Bảo hiểm hoạt động theo quy luật số đông dựa trên nguyên tắc cộng đồng nhằm lập nên một quỹ tiết kiệm tập trung và nguyên tắc phân tán các rủi ro. Hoạt động bảo hiểm là công cụ phân phối lại vốn tiền tệ trong xã hội và được sử dụng một cách hợp lí, có hiệu quả và có tính linh hoạt cao. Hoạt động bảo hiểm đã phân phối lại vốn của nhiều người để bù đắp tổn thất cho một số ít người khi có thiệt hại xảy ra. Nhờ vậy mà những tổn thất xảy ra ở những người tham gia bảo hiểm được khắc phục nhanh chóng.
60 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2060 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Các khâu tài chính trung gia bảo hiểm tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cung cấp máy móc thiết bị để có được những tài sản phù hợp với yêu cầu của mình. Chỉ khi nào bên thuê chấp nhận, bên cho thuê mới thanh toán tiền mua và thực hiện quyền sở hữu tài sản của mình. Do đó, các máy móc thiết bị mua về hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của đơn vị đi thuê, công suất và hiệu quả sử dụng đạt rất cao.
- Nghiệp vụ thuê mua giúp cho bên đi thuê: tránh được hao mòn vô hình bằng việc đồng thời rút ngắn hạn thuê để chuyển tài sản sang cho bên cho thuê (bán tái thuê), sau đó có thể thuê các công nghệ mới, tiên tiến phù hợp hơn.
- Vì khoản tín dụng là hiện vật, nên các doanh nghiệp không cần phải có tài sản thế chấp vẫn vay được vốn. Nhưng do sự quản lý chặt chẽ của bên cho thuê, hợp đồng lại không được hủy bỏ trước thời hạn thuê, nên khoản tín dụng được đảm bảo sử dụng đúng mục đích, tránh được rủi ro cao hơn so với các loại hình tín dụng khác.
- Do bên đi thuê chỉ phải trả vốn và lãi dần theo mức khấu hao trong quá trình kinh doanh nên bên đi thuê không phải đầu tư vốn ban đầu mà vẫn có tài sản để tiến hành sản xuất kinh doanh bình thường.
- Để đảm bảo cho bên đi thuê thực hiện đúng hợp đồng, bên cho thuê sẽ có trách nhiệm trong việc thẩm định trình độ công nghệ, giá cả, giúp cho các doanh nghiệp một khâu then chốt trong việc lựa chọn và đánh giá chính xác trình độ công nghệ.
- Bên cho thuê còn có trách nhiệm hợp tác để đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật giúp bên đi thuê.
Điều kiện cho Tổ chức Tín dụng
Tổng giá trị tài sản cho thuê đối với một khách hàng không được quá 10% vốn tự có và quỹ dự trữ; Tổng giá trị tài sản cho thuê đối với 10 khách hàng lớn nhất không được quá 30% tổng dư nợ của TCTD.
TCTD chỉ được dùng vốn tự có và quỹ dự trữ, vốn trung và dài hạn vay trong nước và nước ngoài để thực hiện nghiệp vụ tín dụng thuê mua.
Điều kiện để được thuê máy móc thiết bị và các động sản khác dùng cho sản xuất kinh doanh dưới hình thức tín dụng thuê mua:
- Đối với pháp nhân được thành lập và hoạt động theo Luật pháp hiện hành của Việt Nam.
- Có tình trạng tài chính lành mạnh.
- Có nhu cầu đổi mới trang thiết bị, máy móc nhằm hiện đại hoá và hợp lý hoá sản xuất.
- Có những đảm bảo thích hợp cho tài sản thuê, khi TCTD yêu cầu (tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh...).
- Đối với thể nhân, hộ sản xuất, phải có hộ khẩu cùng địa bàn với TCTD.
5. Tín dụng quốc tế
5.1 Khái niệm
Tín dụng quốc tế là quan hệ tín dụnggiữa các chủ thể thuộc nhiều quốc gia khác nhau trong quá trình huy động và sư dụng các nguồn vốn tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả. Đó là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh giữa các nhà nước, các cơ quan nhà nước với nhau hoặc với các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế, giữa các cá nhân và các doanh nghiệp thuộc các nước khác nhau trong quá trình cho vay và trả nợ.
5.2 Các hình thức tín dụng quốc tế
Căn cứ vào chủ thể tín dụng: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng chính phủ.
- Tín dụng thương mại: là loại tín dụng rất phổ biến trong tín dụng quốc tế, là các khoản vay mượn do các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của hai nước cung cấp cho nhau do mua bán hàng của nhau . Hình thức tín dụng này, sự vận động của tín dụng gắn liền với sự vận động của hàng hóa chứ không phải bằng tiền và quá trình vay mượn xảy ra song song với quá trình mua bán.
- Tín dụng ngân hàng quốc tế: Quan hệ vay và cho vay lẫn nhau giữa hệ thống ngân hàng nội địa với ngân hàng nước ngoài hoặc là những khoản vay mượn do các ngân hàng thương mại cung cấp để tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động đầu tư cơ bản nước ngoài.
- Tín dụng chính phủ: Đây là quan hệ tín dụng giữa chính phủ nước này với chính phủ nước khác, và với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như ngân hàng thế giới (WB) quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) ngân hàng phát triển Á Châu (ADB), các tổ chức phi chính phủ khác.
Căn cứ vào tính bảo đảm:
Tín dụng đảm bảo
Tín dụng không đảm bảo
Căn cứ vào mục đích sử dụng:
Tín dụng sản xuất
Tín dụng phi sản xuất
Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
T ín dụng ngắn hạn
Tín dụng trung hạn
- Tín dụng dài hạn.
5.3 Nguyên tắc cơ bản của tín dụng quốc tế ở Việt Nam
Ở Việt Nam, để quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tín dụng quốc tế, cần thực hiện 3 nguyên tắc sau:
- Chính phủ thống nhất quản lý các khoản vay và trả nợ trên cơ sở chiến lược quốc gia về vay và trả nợ nước ngoài; theo dõi giám sát các khoản vay và trả nợ nước ngoài theo kế hoạch; sử dụng các chính sách và công cụ taì chính đảm bảo duy trì cơ cấu, thời hạn và tổng số nợ hợp lý nhằm đảm bảo nhu cầu cân đối kinh tế vĩ mô và nhu cầu phát triển của đất nước.
- Các cơ quan chính quyền đoàn thể và các cơ quan quản lý hành chính các cấp không được trực tiếp vay nước ngoài mà phải thông qua các cơ quan chức năng được phép của chính phủ về quản lý, vay vốn trả nợ nước ngoài.
- Các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đơn vị tiếp nhận và sử dụng vốn vay nước ngoài phải sử dụng theo đúng dự án được duyệt, có trách nhiệm thu hồi đầy đủ, kịp thời nợ vay từ vốn cho vay lại của chính phủ.
5.4 Ưu nhược điểm:
Ưu điểm: đáp ứng được nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế xã hội khi mà các nguồn vốn trong nước còn hạn chế.
Nhược điểm: Tín dụng quốc tế còn có rủi ro do bị ảnh hưởng của sự thay đổi tỉ giá hối đoái quốc tế.
6. Tín dụng tiêu dùng
6.1 Cơ sở hình thành
Tín dụng tiêu dùng ra đời cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Đây là một hình thức khá phổ biến hiện nay đặc biệt là ở môt số nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên hình thức này còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Chúng ta đã quen với việc mua hàng hóa tiêu dùng có giá trị từ vài triệu lên đến vài trăm triệu được trả trực tiếp bằng tiền mặt nhưng việc này là rất hiếm hoi ở nước ngoài. Bới vì ở nước ngoài việc thanh toán hầu hết được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng.
6.2 Khái niệm
Tín dụng tiêu dùng là quan hệ tín dụng giữa dân cư với doanh nghiệp, ngân hàng và các công ty cho thuê tài chính.
Để tạo điều kiện cho các khách hàng có thể thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng (mua sắm hàng hóa) của mình, các ngân hàng sẽ cho vay tiêu dùng bằng tiền hay hàng hóa. Người được hưởng tín dụng tiêu dùng không phải thế chấp bất cứ một loại tài sản nào mà chỉ cần chứng minh được thu nhập. Người vay tín dụng sẽ phải trả một phần gốc và lãi hàng tháng.
Hạn mức tín dụng căn cứ vào thu nhập bình quân của người đó. Thời hạn của tín dụng tiêu dùng từ 1 năm đến 5 năm
Lãi suất tín dụng được tính theo: dư nợ giảm dần hay dư nợ gốc (tùy theo từng ngân hàng). Tính lãi theo dư nợ gốc là người vay tín dụng sẽ phải trả một khoản tiền lãi cố định từ đầu kì cho đến cuối kì tín dụng. Còn tính theo dư nợ giảm dần là người vay sẽ trả tiền lãi căn cứ vào số dư nợ thực tế trên trong từng kì.
6.3 Đặc điểm và công cụ lưu thông của tín dụng tiêu dùng
Đặc điểm:
+ Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho dân cư.
+ Hình thức là hàng hóa hoặc tiền tệ.
+ Dân cư là người vay; ngân hàng, công ty cho thuê tài chính, doanh nghiệp là người cho vay.
Công cụ lưu thông của tín dụng tiêu dùng:
+ Ngân hàng cấp tín dụng tiêu dùng bằng tiền.
+ Doanh nghiệp cho vay dưới hình thức bán chịu, trả góp.
+ Công ty cho thuê tài chính cho vay dưới dạng cho thuê tài sản.
6.4 Ưu nhược điểm của tín dụng tiêu dùng
Ưu điểm
+ Thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, nhất là hàng hóa ứ đọng;
+ Góp phần nâng cao, cải thiện đời sống dân cư, cho phép sử dụng trước khả năng mua.
Nhược điểm
+ Khối lượng tín dụng bị hạn chế.
+ Hình thức tín dụng bị hạn chế.
B. BẢO HIỂM
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM
1. Khái niệm.
Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ 3 trong trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của luật thống kê.
Sự cần thiết của bảo hiểm.
- Cùng với sự phát triển của nền kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như đời sống kinh tế xã hội, con người thường xuyên chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều tác động của môi trường tự nhiên, tuy đã có nhiều biện pháp để phòng ngừa tai nạn, rủi ro của thiên nhiên gây ra (động đất, bão, lụt, …) nhưng vẫn còn bất lực trước những rủi ro và những hiểm họa đó => hậu quả nghiêm trọng.
- Xã hội ngày càng văn minh hiện đại nhưng cũng gây ra nhiều tai nạn cho con người ( tai nạn ô tô, lao động, …)
à Bảo hiểm là một phạm trù tài chính gắn liền với các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất và đời sống con người trong xã hội phát triển bình thường.
2. Vai trò của bảo hiểm.
Bảo hiểm ra đời, tồn tại và phát triển như một tất yếu kinh tế, có vai trò lớn trong đời sống kinh tế - xã hội, biểu hiện trên các mặt sau:
- Vai trò đảm bảo an toàn cho sản xuất và đời sống.
Bảo hiểm tạo điều kiện cho những người tham gia bảo hiểm phòng tránh một số sự cố xảy ra có thể gây thiệt hại cho của cải và bản thân họ. Bảo hiểm con người, cũng như bảo hiểm tài sản có xu hướng can thiệp vào một số hoàn cảnh nhằm không để các cá nhân hoặc doanh nghiệp hoàn toàn kiệt quệ. Đây là một yếu tố có tính quyết định rất lớn đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh, tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
- Vai trò ổn định sản xuất và đời sống:
Bảo hiểm hoạt động theo quy luật số đông dựa trên nguyên tắc cộng đồng nhằm lập nên một quỹ tiết kiệm tập trung và nguyên tắc phân tán các rủi ro. Hoạt động bảo hiểm là công cụ phân phối lại vốn tiền tệ trong xã hội và được sử dụng một cách hợp lí, có hiệu quả và có tính linh hoạt cao. Hoạt động bảo hiểm đã phân phối lại vốn của nhiều người để bù đắp tổn thất cho một số ít người khi có thiệt hại xảy ra. Nhờ vậy mà những tổn thất xảy ra ở những người tham gia bảo hiểm được khắc phục nhanh chóng.
- Vai trò trung gian tài chính:
Bảo hiểm là một công cụ tín dụng, thông qua hoạt động bảo hiểm, các Công ty bảo hiểm thu hút một nguồn vốn đáng kể từ các cá nhân và các doanh nghiệp để đầu tư vốn vào nền kinh tế thông qua thị trường tài chính.
Với nguồn vốn hoạt động rất dồi dào từ sự đóng góp của các cá nhân và các doanh nghiệp trong xã hội, khi chưa sử dụng cho mục tiêu đã định, các Công ty bảo hiểm đã nhanh chóng dùng vốn ấy đem cho vay hoặc đầu tư để tạo ra lãi, việc làm này có ý nghĩa rất quan trọng. Nó không những góp phần rút bớt lượng tiền thừa trong lưu thông, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả, thị trường mà còn có tác động làm gia tăng nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội, giảm bớt thất nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
3. Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm.
- Nguyên tắc chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn (Fortuity not certainty): Chỉ bảo hiểm một rủi ro xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của con người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra.
- Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith): Tất cả các giao dịch kinh doanh cần được thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực tuyệt đối. Cả người được bảo hiểm và người bảo hiểm đều phải trung thực trong tất cả các vấn đề.
- Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm (insurable interest): Quyền lợi có thể được bảo hiểm là lợi ích hoặc quyền lợi liên quan đến, gắn liền với, hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng bảo hiểm. Nguyên tắc này chỉ ra rằng người được bảo hiểm muốn mua bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm có thể là quyền lợi đã có hoặc sẽ có trong đối tượng bảo hiểm.
- Nguyên tắc bồi thường (indemnity): Theo nguyên tắc bồi thường, khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vị trí tái chính như trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn không kém. Các bên không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi.
- Nguyên tắc khoán: Người ta áp dụng nguyên tắc khoán mà số tiền được ấn định trước trong các hợp đồng bảo hiểm và tách biệt với khái niệm bồi thường. Nguyên tắc này được áp dụng trong các nghiệp vụ bảo hiểm con người và bảo hiểm nhân thọ.
- Nguyên tắc thế quyền (subrobgation): Theo nguyên tắc thế quyền, người bảo hiểm sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ ba trách nhiệm bồi thường cho mình.
- Bảo hiểm hoạt động theo quy luật số đông: Quy luật này giúp các nhà bảo hiểm ước tính xác suất rủi ro nhận bảo hiểm, nhằm giúp tính phí và quản lý các quỹ dự phòng của công ty bảo hiểm.
- Nguyên tắc” nguyên nhân gần”: Nguyên nhân gần là nguyên nhân chủ động hữu hiệu và chi phối sự việc dẫn đến tổn thất cho đối tượng được bảo hiểm. Công ty bảo hiểm sẽ bồi thường nếu nguyên nhân gần là nguyên nhân thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
- Nguyên tắc đóng góp tổn thất: Nguyên tắc này quy định khi các công ty cùng bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm bị tổn thất có nghĩa vụ đóng góp bồi thường theo tỷ lệ phần trăm trách nhiệm đã nhận bảo hiểm.
CÁC HÌNH THỨC BẢO HIỂM.
Bảo hiểm kinh doanh (bảo hiểm rủi ro)
Khái niệm.
Trên góc độ tài chính, bảo hiểm kinh doanh là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những tổn thất khi rủi ro xảy ra. Trên góc độ pháp lí, bảo hiểm kinh doanh thực chất là một bản cam kết mà một bên đồng ý bồi thường cho bên kia khi gặp rủi ro nếu bên kia đóng phí bảo hiểm. Do đó, bảo hiểm kinh doanh là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài chính thông qua sự đóng góp của các tổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm.
Mặc dù đứng trên góc độ nào thì bảo hiểm kinh doanh cũng được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài chính từ sự đóng góp của các tổ chức kinh tế, cá nhân tham gia bảo hiểm để lập quỹ bảo hiểm và sử dụng nó để bồi thường những tổn thất vật chất được bảo hiểm khi rủi ro xảy ra.
Đặc điểm của bảo hiểm kinh doanh.
- Hoạt động của bảo hiểm kinh doanh được thực hiện dưới hình thức người tham gia bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm. Trong thời gian bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm không bị tổn thất bất ngờ xảy ra thì người tham gia bảo hiểm không được bồi hoàn lại số tiền đã đóng phí bảo hiểm. Khi rủi ro xảy ra với người tham gia bảo hiểm thì được bồi thường. Như vậy, bảo hiểm kinh doanh vừa mang tính chất bồi hoàn vừa mang tính chất không bồi hoàn.
- Hoạt động bảo hiểm kinh doanh trở thành một biện pháp kinh tế có hiệu quả nhất cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh và an toàn đối với đời sống xã hội. Quá trình sử dụng quỹ bảo hiểm kinh doanh có mối liên hệ chặt chẽ với chức năng kiểm tra, kiểm soát bằng đồng tiền với mục đích tạo lập và sử dụng quỹ bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm khi rủi ro về bảo hiểm xảy ra. Trong quá trình kiểm tra việc chấp hành các quy tắc, nội dung tạo lập và sử dụng quỹ nhằm đảm bảo tính mục đích, hiệu quả của việc tạo lập và sử dụng quỹ bảo hiểm kinh doanh. Đồng thời, người tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm đề phòng, ngăn ngừa, hạn chế tổn thất có thể xảy ra. Nếu người bảo hiểm phát hiện người tham gia vi phạm nguyên tắc, quy tắc bảo hiểm thì các nhà bảo hiểm sẽ có những biện pháp khắc phục, ngăn ngừa, hạn chế tổn thất.
Các nguyên tắc của bảo hiểm kinh doanh.
- Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia bảo hiểm cũng như doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm kinh doanh là đảm bảo quyền lợi, lợi ích cho người tham gia bào hiểm. Bên cạnh đó, người tham gia bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm và nhà bảo hiểm chỉ bồi thường thiệt hại, tổn thất khi rủi ro được bảo hiểm xảy ra. Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia bảo hiểm phải tương xứng với nhau, người kinh doanh bảo hiểm được hưởng phần lợi nhuận thích đáng từ kết quả kinh doanh của họ.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc hợp tác kinh doanh. Nhà bảo hiểm thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm trên cơ sở khai thác phí bảo hiểm để bồi thường tổn thất, thiệt hại khi đối tượng được bảo hiểm gặp rủi ro. Đồng thời trang trải các chi phí cho việc thực hiện các hoạt động của mình như chi phí quản lí, chi phí quảng cáo, chi phí khấu hao tài sản cố định,… Nếu trong thời gian bảo hiểm mà không xảy ra rủi ro thì không phải hoàn trả phí bảo hiểm và chính phần này tạo ra lợi nhuận cho người kinh doanh bảo hiểm. Như vậy, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là lấy thu bù chi và đảm bảo có lãi.
- Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân theo luật pháp của nhà nước qui định. Thực hiện nguyên tắc này một mặt nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm, mặt khác hoạt động bảo hiểm tuân thủ sự kiểm soát quản lí của nhà nước để đảm bảo các mặt lợi ích giữa nhà nước, người tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm.
- Hoạt động của bảo hiểm theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít. Khi rủi ro xảy ra dẫn đến thiệt hại, tổn thất thực tế thường rất lớn, lớn hơn rất nhiều lần so với số tiền phí bảo hiểm mà người tham gia bảo hiểm đóng góp. Vì vậy, trong hoạt động bảo hiểm kinh doanh phải dựa trên cơ sở quy luật số đông nghĩa là lấy phí bảo hiểm của số đông người tham gia bảo hiểm đóng góp để chi trả bồi thường cho số ít người tham gia không may bị tổn thất. Nguyên tắc số đông bù số ít còn thể hiện ở một số hoạt động. Hoạt động tái bảo hiểm nhằm phân tán rủi ro, chia nhỏ trách nhiệm của bảo hiểm trên mỗi hợp đồng và nhận bảo hiểm một phần trách nhiệm từ các tổ chức bảo hiểm khác nhau về mình. Hoạt động đồng bảo hiểm là hoạt động các nhà bảo hiểm cùng nhau tham gia bảo hiểm cho một hợp đồng bảo hiểm và phân chia trách nhiệm trên một hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo khả năng tài chính của từng nhà bảo hiểm khi mức trách nhiệm hợp đồng bảo hiểm quá lớn, vượt quá khả năng của mỗi người.
- Hoạt động của bảo hiểm kinh doanh phải tuân thủ nguyên tắc an toàn tài chính: An toàn tài chính là một trong những nguyên tắc có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Yêu cầu của nguyên tắc là các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phải đảm bảo năng lực tài chính để thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm, có biện pháp ngăn ngừa rủi ro làm mất khả năng chi trả, dẫn đến nguy cơ phá sản. Tuân thủ các nguyên tắc này, doanh nghiệp bảo hiểm cần thực hiện các biện pháp chủ yếu sau:
+ Doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện việc ký quỹ tại các ngân hàng thương mại để đảm bảo khả năng tài chính.
+ Lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ, các quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện để tăng tài chính cho các nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm.
+ Việc đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo an toàn, hiệu quả và đáp ứng được yêu cầu chi trả thường xuyên cho các cam kết theo hợp đồng bảo hiểM.
Các yếu tố cơ bản của hợp đồng bảo hiểm rủi ro.
- Người bảo hiểm: là chủ thể hay pháp nhân đứng ra chỉ đạo việc tạo lập và điều khiển quá trình sử dụng quỹ bảo hiểm được pháp luật công nhận. Ví dụ các công ty Bảo Việt, Bảo Minh, …
- Người tham gia bảo hiểm: là những chủ thể hay pháp nhân tham gia đóng bảo hiểm phí dưới hình thức bắt buộc hay tự nguyện và khi xảy ra những sự cố hay tai nạn bảo hiểm đã kí kết thì họ sẽ được quyền nhận tiền bồi thường tổn thất.
- Người được bảo hiểm: là người vì tính mạng, sức khoẻ của người đó khiến người tham gia bảo hiểm đi đến ký kết hợp đồng bảo hiểm với người bảo hiểm.
- Người được chỉ định hưởng bồi thường bảo hiểm: là người được tham gia bảo hiểm chỉ định bằng văn bản với người bảo hiểm là người đó sẽ được nhận bồi thường bảo hiểm khi có sự cố bảo hiểm xảy ra hoặc khi người được bảo biểm bị chết.
- Đối tượng bảo hiểm: là những cái gì mà người tham gia bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm hoặc do pháp luật quy định bắt buộc phải bảo hiểm, có thể là thân thể con người, tài sản, trách nhiệm dân.
- Rủi ro bảo hiểm: là mức độ hay khả năng xảy ra sự cố bảo hiểm, là một hoặc nhiều sự cố dự tính trong các điều kiện bảo hiểm mà khi những sự cố này xảy ra thì người bảo hiểm bắt buộc phải tiến hành trả tiền bồi thường tổn thất cho người tham gia bảo hiểm.
- Tai nạn bảo hiểm: là sự cố bảo hiểm xảy ra kéo theo trách nhiệm của người bảo hiểm phải bồi thường tổn thất cho người tham gia bảo hiểm.
- Giá trị bảo hiểm: là giá trị tài sản được bảo hiểm tại thời điểm ký hợp đồng bảo hiểm.
- Số tiền bảo hiểm: là số tiền tính cho từng loại tài sản được bảo hiểm mà trong giới hạn đó người bảo hiểm phải tiến hành trả tiền bồi thường tổn thất khi tai nạn bảo hiểm xảy ra đối với bảo hiểm tài sản, hoặc số tiền phải trả cho đời sống và sức khoẻ đối với bảo hiểm thân thể.
- Phí bảo hiểm: là số tiền mà người tham gia bảo hiểm phải đóng góp cho người bảo hiểm về các đối tượng bảo hiểm.
Phân loại các nghiệp vụ bảo hiểm kinh doanh.
Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm, gồm có 3 loại:
Bảo hiểm tài sản
Trong cuộc sống và kinh doanh luôn tồn tại những rủi ro bất ngờ, có thể gây ra những tổn thất đáng tiếc làm ảnh hưởng đến cuộc sống và sản xuất kinh doanh. Vì vậy việc đảm bảo an toàn cho tài sản giúp cá nhân và doanh nghiệp nhanh chóng khôi phục khả năng tài chính, năng lực kinh doanh là những tiêu chí quan trọng hàng đầu. Bảo hiểm tài sản là một phương thức chuyển giao rủi ro hữu hiệu cho cá nhân và doanh nghiệp. Là loại hình bảo hiểm ra đời từ lâu, với mục đích bảo vệ tình hình tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi không may tài sản của họ bị tổn thất, mất mát vì nhiều lý do khác nhau.Đối tượng bảo hiểm là tài sản của người sở hữu.
Ở Việt Nam, bảo hiểm tài sản có nhiều tên gọi, nhưng phổ biến tồn tại dưới ba loại sau đây, đó là:
Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu;
Bảo hiểm thân tàu, thuyền, ô tô,...;
Bảo hiểm hỏa hoạn.
Tài sản được bảo hiểm:
Bất cứ tài sản nào cũng có thể được bảo hiểm, như nhà cửa, bàn ghế, máy móc thiết bị, bao gồm cả máy tính, camera, các đồ trang trí, nội thất...Tuy nhiên, có một số tài sản có tính chất đặc thù riêng thông thường hay được cân nhắc để mua những gói bảo hiểm đặc thù, đó là tiền, đồ trang sức quý giá, máy móc có sử dụng sức nén lớn, có quan hệ mật thiết với điện, máy móc sử dụng bộ vi sử lý.
Bảo hiểm tài sản bảo hiểm những rủi ro nào:
Như đã giới thiệu ở trên, tùy thuộc vào mỗi đơn bảo hiểm mà phạm vi rủi ro được bảo hiểm là khác nhau, tuy nhiên có một số các rủi ro chính sau:
Hỏa hoạn, sét
Nổ
Xe cộ đâm va
Giông, bão, lụt
Động đất
Đất sụt, đất lở, đá lở hay những di chuyển khác của đất
Tràn nước từ bể chứa hay đường ống dẫn nước
Thiệt hại do hành động ác ý
Gây rối, đình công, bế xưởng
- Bảo hiểm con người
Bảo hiểm toàn bộ thân thể của người được bảo hiểm. Đối tượng bảo hiểm là đời sống sức khỏe, tính mạng, khả năng lao động của con người.
Ví dụ: Trong từng điều kiện lao động sinh hoạt, lứa tuổi khác nhau mỗi cá nhân có thể gặp những rủi ro ảnh hưởng đến thân thể, tính mạng, sức khỏe của mình và điều này làm giảm hoặc mất đi một khoản thu nhập tài chính của người được bảo hiểm hoặc gia đình nạn nhân.Bảo hiểm con người là nhằm hỗ trợ về tài chính nhằm giảm thiểu những thiệt hại tài chính phát sinh từ những rủi ro làm suy giảm hoặc hủy hoại đến thân thể, tính mạng, sức khỏe của người được bảo hiểm. Các sản phẩm bảo hiểm con người mang tới sự an toàn tài chính cho nạn nhân hoặc gia đình nạn nhân một khoản thu nhập tài chính khi phát sinh sự kiện bảo hiểm.
Trên thế giới hoạt động bảo hiểm con người xuất hiện từ lâu và ngày càng phát triển. Cho đến nay, các nước thường tập trung vào những hoạt động chính như: Bảo hiểm nhân thọ; Bảo hiểm tai nạn chết người và mất khả năng lao động; Bảo hiểm tai nạn cá nhân bất ngờ; Bảo hiểm công nhân viên chức do doanh nghiệp trả phí bảo hiểm; Bảo hiểm trẻ em; Bảo hiểm hành khách…
- Bảo hiểm trách nhiệm nhân sự
Đối tượng bảo hiểm là những hành vi thiếu sót của cá nhân hay tập thể gây ra thiệt hại về tài sản hay thân thể, tính mạng cho người khác. Như vậy người khi tham gia bảo hiểm trách nhiệm hình sự, nếu xuất phát từ hành vi sơ ý bất cẩn của người được bảo hiểm, làm thiệt hại cho người khàc về tài sản hay thân thể của họ, doanh nghiệp bảo hiểm thay mặt người được bảo hiểmsẽ bồi thường cho người bị thiệt hại nếu có qua đó giảm bớt phần trách nhiệm về tài chính của người gây ra thiệt hại, đồng thời nạn nhân bị thiệt hại từ hành động của người khác gây ra có thu nhập để chủ động khắc phục những thiệt hại mình phải gánh chịu.
Điều kiện:
+ Có thiệt hại thực tế của bên thứ ba.
+ Có hành vi trái pháp luật của cá nhân hay tổ chức.
+ Có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của cá nhân hay tổ chức và thiệt hại của bên thứ ba.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự thường được thực hiện dưới hình thức bắt buộc:
+ Mục đích ổn định tài chính cho người được bảo hiểm.
+ Bảo vệ quyền lợi cho nạn nhân.
+ Có thể áp dụng giới hạn trách nhiệm hoặc không:
+ Không xác định được thiệt hại trách nhiệm dân sự tại thời điểm tham gia bảo hiểm.
+ Các công ty bảo hiểm thường đưa ra các giới hạn trách nhiệm.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba:
Đối tượng bảo hiểm: Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Loại trừ: lái xe, phụ xe, người làm công cho chủ xe; những người lái xe phải nuôi dưỡng; hành khách, những người có mặt trên xe; tài sản,tư trang của những người nêu trên.
Phạm vi bảo hiểm:
+ Thiệt hại về tính mạng, tình trạng sức khỏe của bên thứ ba
+ Thiệt hại về tài sản, hàng hóa… của bên thứ ba.
+ Thiệt hại tài sản l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_khau_tai_chinh_trung_gian_bao_hiem_tin_dung_7883.docx