì momen càng lớn.  Tăng tốc - Đầu vào : cần dẫn - Đầu ra : bánh răng bao - Cố định : bánh răng mặt trời Khi cần dẫn quay theo chiều quay kim đồng hồ thì bánh răng hành tinh chuyển động xung quanh bánh răng mặt trời theo chiều kim đồng hồ. Do đó bánh răng bao tăng tốc trên cơ sở số răng trên bánh răng bao và trên bánh răng mặt trời. Độ dài của mũi tên chỉ tốc độ quay và chiều rộng của mũi tên chỉ momen. Mũi tên càng dài thì tốc độ quay càng lớn và mũi tên càng rộng thì momen càng lớn.  Nguyên lý hoạt động của bánh răng hành tinh khi chuyển số Số 1 - Trục sơ cấp làm quay bánh răng bao của bộ truyền hành tinh trước theo chiều kim đồng hồ nhờ C1. - Bánh răng hành tinh của bộ truyền hành tinh trước quay và chuyển động xung quanh làm cho bánh răng mặt trời quay ngược chiều kim đồng hồ. - Trong bánh răng hành tinh sau, cần dẫn sau được F2 cố định, nên bánh răng mặt trời làm cho bánh răng bao của bộ truyền hành tinh sau quay theo chiều kim đồng hồ thông qua bánh răng hành tinh của bộ truyền hành tinh sau. - Cần dẫn trước và bánh răng bao của bộ truyền hành tinh sau làm cho trục thứ cấp quay theo chiều kim đồng hồ. Bằng cách này tạo ra được tỷ số giảm tốc lớn. Ngoài ra, ở dãy "L", B3 hoạt động và phanh bằng động cơ sẽ hoạt động. Độ dài của mũi tên chỉ tốc độ quay và chiều rộng của mũi tên chỉ mô men. Mũi tên càng dài thì tốc độ quay càng lớn, và mũi tên càng rộng thì mô men càng lớn.  Số 2 - Trục sơ cấp làm quay bánh răng bao cảu bộ truyền hành tinh trước theo chiều kim đồng hồ nhờ C1. - Do bánh răng mặt trời bị B2 và F1 cố định nên công suất không được truyền tới bộ truyền bánh răng hành tinh sau. - Cần dẫn trước làm cho trục thứ cấp quay theo chiều kim đồng hồ. Tỷ số giảm tốc thấp hơn so với số 1. Ngoài ra, ở dãy "2", B1 hoạt động và phanh bằng động cơ hoạt động. Độ dài của mũi tên chỉ tốc độ quay và chiều rộng của mũi tên chỉ mô men. Mũi tên càng dài thì tốc độ quay càng lớn, và mũi tên càng rộng thì mô men càng lớn.  Số 3 - Trục sơ cấp làm quay bánh răng bao của bộ hành tinh trước theo chiều kim đồng hồ nhờ C1, và đồng thời làm quay bánh răng mặt trời theo chiều kim đồng hồ nhờ C2. - Do bánh răng bao của bộ truyền hành tinh trước và bánh răng mặt trời quay với nhau cùng một tốc độ nên toàn bộ truyền bánh răng hành tinh cũng quay với cùng tốc độ và công suất được dẫn từ cần dẫn phía trước tới trục thứ cấp. Khi gài số ba, tỉ số giảm tốc là 1. Tuy ở số 3 tại dãy "D" phanh động cơ có hoạt động, nhưng do tỉ số giảm tốc là 1 lực phanh động cơ tương đối nhỏ. Độ dài của mũi tên chỉ tốc độ quay và chiều rộng của mũi tên chỉ mô men. Mũi tên càng dài thì tốc độ quay càng lớn, và mũi tên càng rộng thì mô men càng lớn.  Số lùi - Trục sơ cấp làm quay bánh răng mặt trời theo chiều kim đồng hồ nhờ C2 - Ở bộ truyền bánh răng hành tinh sau do cần dẫn sau bị B3 cố định nên bánh răng bao của bộ truyền hành tinh sau quay ngược chiều kim đồng hồ thông qua bánh răng hành tinh của bộ truyền hành tinh sau, và trục thứ cấp được quay ngược chiều kim đồng hồ. Bằng cách này, trục thứ cấp được quay ngược lại, và xe lùi với một tỉ số giảm tốc lớn. Việc phanh bằng động cơ xảy ra khi hộp số tự động được chuyển sang số lùi, vì số lùi không sử dụng khớp một chiều để truyền lực dẫn động. Độ dài của mũi tên chỉ tốc độ quay và chiều rộng của mũi tên chỉ mô men. Mũi tên càng dài thì tốc độ quay càng lớn, và mũi tên càng rộng thì mô men càng lớn.  Dãy "P" hoặc "N" Khi cần số ở "N" hoặc "P" thì li hợp số tiến (C1) và li hợp truyền thẳng (C2) không hoạt động, vì vậy công suất từ trục thứ cấp không được truyền tới trục dẫn động bộ vi sai. Ngoài ra, khi cần số ở "P" vấu hãm của khoá phanh đỗ sẽ ăn khớp với bánh răng đỗ xe mà bánh răng này được nối với trục dẫn động bộ vi sai bằng then nên ngăn không cho xe chuyển động. Các vị trí của cần chọn số trong hộp số tự động có ý nghĩa như sau:  Vị trí P dùng để:  + đỗ xe, người lái có thể rời xe, cần kéo thêm phanh tay;  + dừng xe chờ không tắt máy;  + khởi động động cơ khi xe đang đứng yên.  Vị trí R dùng để: +lùi xe. Khi xe đang lăn bánh không chuyển vào vị trí này.  Vị trí N dùng để:  + tạo số trung gian (Mo);  + khởi động động cơ trong mọi trường hợp;  + dừng xe, người lái không rời khỏi xe.  Vị trí D dùng để: 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai lam.doc
  • docmục lục.doc