Chính phủ ban hành các văn bản pháp luật nhằm ngăn ngừa một số hành vi xấu như các doanh nghiệp cấu kết với nhau để nâng giá hay hạn chế một số cơ cấu thị trường nhất định có hại đến nền kinh tế của một đất nước. Các nước có thị trường phát triển thường dùng biện pháp này để điều tiết những doanh nghiệp lớn, chiếm thị phần rất cao trong khoảng thời gian dài. Phán quyết của tòa án Mỹ năm 1911 buộc nhóm công ty Standard Oil phải tách ra thành 34 công ty độc lập là ví dụ điển hình
25 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2857 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Kinh Tế Vĩ Mô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắc biên của tính hiệu quả nghĩa là sản xuất sẽ đạt hiệu quả khi lợi ích biên bằng chi phí biên, tất nhiên lợi ích biên và chi phí biên ở đây xét trên góc độ xã hội chứ không phải đối với doanh nghiệp độc quyền ta thấy rằng: ở mức sản lượng mà doanh nghiệp độc quyền sản xuất thì lợi ích biên (chính là đường cầu) lớn hơn chi phí biên đồng nghĩa với tình trạng không hiệu quả. Tóm lại, doanh nghiệp độc quyền sẽ sản xuất ở sản lượng thấp hơn và bán với giá cao hơn so với thị trường cạnh tranh. Tổn thất mà xã hội phải gánh chịu do sản lượng giảm sút trừ đi tổng chi phí biên để sản xuất ra phần sản lượng đáng lẽ nên được sản xuất ra thêm đó chính là tổn thất do độc quyền.
2.2 Thực trạng độc quyền ở Việt Nam
Một nghịch lý đang diễn ra là các cơ sở sản xuất, kinh doanh dược trong nước chịu sự kiểm soát chặt của cơ quan quản lý nhà nước nhưng chưa thể kiểm soát giá cả thuốc của các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Bản thân các cơ quan quản lý muốn công bố giá trần thuốc để minh bạch đấu thầu giá nhưng vẫn không thể. Giá một loại số loại thuốc nhập khẩu, thuốc biệt dược, thuốc chuyên dụng tăng cao, có loại lên đến 150% - 300% so với giá gốc.
Việc quản lý giá thuốc tại các cơ sở bệnh viện công lập bằng phương pháp đấu thầu đã được thực hiện từ năm 2006. Qua 4 năm triển khai, áp dụng giá thuốc cạnh tranh không thấy đâu, chỉ lộ ra nhiều bất cập. Bệnh nhân vẫn phải mua thuốc giá cao, giá thuốc vẫn lũy tiến theo từng tháng. Một câu hỏi được đặt ra là “Đến bao giờ, các cơ quan chức năng mới có sự chủ động về giá thuốc, tránh sự lệ thuộc từ bên ngoài? Đến bao giờ, người bệnh mới được mua giá thuốc không độc quyền?”
Theo quy định của Bộ Y tế và Bộ Tài chính, các nguồn thuốc khi cung cấp vào các cơ sở y tế công lập bắt buộc phải qua công tác đấu thầu. Giá các mặt hàng thuốc trong gói đấu thầu không được cao hơn giá tối đa của các mặt hàng thuốc đó được công bố tại thời điểm gần nhất của Bộ Y tế. Trong trường hợp, những mặt hàng thuốc chưa được công bố giá tối đa, khi xây dựng kế hoạch đấu thầu, các đơn vị phải tham khảo giá những mặt hàng thuốc đã trúng thầu trong vòng 12 tháng trước của các cơ sở y tế công lập do Cục Quản lý Dược Việt Nam cập nhật và thông báo trên trang thông tin điện tử của ngành y tế. Bởi doanh số bán thuốc của bệnh viện chiếm tới 70% thị phần bán lẻ nên với những quy định như vậy, Bộ Y tế hi vọng sớm đưa được thuốc trị bệnh vào guồng quản lý, hi vọng kéo được giá thuốc xuống chống dược tình trạng độc quyền về giá thuốc.
Thế nhưng, qua những đợt thanh kiểm tra của Bộ Y tế cho thấy, giá thuốc trong nhiều bệnh viện bán giá cao hơn giá bán lẻ bên ngoài. Các lượt thuốc tăng giá vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn so với mặt hàng giảm giá. Theo Hiệp hội kinh doanh dược Việt Nam, vào tháng 10, khi tiến hành khảo sát 7390 lượt mặt hàng, bao gồm cả thuốc nội và thuốc nhập ngoại, có 7 lượt mặt hàng thuốc ngoại tăng giá, chiếm tỉ lệ chưa đầy 0,1%, tỉ lệ tăng trung bình 5,0% (ngoài ra có 13 lượt mặt hàng giảm giá chiếm tỉ lệ 0,14% với tỉ lệ giảm trung bình khoảng 4,3%). Với thuốc sản xuất trong nước: có 37 lượt mặt hàng tăng giá, chiếm tỉ lệ 0,40% so với tổng số lượt mặt hàng khảo sát, mức tăng trung bình 3,8% và 11 lượt mặt hàng giảm giá chiếm tỉ lệ 0,12%.
Một nghịch lý đang diễn ra là các cơ sở sản xuất, kinh doanh dược trong nước chịu sự kiểm soát chặt của cơ quan quản lý nhà nước nhưng chưa thể kiểm soát giá cả thuốc của các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Bản thân các cơ quan quản lý muốn công bố giá trần thuốc để minh bạch đấu thầu giá nhưng vẫn không thể. Giá một loại số loại thuốc nhập khẩu, thuốc biệt dược, thuốc chuyên dụng tăng cao, có loại lên đến 150% – 300% so với giá gốc.
Đại diện Tổ chức Y tế thế giới (WHO), bà Nguyễn Thị Kim Phượng, cho rằng, tổng chi cho y tế của Việt Nam hiện ngang bằng với các nước thu nhập trung bình cao và Việt Nam đang đối mặt với sự gia tăng chi phí y tế, đối với cả hộ gia đình và nhà nước. Chi phí y tế cao nhưng hiệu quả thấp. Không chỉ quỹ BHYT mà hộ gia đình phải gánh chịu khoảng 20% chi phí bất hợp lý từ việc cung ứng các dịch vụ không cần thiết, giá thuốc không hợp lý và sử dụng thuốc không hợp lý.
Việc đấu thầu giá thuốc đã thật sự không mang lại những hiệu quả như mong muốn. Lý do được bộ Y Tế cho rằng, trên thị trường đang lưu hành khoảng 22.000 mặt hàng thuốc với trên 1500 hợp chất, mỗi loại hợp chất có nhiều chủng loại, hàm lượng quy cách đóng gói, nhà sản xuất, nơi sản xuất khác nhau nên việc xác định mức giá tối đa cho tất cả các mặt hàng trên thực chất là rất khó khả thi. Trong thực tế, có những loại thuốc giống nhau, nồng độ như nhau, nhưng thuốc nhập ngoại sẽ đắt hơn thuốc nội sản xuất. Nếu Cục Quản lý dược công bố giá thì các doanh nghiệp trong nước sẽ đẩy giá của mình lên cao dù chi phí rất thấp. Việc này dẫn tới, các bệnh viện không mua được giá đúng. Còn nếu công bố mức giá cao nhất đã trúng thầu để làm cơ sở giá tối đa thì cũng không có ý nghĩa, cơ chế công bố giá tối đa có thể dẫn tới tăng giá thuốc đồng loạt trên thị trường. Vậy, câu hỏi đặt ra, quyền định giá thuốc đang của cơ quan nào?
Theo khẳng định của nhiều chuyên gia, muốn quản lý minh bạch thì nên mời các chuyên gia độc lập tham gia xây dựng giá trần, chuyển quản lý giá thuốc sang Bộ Tài chính, nghiên cứu việc đấu thầu thuốc tập trung, triển khai thí điểm trước tại một số tỉnh. Đây là cách chống độc quyền về giá thuốc.
Theo thừa nhận của Bộ Y Tế, Bộ vẫn gặp nhiều vướng mắc trong việc quản lý giá thuốc. Hiện nay, Bộ đang tính toán tới cơ chế không công bố giá trần mà công bố thặng số bán buôn tối đa đối với các thuốc do ngân sách và BHYT chi trả, chọn lọc một số loại thuốc có tỷ trọng tần suất cao trong điều trị.
Ngành điện là một ngành kinh doanh dịch vụ, mà đã là dịch vụ thì phải có chú ý quan tâm , chăm sóc khách hàng. Nhưng thật ngược đời, khách hàng phải đi lo "chăm sóc" ngành điện thì mới có cơ hy vọng được cấp điện ổn định, đây mới chỉ là ổn định thôi, chứ chưa nói tới việc nguồn điện có đảm bảo chất lượng hay không.
Việt Nam chúng ta đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, một nền kinh tế của những sự cạnh tranh và sự đề cao chất lượng phục vụ khách hàng. Ngành điện Việt Nam ỷ thế độc quyền, coi thường khách hàng như hiện nay là một hiện tượng không thể chấp nhận được. Đã đến lúc chúng ta phải có một sự xem xét lại tư cách độc quyền kinh doanh điện.
Trao đổi về việc tăng giá điện, nhiều ý kiến cho rằng không nên tăng giá điện trong lúc nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn và nếu tăng từ 8-9,8% vẫn là quá cao
Thông tin về việc sẽ tăng giá điện trong năm 2011 khiến nhiều người dân lo lắng. Rất nhiều ý kiến cho rằng không nên tăng giá điện trong thời buổi lạm phát vì sẽ kéo theo giá rất nhiều mặt hàng khác tăng theo, gây khó khăn cho cuộc sống của người dân.
Trong tình hình kinh tế hiện nay, mục tiêu là kích cầu. Chính phủ đã tung ra những khoản tiền để giúp kích cầu cho nền kinh tế. Nhưng việc tăng giá điện có tác dụng ngược lại chính sách trên. Việc tăng giá điện như thế có thể làm cho cầu đầu tư giảm sút trầm trọng.
Nếu tăng giá điện phải đảm bảo chất lượng điện. Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ của ngành điện lại kém, vào những thời gian cao điểm như mùa hè, dân và doanh nghiệp vẫn phải chịu thiếu điện, bị cắt điện luân phiên gây thiệt hại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, gây khó khăn cho đời sống. Điều này thể hiện việc tái đầu tư của ngành điện rất kém và cũng thể hiện sự độc quyền, thiếu tính cạnh tranh trong lĩnh vực này.
Nếu coi người sử dụng điện là khách hàng và phải chịu mua điện theo giá cả thị trường thì họ được quyền yêu cầu người bán cung cấp dịch vụ tốt nhất, được quyền lựa chọn nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ tốt nhất. Tuy nhiên, việc này là không thể có, vì chúng ta chỉ có một đơn vị duy nhất cung cấp điện cho cả nước và khách hàng không bao giờ có cơ hội lựa chọn.
Tăng giá điện thì cũng là việc cần thiết nhưng trong tình hình kinh tế được dự báo là khó khăn trong năm nay thì liệu đã phù hợp chưa? Đó là một vấn đề đáng quan tâm, đặc biệt là các tầng lớp nhân dân có mức sống còn thấp nhưng lại chính là những tầng lớp rất "nhạy cảm" với những biến động của thị trường bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống thường ngày của họ.
Chưa biết tình hình năm nay thế nào nhưng nếu nghe đến việc tăng giá bất cứ cái gì chắc hẳn họ sẽ không khỏi giật mình. Nguyên nhân đơn giản bởi ngay việc trả một lượng tiền điện sinh hoạt hàng tháng cũng đã cần phải tính toán bởi nó chiếm một khoản thu nhập nhất định của họ. Đấy là chưa kể hàng loạt các mặt hàng khác sẽ tăng giá và đời sống của họ sẽ càng vất vả, khó khăn hơn.
Một ví dụ nữa đó là các sinh viên ở trọ, hiện nay tại Hà Nội, sinh viên ở trọ đã phải trả tiền điện với mức giá 2.500đ/1 số điện. Nếu tăng giá điện, các chủ nhà trọ sẽ còn thu của sinh viên với mức giá như thế nào. Hơn nữa, cùng với tăng giá điện, các mặt hàng tiêu dùng cũng sẽ theo đó tăng lên càng làm cho đời sống vốn đắt đỏ nơi thị thành trở nên khó khăn hơn đặc biệt đối với một bộ phận không nhỏ sinh viên từ nông thôn. Còn không ít ví dụ khác nhưng đó là 2 ví dụ dễ thấy nhất"
Bắt đầu từ tháng 7/2011, thị trường phát điện cạnh tranh sẽ chính thức được vận hành thí điểm, mở đầu cho việc tiến tới thị trường điện cạnh tranh hoàn chỉnh vào năm 2022.
Kỳ vọng của người tiêu dùng là thông qua cạnh tranh, giá điện và chất lượng phục vụ sẽ theo hướng có lợi cho khách hàng. Còn với nhà đầu tư, việc tiến hành theo cơ chế thị trường, có sự cạnh tranh bình đẳng cũng là cơ hội cho họ “chen chân” vào lĩnh vực vốn từ trước tới nay vẫn được cho là độc quyền của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).
Trước đây, không phải tự nhiên mà ngành điện được xem là độc quyền “tự nhiên”. Nó độc quyền “tự nhiên” bởi ôm cả ba khâu phát điện, truyền tải và phân phối cùng ở trong một công ty mẹ là EVN. Tuy nhiên, đến nay ngành điện đã nảy sinh nhiều bất cập, do vậy nên mới có chủ trương thị trường hóa. Để đầu tư một dự án hay một nhà máy điện lớn thường phải tốn từ 300-500 triệu USD. Với số vốn trên, ngay các doanh nghiệp tư nhân lớn của Việt Nam cũng không đủ tiền để đầu tư một dự án điện. Do đó, giả dụ chúng ta có “thả” ra từ những năm trước thì chưa chắc họ đã làm được.
Chính vì vậy, việc hô hào cạnh tranh để tiến đến cạnh tranh bán buôn, cạnh tranh bán lẻ là cả một quá trình dài. Vấn đề là làm sao để người tiêu dùng được hưởng một mức giá hợp lý, và không để một doanh nghiệp nào độc quyền thao túng thị trường, đẩy giá lên. Điều này đồng nghĩa nếu việc đầu tư vào ngành điện gặp rào cản về vốn, tức là dù có cho phép cạnh tranh thì EVN vẫn là “anh cả” với nhiều lợi thế và đặc quyền vượt trội?
Thực ra, EVN cũng đã phải tính đến việc không sớm thì muộn thị trường điện cũng phải vận hành theo cơ chế thị trường. Chính vì vậy, họ cũng đã thành lập ban thị trường điện từ mấy năm nay để lo chuyện này. Bên cạnh đó, chúng ta còn có Cục Điều tiết điện lực nữa nên rõ ràng mục tiêu xóa độc quyền là khá rõ ràng.
Hiện tại chúng ta đang bắt đầu triển khai giai đoạn cạnh tranh phát điện, đồng thời cũng đã tách độc lập khối truyền tải và cho thành lập các tổng công ty phân phối, tổng công ty phát điện…
Đặc biệt, Chính phủ cũng đã có chỉ đạo yêu cầu EVN phải tái cơ cấu nhằm nâng cao hiệu quả của tập đoàn này và đưa ngành điện phát triển bền vững, ổn định thì những quan ngại về hai chữ “độc quyền” sẽ theo đó mà giảm đi nhiều.
Tuy nhiên, trong việc chống độc quyền, vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Hạn chế, bất cập còn thể hiện trên hai mặt. Một mặt, một số lĩnh vực còn độc quyền, như điện, than, xuất bản sách giáo khoa,... trong đó đáng lưu ý là điện và sách giáo khoa. Điện tuy đã có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp hơn (ngoài Tổng công ty điện lực), nhưng cũng vẫn chỉ là những doanh nghiệp nhà nước và vẫn chỉ là lĩnh vực sản xuất điện. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho điện sản xuất tuy tăng với tốc độ khá, nhưng vẫn còn mất cân đối so với yêu cầu sử dụng, hiện đang là "nút cổ chai" của nền kinh tế.
Độc quyền định giá xăng dầu
Tại Việt Nam, kinh tế thị trường đã vận hành từ hơn 20 năm nay. Thế nhưng đến tận bây giờ sự độc quyền thời bao cấp trong một số lĩnh vực vẫn còn duy trì, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Luật cạnh tranh hiện nay vẫn chưa phát huy tác dụng trong việc chống độc quyền.
Hiện nay có 11 đơn vị đầu mối tham gia kinh doanh xăng dầu. Con số này ai cũng tưởng rằng nhà nước đã xóa bỏ độc quyền trong ngành xăng dầu, thực ra không phải vậy. Hơn 60% khối lượng phân phối xăng dầu nằm trong tay Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex). 10 đơn vị còn lại chia sẻ nhau “mẩu bánh” - 40% thị phần, bên nào cũng tính toán để tranh giành lợi nhuận nên khó có chuyện hợp tác với nhau để xóa bỏ độc quyền.
Một mình Petrolimex giữ 60% thị phần, nên tha hồ thao túng thị trường. Nhất là sau khi nhà nước ra nghị định 84/2009/NĐ-CP, theo đó doanh nghiệp sẽ được áp dụng giá bán mà không cần xin phép và chờ đợi phương án điều chỉnh giá, phê duyệt như trước đây. Nghĩa là các đơn vị kinh doanh xăng dầu được “chủ động giá bán từ sau 15/12/2009”. Việc tăng hay giảm giá xăng dầu trên thị trường càng phụ thuộc vào Petrolimex.
Trong mọi lĩnh vực, tình trạng độc quyền luôn gây ra những thiệt hại cho xã hội, nên cần phải được xóa bỏ. Việc xóa bỏ thế độc quyền của ngành viễn thông cách đây mấy năm đã đem lại nhiều lợi ích cụ thể mà ai cũng nhận thấy rõ. Chính vì vậy việc phá thế độc quyền của Petrolimex, không có gì khó khăn nếu Nhà nước muốn thực hiện vì lợi ích chung của toàn xã hội.
Rồi như ngành xăng dầu, khi giá xăng dầu thế giới tăng cao hơn trong nước, Nhà nước đã điều chỉnh giá lên, người dân đã thông cảm với sự khó khăn của ngành và chấp nhận mở hầu bao để mua với giá mới. Thế nhưng hiện nay khi giá thế giới đã thấp hơn trong nước từ lâu thì lại không thấy ngành này có chút ý kiến gì về việc hạ giá bán cả.
Xăng, dầu là mặt hàng có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân. Giá cả của nó ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế xã hội. Vì thế, trong suốt nhiều năm qua, nhà nước đã can thiệp trực tiếp vào quá trình hình thành giá mặt hàng này ở thị trường nội địa. Theo đó, các doanh nghiệp đầu mối được căn cứ vào giá nhập khẩu, thuế, phí, lợi nhuận để tính toán mức giá cụ thể đến tay người tiêu dùng. Và, kể từ đây, diễn biến giá xăng dầu trong nước sẽ tuân theo diễn biến chung của thế giới, chấm dứt bù lỗ. Việc can thiệp của Nhà nước sẽ hạn chế trong một số trường hợp cụ thể, cấp bách.
3. Giải pháp chống độc quyền
3.1 Những điều kiện cần thiết để chống độc quyền
Để có sự cạnh tranh hoàn hảo, nhiều quốc gia đã coi việc chống độc quyền và tạo nên cạnh tranh hoàn hảo là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nước. Để tạo nên cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh thì cần phải có những điều kiện nhất định. Đó là:
+ Điều kiện về các yếu tố pháp lý - thể chế đối với hoạt động kinh doanh Để có sự cạnh tranh trong nền kinh tế thì cần phải hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngày nay trong quá trình hội nhập ngày càng cao thì các thể chế pháp lý không chỉ do nhà nước ban hành mà nó còn được ban hành bởi các tổ chức quốc tế hoặc do một khu vực kinh tế gồm nhiều quốc gia ban hành. Yếu tố pháp lý thể chế nhân tố quan trọng trong hình thành nên môi trường kinh doanh - là đất sống của hoạt động sản xuất kinh doanh. Mỗi yếu tố pháp lý - thể chế đều tác động vào một lĩnh vực nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nó được dùng để điều chỉnh các hành vi hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các chủ thể kinh tế muốn tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nào đều phải dựa vào các thể chế - pháp lý đã được ban hành đối với lĩnh vực đó để tham gia hoạt động kinh tế. Như vậy sẽ hình thành nên một môi trường kinh doanh ổn định, khoa học. Mặc dù chỉ có định hướng trong một lĩnh vực nhất định, song trong một nền kinh tế thống nhất để tạo nên sự hoạt động đồng bộ cho guồng máy kinh tế thì các yếu tố thể chế - pháp lý này đều phải đảm bảo các điều kiện:
Thứ nhất: Đảm bảo sự đồng bộ trong toàn bộ hệ thống thuộc mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân. Như vậy mọi lĩnh vực của hoạt động sản xuất kinh doanh đều được điều chỉnh bởi các thể chế - pháp lý, điều này sẽ tạo nên tính hài hoà trong nền kinh tế. Nếu như không đảm bảo được sự đồng bộ thì trong nền kinh tế sẽ có những lĩnh vực không bị tác động của các thể chế pháp lý, việc hoạt động trong các lĩnh vực này sẽ dễ dàng, tự do hơn so với các lĩnh vực có các yếu tố pháp lý - thể chế tác động, bởi vì nó không chịu ảnh hưởng, không chịu bất kì tác động nào từ Nhà nước. Các nhà sản xuất kinh doanh sẽ từ đó sản xuất tiêu thụ sản phẩm theo ý muốn của mình. Điều này sẽ tạo nên sự lộn xộn trong nền kinh tế bởi vì mục đích sản xuất của mỗi người là khác nhau, do đó sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa các nhà sản xuất với nhau, tạo điều kiện cho độc quyền hình thành để tránh sự cạnh tranh.
Thứ hai: Các thể chế - pháp lý do Nhà nước ban hành phải phù hợp với tình hình thực tế. Để có hiệu quả cao trong việc điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra các quy định này phải rõ ràng, dễ hiểu, tránh việc hiểu theo nhiều nghĩa hướng khác nhau, điều đó sẽ dẫn đến những hậu quả trầm trọng. Việc ban hành các thể chế - pháp lý này sát với thực tế, không rõ ràng thì không những không thực hiện được mục đích mà còn gây thêm ra những hoạt động sai lệch, làm đảo lộn trật tự.
Thứ ba: Hiệu lực pháp luật của các quy định pháp lý - thể chế phải thống nhất trong việc điều chỉnh các hành vi kinh tế, không được có sự phân biệt đối xử khi thực hiện các quy định. Việc này sẽ tạo nên tính công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu lực của các quy định.
+ Điều kiện trong chỉ đạo, điều hành nền kinh tế quốc dân
Các tổ chức quốc tế, các hiệp hội cũng như nhà nước khi ra các quy định pháp lý - thể chế đều phải dựa vào điều kiện và tình hình thực tế, điều này đảm bảo tính sát thực của các quy định. Nhà nước dựa vào các quy định để điều hành quản lý nền kinh tế trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Vai trò của quản lý, chỉ đạo giám sát thực hiện các quy định pháp lý là hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho việc các quy định pháp lý - thể chế được thực hiện. Do vai trò hết sức quan trọng đó mà việc quản lý kinh tế của nhà nước đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước phải có đủ trình độ chuyên môn, năng lực trong quản lý kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường với môi trường cạnh tranh gay gắt. Việc các công ty hoặc các tổ chức độc quyền hình thành là điều dễ dàng. Do vậy để chống độc quyền và tạo nên sự cạnh tranh thì với bộ máy quản lý kinh tế non kém thì nhà nước sẽ không thể quản lý được nền kinh tế, các bản qui định không thể đưa vào áp dụng trong thực tế, hoặc nếu có đưa vào áp dụng được thì khó lòng mà giám sát, chỉ đạo việc thực hiện. Điều này sẽ gây ra việc làm thất thoát, lãng phí tài sản quốc gia, tình hình kinh doanh bất ổn định, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền hình thành. Thực tế ở Việt Nam cho thấy: trong xây dựng cơ bản việc đầu tư dàn trải không có trọng điểm gây lãng phí vốn đầu tư. Trong các dự án, công trình xây dựng việc thất thoát vốn là rất lớn do việc câu kết thông đồng với nhau giữa các chủ đầu tư và xây dựng. Tất cả các điều trên phần lớn là do bộ máy quản lý còn non kém. Chưa đưa ra được những quy định pháp lý - thể chế để điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Việc các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thuốc đầu cơ, thông đồng với nhau tạo ra sự khan hiếm giả tạo để đẩy giá thuốc lên cao. Điều này cũng tương tự đối với thị trường bất động sản.
Ngày nay quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới nên việc nâng cao năng lực quản lý kinh tế là điều kiện hết sức quan trọng để tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền.
+ Điều kiện về trình độ văn hoá, đạo đức xã hội của nhân dân và các chủ thể kinh doanh
Các chủ thể kinh tế là đối tượng tác động của các văn bản pháp lý - thể chế. Nhà nước ban hành và giám sát, chỉ đạo các chủ thể kinh tế thi hanh các qui định của văn bản pháp lý - thể chế. Để các quy định được thực hiện tốt thì ngoài vai trò quản lý tốt của Nhà nước còn có hành vi thực hiện của các chủ kinh doanh và nhân dân. Ý thức thực hiện các quy định văn bản của các chủ thể khi tham gia hoạt động kinh tế là điều kiện đủ để tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền trong kinh doanh. Năng lực của các cơ quan quản lý là có hạn cho nên trong quá trình quản lý không thể khong mắc những sai lầm, thiếu sót. Khi đó sẽ là điều kiện tốt cho những tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, độc quyền lợi dụng sai sót của cơ quan quản lý để hoạt động. Trong những tình huống như vậy để tạo nên cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền rất cần có tinh thần, ý thức của các chủ thể kinh doanh cũng như của nhân dân. Tinh thần trách nhiệm, ý thức tốt của các chủ thể kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan quản lý.
3.2 Tính tất yếu phải chống độc quyền
“Lợi nhuận trên hết” đó là mục tiêu của bất kỳ nhà tư bản nào. Để có được lợi nhuận tối đa, các nhà tư bản đều xác định - điều quan trọng nhất trong số những điều quan trọng là giành “độc quyền phân phối” để đáp ứng như cầu thị trường thu về lợi nhuận cao nhất.
Mọi người đều hiểu được nguy cơ kìm hãm sự phát triển của xã hội do nạn độc quyền kinh doanh gây ra, nên từ giữa thế kỷ 20 nhiều đạo luật chống độc quyền (hoặc liên kết tạo độc quyền) đã được áp dụng ở nhiều nước.
Như vậy có thể thấy rằng nguồn gốc của sự kém phát triển, sức cạnh tranh thấp chính là sự độc quyền. Phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể có tự mình đứng vững ngay trên sân nhà không sợ kẻ khác phá giá, hãy để cho thị trường vận động theo đúng qui luật của nó, phải tạo ra được sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế.
Trong nền kinh tế tồn tại cạnh tranh, các chủ thể kinh tế sẽ ganh đua, đấu tranh gay gắt để giành giật lấy những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế. Do đó mà cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường thể hiện qua một số chức năng sau:
Thứ nhất: Cạnh tranh hình thành nên giá thị trường của hàng hoá và tỉ suất lợi nhuận bình quân là điều quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Với giá trị thị trường của hàng hoá cho biết doanh nghiệp nào làm ăn có lãi hoặc không có hiệu quả để có những thay đổi trong sản xuất để nâng cao năng suất lao động.
Thứ hai: Cạnh tranh giúp phân bổ lại nguồn lực của xã hội một cách hiệu quả nhất. Điều đó giúp cho việc sử dụng các nguồn nguyên vật liệu của xã hội có hiệu quả hơn, đem lại lợi ích cho xã hội cao hơn.
Thứ ba: Cạnh tranh điều tiết cung, cầu hàng hoá trên thị trường, kích thích thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và tăng vốn đầu tư vào sản xuất trên thị trường.
Thứ tư: Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường không chỉ có cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất với nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa những người lao động với nhau, để có được một nơi làm việc tốt, công việc phù hợp. Điều đó khiến cho mọi người trong xã hội luôn luôn phải nâng cao trình độ tay nghề của mình. Với ý nghĩa đó cạnh tranh làm cho con người ta hoàn thiện hơn, cạnh tranh đóng góp một phần trong việc hình thành nên con người mới trong xã hội mới thông minh, năng động và sáng tạo.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau tất yếu sẽ dẫn đến có kẻ thắng và người thua. Kẻ mạnh càng ngày càng mạnh lên nhờ làm ăn hiệu quả. Kẻ yếu thì bị phá sản. Sự phá sản của các doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực. Bởi vì có như vậy thì các nguồn lực của xã hội mới được chuyển sang cho những nơi làm ăn hiệu quả. Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ dẫn đến sự lãng phí các nguồn lực xã hội. Do đó muốn có hiệu quả sản xuất của xã hội cao buộc chúng ta phải chấp nhận sự phá sản của những doanh nghiệp yếu kém. Sự phá sản này không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà đó là sự huỷ diệt sáng tạo.
Nếu chống độc quyền tốt, cổ phần hóa được đẩy mạnh, thì cũng tạo tiền đề cho việc xóa bỏ cơ quan chủ quản, xóa bỏ được sự phân biệt đối xử hoặc lạm dụng độc quyền nhà nước, vừa đem lại sự cạnh tranh công bằng cho doanh nghiệp, lợi ích cho người tiêu dùng, vừa tạo điều kiện để hạn chế dần đi đến xóa bỏ cơ chế xin - cho là cơ chế làm phát sinh tham nhũng hối lộ hiện nay.
3.3 Các biện pháp chống độc quyền
Ta thấy tình trạng độc quyền gây tổn thất rất nhiều cho xã hội, do đó chính phủ cần can thiệp vào thị trường để làm giảm bớt những thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội.
+ Thi hành các chính sách hành chính nhà nước
Chính phủ ban hành các văn bản pháp luật nhằm ngăn ngừa một số hành vi xấu như các doanh nghiệp cấu kết với nhau để nâng giá hay hạn chế một số cơ cấu thị trường nhất định có hại đến nền kinh tế của một đất nước. Các nước có thị trường phát triển thường dùng biện pháp này để điều tiết những doanh nghiệp lớn, chiếm thị phần rất cao trong khoảng thời gian dài. Phán quyết của tòa án Mỹ năm 1911 buộc nhóm công ty Standard Oil phải tách ra thành 34 công ty độc lập là ví dụ điển hình.
+ Khuyến khích các công ty phát triển nhờ những chính sách của chính phủ
Chính phủ thi hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp phát triể
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kinh Tế Vĩ Mô.docx