VI. VẤN ĐỀ VỊ TRÍ CỦA BỜ MIẾNG TRÁM VÀ MÃO
Theo những nguyên tắc tạo xoang của Black, người ta khuyên rằng bờ cổ răng của miếng trám và mão nên được đặt dưới nướu nghĩa là về phía chóp so với bờ nướu và mặt phẳng của nướu kẽ răng để phòng ngừa sâu răng và vì lý do (thẩm mỹ).
Lời khuyên này dựa trên ý tưởng “mở rộng phòng ngừa”, có nghĩa là đặt bờ của miếng trám hay mão trong “vùng được bảo vệ không sâu răng”, ở đó cổ răng được bao phủ bởi mô mềm. Việc này có chủ ý là ngăn ngừa sâu răng thứ phát có thể dễ dàng xảy ra ở vùng có khe hở giữa bờ miếng trám hay mão và bề mặt răng.
Sự thật là ngay cả khi có bờ tối ưu vẫn có những vi kẽ giữa vật liệu phục hồi và đường hoàn tất của xoang. Khe này vào khoảng 70mm ở inlay vàng đúc, 20- 520mm ở miếng trám amalgam, 20-40mm ở miếng trám silicate và 200-500mm đối với mão. Vi kẽ xung quanh phục hồi gắn bằng xi măng ban đầu được lấp đầy, nhưng sau đó xi măng sẽ bị hoà tan và phân rã, để lại những khoang chứa vi khuẩn và tích tụ mảng bám. Do đó lời khuyên đặt bờ cổ răng dưới nướu là đúng do vật liệu và kỹ thuật chưa đạt vào thời kỳ đó. Tuy nhiên trong những thập kỷ qua, một loạt nghiên cứu lâm sàng-dịch tễ, mô học và thực nghiệm đã được thực hiện, để giải đáp câu hỏi là điều trị phục hồi nên dành ưu tiên cho vật liệu-kỹ thuật và việc phòng ngừa sâu răng hay nên quan tâm hơn đến việc tránh những tác dụng lâu dài trên tình trạng mô nha chu?
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 15 trang
15 trang | 
Chia sẻ: Chử Khang | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 312 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Mô nha chu - Lưu ý lâm sàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ần hay toàn bộ dây chằng nha 
chu thì trong quá trình lành thương, xương mới tạo sẽ dính với chân răng 
gây ra cứng khớp; sau vài tháng, chân răng tái cấy ghép sẽ bị tiêu và thân 
răng rơi ra (Hamner, J.E., 1970; Serman, P., 1968; Andreasen, J.O., 1981). 
Do đó phần dây chằng nha chu còn lại trên răng và trên thành xương ổ 
(đặc biệt là những tế bào có chức năng tái tạo), là cực kỳ quan trọng cho 
thành công của tái cấy ghép. 
- Bình thường sau khi một răng bị nhổ ra, phần dây chằng nha chu còn bám 
vào thành xương ổ bị tiêu đi trước khi bắt đầu tạo xương trong hốc răng 
(Huebsch, R., 1952; Radden, H., 1959). Do vậy, phần dây chằng nha chu 
trên răng rơi ra do chấn thương phải được giữ lại và còn sống để được tái 
cấy ghép. Điều này có nghĩa là không được để răng khô khi nó đang nằm 
ngoài xương ổ, không tạo lực gây chấn thương trên chân răng và phải tái 
cấy ghép càng sớm càng tốt. 
- Khoảng thời gian mà dây chằng nha chu và tế bào còn sót lại của nó có thể 
sống được trong môi trường ẩm ở ngoài xương ổ thường không lâu hơn 30 
phút. Răng được tái cấy ghép sau quá 30 phút sẽ có tỉ lệ thành công thấp 
hơn, tỷ lệ với thời gian răng ở ngoài xương ổ. 
- Các tế bào của tủy bị tự hủy chỉ trong một thời gian rất ngắn sau khi răng 
rời khỏi xương ổ. Chỉ những răng chưa trưởng thành được tái cấy ghép rất 
sớm sau khi bị nhổ ra hay rơi ra thì mô tủy đã bị tự huỷ mới được thay thế 
bằng mô hạt, việc này diễn ra trong vài tuần. Ngoài mô hạt, sẽ có những tế 
bào mới thay thế nguyên bào ngà và tạo ra ngà thứ cấp không điển hình 
(Ohmann, A., 1965). 
2.2. Cấy chuyển răng 
Cấy chuyển một răng là răng (hoặc mầm răng) được đặt vào trong ổ xương 
của một răng khác hay đặt vào một hốc nhân tạo. 
Cấy chuyển răng có thể là tự thân hay đồng loại: 
- Cấy chuyển tự thân là khi răng (hay mầm răng) được cấy chuyển là của 
cùng một người. Ví dụ cấy chuyển tự thân có thể thành công khi một răng 
cối lớn thứ ba được chuyển vào xương ổ của một răng cối lớn thứ nhất đã 
nhổ trước khi chân răng của răng cối lớn thứ ba tạo thành hoàn toàn nhưng 
sau khi đã tạo vùng chẽ. Chiều gần-xa của thân răng cối lớn thứ ba phải 
tương ứng với răng cối lớn thứ nhất và răng cấy chuyển không được có tiếp 
xúc nhai trong nhiều tuần 
- Trong cấy chuyển đồng loại, răng hay mầm răng của một người được 
chuyển sang một người khác, và do đó không có cùng kiểu gen. Việc cấy 
chuyển đồng loại sẽ khởi phát phản ứng bảo vệ miễn dịch tế bào vì răng và 
các tế bào bám trên răng được xem là một vật thể lạ. 
III. ĐIỀU TRỊ NỘI NHA VÀ MÔ NHA CHU VÙNG CHÓP 
 4 
Các thao tác điều trị nội nha (lấy tủy, mở rộng ống tủy bằng dụng cụ, trám bít 
ống tủy) thường gây chấn thương cho mô nha chu ở vùng chóp. 
- Việc lấy tủy răng sống có thể gây chảy máu và viêm cấp ở dây chằng nha 
chu vùng chóp và khoảng tủy xương kế cận, làm phá hủy một phần dây 
chằng nha chu và tiêu xương ổ; sau vài tháng mô nha chu sẽ lành mà không 
mất cấu trúc hay chức năng (Seltzer, S., 1971). 
- Các thao tác trong trám bít ống tủy có thể gây tổn thương bệnh lý vĩnh viễn 
cho mô nha chu ở chóp nếu dụng cụ qua lỗ chóp, gây chấn thương cho dây 
chằng và mở đường cho vi khuẩn. Loại chấn thương này thường dẫn tới 
viêm quanh chóp mạn, tạo thành u hạt quanh chóp và có thể phát triển thành 
nang quanh chóp. 
- Nếu thực hiện lấy tủy chân hay tủy buồng trên một răng chưa trưởng thành 
có chân răng chưa tạo thành hoàn toàn, và buồng tủy được trám bằng 
hydroxide calcium, thì vi khuẩn bị giết chết và giảm được viêm quanh chóp. 
Việc này cũng khởi phát tạo thành một hàng rào mô cứng bằng xê măng có 
tế bào hay ngà răng, có thể bít lỗ chóp. Kỹ thuật này được gọi là kỹ thuật 
đóng chóp răng. 
IV. VẤN ĐỀ THĂM DÒ ĐỘ SÂU CỦA KHE NƯỚU VÀ TÚI NƯỚU 
Một khe nướu thật sự không thấy được trong khám lâm sàng thông thường. 
Độ sâu và hình dạng của nó không thể đo chính xác bằng cây thăm dò nha chu. 
Khoảng cách mà một cây thăm dò có thể đưa vào giữa nướu lành mạnh và bề mặt 
răng không phải là độ sâu thật sự của khe nướu. Đáy khe nướu và biểu mô kết nối 
bình thường không có sự đề kháng cao với việc thăm dò. Cây thăm dò có thể đưa 
vào biểu mô kết nối với những độ sâu khác nhau, làm rách biểu mô kết nối và tách 
nướu viền ra khỏi răng mà không gây chảy máu. Do biểu mô này có tốc độ tái tạo 
cao nên chỗ rách sẽ lành trong 5-7 ngày (h. 9.1). Màng đáy bên trong và 1-2 lớp tế 
bào sát màng đáy vẫn bám vào bề mặt răng. Cây thăm dò sẽ gặp sự cản ở nơi mà 
biểu mô kết nối trở nên rất mỏng và kế cận với các sợi collagen dày đặc, hay ở nơi 
mà đầu cây thăm dò chạm vào bờ phía chóp của biểu mô kết nối và bị chận lại bởi 
các sợi đi vào xê măng ở vùng cổ răng (h. 9.1). 
Khoảng cách mà cây thăm dò có thể đi vào mô mà không dùng lực mạnh tùy 
thuộc vào các yếu tố sau (Listgarten, M.A., 1972,1980): 
- Hình dạng và đường kính của cây thăm dò, 
- Mức độ viêm mãn tính ở mô liên kết lân cận biểu mô kết nối, 
- Mật độ của các bó sợi dưới biểu mô, 
- Độ dày của biểu mô kết nối, 
- Vị trí tương đối của bờ phía chóp của biểu mô kết nối (về phía thân 
răng hay ngang mức với đường nối men xê măng), 
- Độ cong của bề mặt răng ở vùng cổ răng. 
Lực nhẹ trong thăm dò tương đương với áp suất khoảng 2x106 dyn/cm2 ở đầu 
cây thăm dò. Lực dùng trên lâm sàng để thăm dò nhẹ nhàng thay đổi từ 0,2-
0,4N (1 Newton= khoảng 100 gram khối lượng hay 3,52 oz). Trong thực 
nghiệm lực thăm dò trên lâm sàng thuờng được chuẩn hóa ở 0,25-0,5N. Do đó 
khoảng cách trung bình mà một đầu thăm dò dày 0,4-0,5mm có thể đưa vào 
 5 
giữa nướu lành mạnh và bề mặt răng bằng với khoảng cách giữa bờ nướu và 
đường nối men xê măng (1,5-2mm) mặc dù điều này không phải bao giờ cũng 
đúng cho mọi lần đo. 
Khi thăm dò nướu viền lành mạnh xung quanh một răng đã mọc hoàn toàn và 
có tiếp xúc cắn khớp, đầu của cây thăm dò không phải lúc nào cũng chạm đến đầu 
phía chóp của biểu mô kết nối. Nếu có viêm nướu thì cây thăm dò sẽ đi qua biểu 
mô kết nối hay biểu mô của túi bất kể có túi nướu hay không (h. 9.2; h. 9.3), và đi 
vào trong mô liên kết viêm, mô này mềm và cây thăm dò dễ đi vào do thành phần 
collagen thấp. Cây thăm dò sẽ bị chặn lại bởi các bó sợi collagen dày. Trong 
trường hợp này, khoảng cách đo được từ bờ nướu có thể bằng với khi nướu lành 
mạnh, hoặc lớn hơn 1-2mm. Nếu có túi nướu và nếu vùng mô liên kết viêm khá 
rộng thì sẽ chảy máu nhiều hơn là một rãnh có vùng viêm nhỏ vì thăm dò làm 
chạm đến nhiều mạch máu hơn (h. 9.2; h. 9.3). Do đó, thăm dò không cho những 
thông tin trực tiếp về vùng thăm dò là một khe nướu hay một túi nướu nhỏ. 
Thường, một túi nhỏ hay bị đánh giá quá mức. 
Khi thăm dò một túi nha chu sâu (h.9. 4), cây thăm dò đi qua biểu mô túi vào 
mô liên kết viêm và sẽ tiếp tục đi về phía chóp cho đến khi chạm phải đỉnh xương 
ổ hay đáy ổ xương bị tiêu, về phía chóp so với biểu mô kết nối và đáy túi. Sau đó 
có chảy máu nhiều. Độ sâu túi càng tăng thì càng ít bị xu hướng đánh giá quá mức 
độ sâu thật. 
Luôn nhớ phải phân biệt giữa độ sâu thăm dò và độ sâu thật sự của khe hay 
túi vì ở đáy túi thật sự có mô liên kết mềm, viêm, dễ bị chọc thủng với lực nhỏ. Do 
đó, nếu sau khi điều trị tại chỗ một túi nha chu, tình trạng viêm giảm hay hết hoàn 
toàn và có tạo collagen mới, làm cho mô đề kháng hơn với sự thăm dò, thì độ sâu 
khi thăm dò sẽ giảm đi. Tuy nhiên không nên cho rằng kết quả này là dấu hiệu của 
“tái bám dính” hay “tái tạo mô nha chu”. 
Những thuật ngữ gây nhầm lẫn “rãnh (khe) nướu lâm sàng” và “độ sâu túi” 
đã được sử dụng, và vẫn còn được sử dụng ở một mức độ nào đó, để mô tả 
khoảng cách mà một cây thăm dò có thể đi vào nướu viền bình thường và 
vào mô nha chu viêm sâu hơn. Tuy nhiên, không có minh chứng về mô học 
cho những thuật ngữ này. Do đó, người ta nên luôn luôn nói về “độ sâu 
thăm dò” và giải thích mỗi số đo trong khuôn khổ bệnh lý thấy được trên 
lâm sàng và X quang. Điều quan trọng là phải biết rằng xung quanh những 
răng đang mọc thay thế có thể đo được độ sâu thăm dò từ 4 đến 13 mm, 
điều này là sinh lý hơn là bệnh lý. Độ sâu này sẽ giảm khi răng mọc nhờ sự 
bám dính của sợi collagen ở đường nối men xê măng sau này đang di 
chuyển liên tục từ phía chóp về phía nhai. 
 Là một công cụ chẩn đoán, độ sâu thăm dò chỉ cho thấy mức độ đi về phía 
chóp xuyên qua mô của cây thăm dò, mà không khẳng định sự hiện diện, độ sâu 
hay hình dạng của một túi. Những yếu tố sau này phụ thuộc chủ yếu vào hình dạng 
và kích thước của vách xương giữa răng hay khoảng cách giữa các chân răng của 
các răng kế cận nhau. Thậm chí việc thăm dò có thể đưa đến những hậu quả xa 
hơn những chấn thương tại chỗ. Ví dụ, cây thăm dò được rút ra từ một túi nha chu 
sâu đã bị nhiễm nhiều vi khuẩn (cầu khuẩn, xoắn khuẩn), những vi khuẩn này có 
thể được truyền đến một túi kế cận ít sâu hơn, đến những túi nông, hay thậm chí 
đến những khe nướu lành mạnh khi thăm dò với cùng một dụng cụ. Tương tự, 
 6 
người ta thấy khi thăm dò rãnh mặt nhai của các răng bằng cùng một thám trâm, 
Streptococcus mutans có thể được truyền từ một răng này sang răng khác. 
V. TÁC DỤNG PHỤ CỦA MỘT SỐ ĐIỀU TRỊ TRÊN MẶT RĂNG, DÂY 
CHẰNG NHA CHU VÀ XƯƠNG Ổ 
Trong điều trị nha chu và điều trị tiền phục hình, người ta đã sử dụng một số 
phương pháp “mới” có những tác dụng phụ, một số tác dụng phụ thuộc loại rất 
không mong muốn và một số là “không thể chấp nhận được”. Trong những 
phương pháp này có việc lấy mảng bám ra khỏi răng bằng dụng cụ thổi hơi nén, 
gây tê trong dây chằng và giữ lại những chân răng sống hay chết dưới niêm mạc để 
ổn định xương ổ 
5.1. “Đánh bóng bằng hơi” có nghĩa là làm sạch những bề mặt răng bị vết 
dính bằng luồng bột mịn, thực hiện bằng cách đẩy bột sodium bicarbonate vào 
răng từ một khoảng cách gần (3-5mm) bằng áp lực hơi và nước. Nguyên tắc của 
phương pháp này là một “máy phun cát ướt”. Anh hưởng trên mô cứng của răng 
thay đổi tùy theo mật độ và độ cứng của chúng: 
- Bề mặt men nguyên vẹn ít khi bị thay đổi, ngay cả khi tiếp xúc lâu dài. Tuy 
nhiên ở những nơi có rãnh, vết nứt, và những vùng bị mài mòn hay ăn mòn, 
lăng trụ men tiếp xúc dễ bị ăn mòn và gồ ghề (cần chú ý là bề mặt men toàn vẹn 
không thường hiện diện trên lâm sàng!). 
- Bề mặt xê măng bị mài mòn rất nhanh: Trong 30 giây, xê măng có thể bị 
lấy đi đến 0,2mm, hậu quả là lộ ngà và ngà cũng rất dễ bị mài mòn. 
- Mô mềm như nướu bị ăn mòn hay thủng chỉ trong vài giây. 
Do đó thổi bột đánh bóng vào bề mặt chân răng bị lộ luôn luôn là chống chỉ 
định. Những thay đổi gây ra do làm sạch răng bằng dụng cụ siêu âm thì ít 
nghiêm trọng hơn. 
5.2. Gây tê trong dây chằng cần áp lực bơm tiêm rất cao nhờ vào một kim nhỏ và 
một ống chích áp lực đặc biệt. Mặc dù chỉ có thể tiêm một lượng nhỏ dịch (0,2-
0,4mm) vào dây chằng nha chu, nhưng dịch không phân bố đều trên toàn bộ 
khoảng dây chằng nha chu mà đi trực tiếp vào khoảng tủy xương kế cận vùng 
tiêm qua phiến lỗ sàng. Thuốc tê không đến được vùng chóp, nơi có hầu hết các 
thụ cảm về đau và áp lực, trừ khi nó được phân phối qua các mạch máu. Đồng 
thời, vùng dây chằng nha chu bị chấn thương, có nghĩa là ngoài chấn thương do 
đâm kim, có hiện tượng rách, đứt bám dính các sợi, di chuyển mô và các khoảng 
bị lấp đầy dịch, nhất là sau khi tiêm nhiều mũi. Dựa trên những điều này, nên xếp 
việc tiêm trong dây chằng vào loại gây tê trong xương hơn là gây tê dây chằng 
nha chu. 
Những thay đổi do chấn thương sau một mũi tiêm sẽ lành nhanh chóng và tương 
đối không có hậu quả nếu sau đó răng được nhổ. Tuy nhiên tiêm lặp lại nhiều lần 
trong điều trị nha chu hay phục hồi có thể có thể để lại hậu quả lâu dài : tiêu chân 
răng hoặc thay đổi ở xương ổ. 
 7 
Xương ổ là cấu trúc phụ thuộc răng. Do đó sau khi nhổ tất cả các răng ở người 
lớn tuổi, tình trạng tiêu và phẳng dần mào xương ổ diễn ra với tốc độ khác nhau, 
đặc biệt trong 5 năm đầu sau khi nhổ. 
Tiêu xương ổ ở hàm dưới thường nhanh gấp 4 lần hàm trên, và thường ở nữ 
nhiều hơn ở nam. Chiều cao xương ổ mất đi trung bình một năm là 0,1mm ở 
hàm trên và 0,4mm ở vùng phía trước hàm dưới. 
Mất chiều cao xương ổ, đặc biệt ở hàm dưới, gây ra những khó khăn đáng kể về 
mặt phục hình. 
VI. VẤN ĐỀ VỊ TRÍ CỦA BỜ MIẾNG TRÁM VÀ MÃO 
Theo những nguyên tắc tạo xoang của Black, người ta khuyên rằng bờ cổ 
răng của miếng trám và mão nên được đặt dưới nướu nghĩa là về phía chóp so với 
bờ nướu và mặt phẳng của nướu kẽ răng để phòng ngừa sâu răng và vì lý do(thẩm 
mỹ. 
Lời khuyên này dựa trên ý tưởng “mở rộng phòng ngừa”, có nghĩa là đặt bờ của 
miếng trám hay mão trong “vùng được bảo vệ không sâu răng”, ở đó cổ răng 
được bao phủ bởi mô mềm. Việc này có chủ ý là ngăn ngừa sâu răng thứ phát có 
thể dễ dàng xảy ra ở vùng có khe hở giữa bờ miếng trám hay mão và bề mặt răng. 
Sự thật là ngay cả khi có bờ tối ưu vẫn có những vi kẽ giữa vật liệu phục hồi và 
đường hoàn tất của xoang. Khe này vào khoảng 70µm ở inlay vàng đúc, 20-
520µm ở miếng trám amalgam, 20-40µm ở miếng trám silicate và 200-500µm 
đối với mão. Vi kẽ xung quanh phục hồi gắn bằng xi măng ban đầu được lấp đầy, 
nhưng sau đó xi măng sẽ bị hoà tan và phân rã, để lại những khoang chứa vi 
khuẩn và tích tụ mảng bám. Do đó lời khuyên đặt bờ cổ răng dưới nướu là đúng 
do vật liệu và kỹ thuật chưa đạt vào thời kỳ đó. 
Tuy nhiên trong những thập kỷ qua, một loạt nghiên cứu lâm sàng-dịch tễ, mô 
học và thực nghiệm đã được thực hiện, để giải đáp câu hỏi là điều trị phục hồi nên 
dành ưu tiên cho vật liệu-kỹ thuật và việc phòng ngừa sâu răng hay nên quan tâm 
hơn đến việc tránh những tác dụng lâu dài trên tình trạng mô nha chu? 
 Bờ dưới nướu của một miếng trám hay mão, cho dù có hình dạng tối ưu về 
mặt kỹ thuật hay dư thừa và nằm ngoài bề mặt răng, dẫn đến tình trạng viêm mãn 
tính của mô nướu. Nguyên nhân của mức độ viêm nướu có thể do một phần là sự 
kích thích của vật liệu, nhưng chủ yếu là do mảng bám vi khuẩn có điều kiện thuận 
lợi để tích tụ trên bề mặt nhám của phục hồi ở vùng cổ răng. Khó đánh bóng được 
những bề mặt dưới nướu của phục hồi. (Tất cả những thử nghiệm cố gắng đánh 
bóng dưới nướu in vivo đều đưa đến kết quả là gây chấn thương mô nướu). Bờ 
nướu của phục hồi dư, không khít sát có ảnh hưởng lâu dài, gây phá hủy cấu trúc 
nâng đỡ răng do phản ứng viêm. Vì thế, Loe (1968) và Waerhaug (1969) khuyên 
nên đặt bờ của miếng trám hay mão ở trên bờ nướu (về phía nhai hơn). Ngày nay 
lời khuyên này được hưởng ứng rộng rãi. 
VII. VẤN ĐỀ MỞ RỘNG PHÒNG NGỪA 
Nguyên tắc sửa soạn xoang theo Black tập trung vào yêu cầu “mở rộng phòng 
ngừa”. Mở rộng phòng ngừa có nghĩa là xoang được sửa soạn nhiều hơn vào mô 
cứng lành mạnh của răng để tạo ra một giới hạn của lỗ trám nằm trong vùng được 
 8 
gọi là “miễn dịch với sâu răng”. Vùng miễn dịch với sâu răng gồm phần cổ răng 
được nướu bao phủ ở mặt ngoài, mặt trong và kẽ răng. 
Black, G.V. (1914) tin rằng giữa nướu và men răng ở cổ răng có một khoảng hẹp 
đi đến đường nối men xê măng, và trong nướu có một cấu trúc tiết: “cơ quan 
nướu”, cơ
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bai_giang_mo_nha_chu_luu_y_lam_sang.pdf bai_giang_mo_nha_chu_luu_y_lam_sang.pdf