CPU truy cập vào từng vị trí nhớ
một cách trực tiếp bằng cách xác
định địa chỉ rồi cho hoạt động một
mạch điện tử để dẫn đến địa chỉ đó.CPU có thể ghi và đọc dữ liệu trong
RAM. Hầu hết các chương trình đều
dành riêng một phần RAM để làm khu
vực nhớ tạm thời các dữ liệu của cho
người dùng.RAM bao gồm các mạch nhớ bán
dẫn dễ thay đổi, nó không giữ lại
được nội dung khi tắt điện máy
tính. RAM thường được gọi là bộ
nhớ đọc/ghi để phân biệt với bộ
nhớ chỉ đọc (ROM) - một bộ phận
khác của bộ nhớ sơ cấp trong
máy tính.ROM (Read Only Memory) bộ nhớ chỉ
đọc ra. Một phần của bộ lưu trữ sơ
cấp trong máy tính, không bị mất nội
dung khi tắt điện máy tính. ROM
chứa các chương trình hệ thống cần
thiết mà cả người sử dung lẫn máy
tính đều không thể xoá.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 145 trang
145 trang | 
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 619 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Nhập môn tin học - Chương 2: Tổng quan về công nghệ thông tin - Lê Văn Năm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính toán điện tử số.
+ Thế hệ thứ nhất (1951-1959)
Đặc trưng: Bóng chân không là linh kiện 
logic chính. Bìa đục lỗ là cách nhập liệu 
và lưu trữ ngoài. Trống từ quay làm bộ 
nhớ trong chứa dữ liệu và chương trình. 
Chương trình được viết trong ngôn ngữ 
máy, Assembly và yêu cầu có chương 
trình dịch
+ Thế hệ thứ hai (1959-1963).
Đặc trưng: Transistor là linh kiện 
chính. Băng từ và đĩa từ bắt đầu 
thay thế bìa đục lỗ như thiết bị nhớ 
ngoài. Điểm phân cực từ tính để ghi 
dữ liệu 0/1 trở thành công nghệ 
chính của bộ nhớ trong. Sử dụng 
ngôn ngữ lập trình bậc cao như 
Fortran, Cobol.
+ Thế hệ thứ 3 (1964-1979).
Đặc trưng: Sử dụng mạch tích hợp -
IC (integrated circuits). Băng từ và đĩa 
từ thay thế hoàn toàn bìa đục lỗ như thiết 
bị nhớ ngoài. Bộ nhớ trong bằng các điểm 
nhiễm từ bắt đầu có dạng mới MOS 
(Metal Oxide Semiconductor) như một vi 
mạch tích hợp. Hệ điều hành là những 
ngôn ngữ lập trình phát triển như BASIC 
(sản phẩm đầu tay của Bill Gates và 
Microsoft vào năm 1975).
+ Thế hệ thứ tư (1979- nay)
Đặc trưng: Sử dụng các vi mạch 
tích hợp rất lớn (Large- Scale 
and Very Large-Scale 
Integrated Circuits - LSI và 
VLSIC). Bộ vi xử lý chứa cả bộ 
nhớ, mạch logic, mạch điều 
khiển trên cùng một con chip. 
Điều đó tạo điều kiện ra đời các máy 
tính cá nhân (PC) như APPLE II năm 
1977, giá 1195 USD, IBM PC năm 
1981 Khởi đầu hệ điều hành MS DOS 
và các ngôn ngữ lập trình thế hệ 4 như 
Visicalc, Lotus 1-2-3, Dbase, MS 
Word, Giao diện đồ họa (GUI) cho các 
máy PC ra đời đầu những năm 1980. 
MS Windows khởi đầu năm 1983 
mạnh mẽ từ những năm 1990.
2.1. 3 Xu hướng phát triển CNTT
a. Nhu cầu đa dạng hoá thông tin
Trước đây khoảng 15 năm người 
ta mới chỉ quan tâm tới xử lý số 
cho các thông tin chữ và số vì khả 
năng các thiết bị tin học mới chỉ 
xử lý được các loại thông tin này. 
Nhu cầu đã đòi hỏi con người phải 
xử lý thông tin đa dạng hơn như 
thông tin đồ hoạ, hình ảnh động, 
âm thanh. Đến nay, các thể loại 
thông tin mà con người có thể 
cảm nhận được đều đã xử lý ở 
dạng số.
b. Nhu cầu chính xác hoá thông tin
Thông tin cần được thu nhập chính xác 
là một nhu cầu đương nhiên của con 
người. Đối với các thông tin chữ - số 
cần phải đảm bảo thu nhận chính xác. 
Điều quan trọng cần quan tâm hơn là 
tính chính xác đối với các thông tin
c. Xu hướng phát triển phần 
cứng và phần mềm hệ thống
Trong những năm 1950 và 
1960 những người thiết kế 
máy tính đã đi theo tư tưởng 
tập trung, một máy tính sẽ 
thiết kế để đủ thực hiện mọi 
nhiệm vụ của một cơ sở xử lý 
thông tin. Vì vậy người ta đã 
thiết kế và sản xuất các loại 
máy tính cỡ lớn
Từ những năm 1970 khi các bộ vi xử lý ra 
đời những người thiết kế máy tính đã đưa ra 
các loại máy tính cá nhân gọi là PC với phần 
mềm hệ thống DOS. Các máy tính PC lúc 
này góp phần quyết định trong việc xã hội 
hoá công nghệ thông tin. 
Sau đó trong cuối thế kỷ 20, hãng 
Microsoft đã có công lớn trong 
việc hình thành sản phẩm nền hệ 
thống WINDOWS với các phiên 
bản 3.11 for Workgroup, NT. Đặc 
biệt WINDOWS NT đã có phiên 
bản chạy trên máy tính cỡ trung 
bình.
Khoảng từ những năm 1980, người 
ta đã đưa ra ý tưởng hình thành hệ 
thống mạng máy tính. Đây là một ý 
tưởng có tính cách mạng trong công 
nghệ thông tin và đã làm thay đổi 
hướng phát triển. Đầu tiên người ta 
giải quyết mạng cục bộ (LAN) nhằm 
nối các máy nhỏ lại với nhau để giải 
quyết các bài toán lớn hơn
Hệ mạng này làm cho máy tính 
PC có vai trò và vị trí cao hơn . 
Sau đó người ta đã tổ chức hệ 
thống thông tin toàn cầu 
(Internet) làm cho thông tin được 
xã hội hoá mạnh hơn và các máy 
tính PC càng phát huy khả năng 
cao hơn. 
d. Sự phát triển của kỹ thuật xử lý 
thông tin
Tốc độ xử lý thông tin với các bộ xử lý 
(CPU) hiện nay đã tăng lên hàng nghìn 
lần so với 10 năm trước . 
e. Sự phát triển trong xây 
dựng các cơ sở dữ liệu
Trước đây máy tính được thiết kế theo 
quan điểm tập trung (centralized data-
base). Từ khi mạng máy tính ra đời 
người ta đã đưa ra quan niệm về hệ 
thống cơ sở dữ liệu phân tán 
(dicentralized data base). 
Hệ CSDL phân tán vừa cho phép 
giải quyết tốt bài toán với khối 
lượng dữ liệu lớn, vừa tạo được 
khả năng tương thích giữa hệ 
thống thông tin với hệ thống 
quản lý vừa tạo điều kiện tốt cho 
quá trình xã hội hoá thông tin. 
f. Sự phát triển mạng thông tin 
và kỹ thuật truyền tin
Quá trình phát triển mạng thông tin 
từ mạng cục bộ (LAN) tới các mạng 
diện rộng (WAN) bao gồm intranet, 
extranet, hay internet đã giới thiệu 
ở trên. Các xa lộ thông tin với 
đường truyền tốc độ cao được hình 
thành để nối các máy lại với nhau. 
g. Sự phát triển kỹ thuật thu nhận 
và cung cấp thông tin
việc thu thập thông tin địa lý đã đạt 
được nhiều thành tựu quan trọng. Đó 
là kỹ thuật đo đạc số với các máy toàn 
đạc điện tử tự động (electronic 
totalstation), máy định vị thu từ vệ 
tinh GPS (RTK GPS), máy chụp ảnh 
số (digital camera), máy đo sóng 
số (Digital echosounder) Điều cần 
quan tâm phát triển ở đây là kỹ thuật 
thu nhận các thông tin chữ- số.
.
2.2 PHẦN CỨNG CỦA MÁY TÍNH ĐIỆN TỬ
Phần cứng (Hardware), là các bộ 
phận vật lý cụ thể của máy tính hay 
hệ thống máy tính như là màn hình, 
chuột, bàn phím, máy in, máy 
quyét, vỏ máy tinh, bộ nguồn, bộ vi 
xử lý CPU, bo mạch chủ, các loại 
dây nối, loa, ổ đĩa mềm, ổ đĩa cứng, 
ổ CDROM, ổ DVD,
2.2.1 Sơ đồ chức năng của máy tính 
điện tử
Dựa trên chức năng và cách thức 
hoạt động của các bộ phận, phần 
cứng được chia thành 5 bộ phận: Bộ 
Vào, Bộ Nhớ,Bộ Làm tính, Bộ Điều 
khiển và Bộ Ra như sơ đồ sau:
Cũng có thể phân chia các khối chi 
tiết hơn gồm: Vào, Ra, Thanh 
ghi, Logic và Số học, Điều khiển, 
RAM, ROM, Bộ nhớ lưu trữ ngoài 
như sơ đồ dưới đây.
. Bộ vào (Input Unit): Bộ vào thực 
hiện nhiệm vụ nhập dữ liệu và 
chương trình vào máy tính. Bộ 
vào bao gồm các thiết bị có 
nhiệm vụ thu nhập dữ liệu hay 
mệnh lệnh từ ngoài vào máy. Ví 
dụ như bàn phím, chuột, máy 
quét...
2. Bộ ra (Output Unit): Bao gồm 
các thiết bị đưa thông tin, dữ liệu 
từ bên trong máy ra ngoài, trả 
lời, phát tín hiệu, hay thực thi 
lệnh ra bên ngoài. Ví dụ như màn 
hình, máy in, loa,...
3. Bộ nhớ trong (Internal Memory) 
còn gọi là bộ nhớ chính (Main 
memory): là thiết bị bên trong máy
tính, nằm trên bo mạch chủ giữ
nhiệm vụ trung gian chứa và cung
cấp các mệnh lệnh cho CPU và nhớ
dữ liệu từ các bộ phận như là BIOS. 
Nhớ các lệnh của phần mềm. Tiếp
nhận dữ liệu từ kho lưu trữ,
Bộ nhớ trong có 2 phần: RAM và 
ROM
RAM (Random Access Memory) bộ 
nhớ truy cập ngẫu nhiên. Bộ nhớ sơ 
cấp của máy tính, trong đó các chỉ 
lệnh chương trình và dữ liệu được lưu 
trữ sao cho bộ xử lý trung tâm (CPU) 
có thể truy cập trực tiếp vào chúng 
thông qua các BUS dữ liệu cao tốc 
của bộ xử lý đó. 
Để thực hiện các chỉ lệnh ở tốc độ
cao, mạch xử lý của máy tính phải có
khả năng thu nhận thông tin từ bộ
nhớ một cách trực tiếp và nhanh
chóng. Do đó, các bộ nhớ máy tính
phải được thiết kế sao cho bộ xử lý
có thể truy cập ngẫu nhiên vào các
nội dung đó.
RAM là một ma trận gồm các 
hàng và các cột, giao điểm 
hàng và cột là các ô nhớ có 
khả năng lưu nhớ các lệnh 
chương trình hay dữ liệu.Mỗi 
một giao điểm có một địa chỉ 
riêng gọi là địa chỉ ô nhớ. 
CPU truy cập vào từng vị trí nhớ 
một cách trực tiếp bằng cách xác 
định địa chỉ rồi cho hoạt động một 
mạch điện tử để dẫn đến địa chỉ đó. 
CPU có thể ghi và đọc dữ liệu trong 
RAM. Hầu hết các chương trình đều 
dành riêng một phần RAM để làm khu 
vực nhớ tạm thời các dữ liệu của cho 
người dùng.
RAM bao gồm các mạch nhớ bán 
dẫn dễ thay đổi, nó không giữ lại 
được nội dung khi tắt điện máy 
tính. RAM thường được gọi là bộ 
nhớ đọc/ghi để phân biệt với bộ 
nhớ chỉ đọc (ROM) - một bộ phận 
khác của bộ nhớ sơ cấp trong 
máy tính.
ROM (Read Only Memory) bộ nhớ chỉ
đọc ra. Một phần của bộ lưu trữ sơ
cấp trong máy tính, không bị mất nội
dung khi tắt điện máy tính. ROM 
chứa các chương trình hệ thống cần
thiết mà cả người sử dung lẫn máy
tính đều không thể xoá.
Vì bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên 
(RAM) của máy tính là loại không 
cố định (mất thông tin khi tắt 
điện), cho nên bộ nhớ trong của 
máy là rỗng ở thời điểm bắt đầu 
mở máy, và máy tính không cần 
phải làm gì hơn ngoài việc đưa ra 
các lệnh khởi động máy. Các lệnh 
này được lưu trữ trong ROM. 
4. Các thanh ghi (Registers) là 
thanh nhớ nhỏ thuộc bộ xử lý 
của máy tính. Thanh ghi có thể 
chứa lệnh máy, địa chỉ ô nhớ 
hoặc một dãy các bit
Một thanh ghi phải có độ dài đủ
ghi lệnh máy, máy tính có lệnh
máy 32 bít thì thanh ghi phải dài
32 bít. Thanh ghi phải được đánh
số và hoặc có tên cố định. Ví dụ
thanh trạng thái, thanh tổng,
5. Bộ điều khiển (Control Unit). 
Theo mô hình kiến trúc máy tính
của Von Neumann thì Bộ điều khiển
là bộ phận điều khiển hoạt động của
tất cả các bộ phận khác trong máy
tính
6. Bộ số học và logic (Arithmetic 
and Logical Unit- ALU) là mạch kỹ
thuật số thực hiện những phép tính
logic và số học. ALU là bộ phận cơ
bản của CPU máy tính. Trong một
bộ vi xử lý đơn giản nhất cũng có
ALU với mục đích giữ nhịp thời gian.
7. BUS: Đường chuyển dữ liệu giữa 
các thiết bị phần cứng.
8. BIOS (Basic Input Output 
System): Hệ thống xuất nhập cơ
bản nhằm khởi động, kiểm tra, và
cài đặt các mệnh lệnh cơ bản cho
phần cứng và giao quyền điều khiển
cho hệ điều hành
9. CPU (Central Processing Unit) bộ xử 
lý trung tâm điều khiển toàn bộ máy tính
10. Kho lưu trữ (Storage). Bộ nhớ
ngoài lưu giữ, cung cấp, thu nhận
dữ liệu. Bộ nhớ ngoài có dung 
lượng lớn, tuy nhiên tốc độ truy
nhập chậm hơn bộ nhớ trong. Bộ
nhớ ngoài có thể là hệ thống đĩa
từ, đĩa quang, thẻ nhớ, trống từ, 
băng từ
11. Chíp hỗ trợ: là các chíp nằm bên 
trong bo mạch chủ hay nằm trong 
các thiết bị ngoại vi của máy tính. 
Các con chip này giữ vai trò điều 
khiển thiết bị và liên lạc với hệ điều 
hành qua bộ điều vận hay qua 
firmware.
12. Các cổng vào/ra (I/O port) 
còn được gọi là địa chỉ Vào/Ra 
(I/O Address), là những gì cho 
phép các trình điều khiển phần 
mềm giao tiếp với các thiết bị 
phần cứng trên máy tính. 
2.2.2 Thiết bị vào.
Là các thiết bị đảm nhiệm việc nhận 
dữ liệu từ ngoài và đưa vào bên 
trong máy tính. Chúng rất đa dạng 
và phong phú. Giáo trình chỉ đề cập 
tới một số thiết bị vào thông dụng 
cho những người dùng nói chung.
a) Bàn phím máy tính (Computer 
Keyboard)
b) Chuột máy tính (Mouse)
..
2.2.5 Bộ xử lý trung tâm - CPU
CPU viết tắt của chữ Central 
Processing Unit (tiếng Anh), tạm 
dịch là Bộ vi xử lí trung tâm. CPU 
có thể được xem như não bộ, một 
trong những phần tử cốt lõi nhất 
của máy vi tính. Nhiệm vụ chính 
của CPU là xử lý các chương trình 
máy tính và dữ kiện. 
CPU có nhiều kiểu dáng khác nhau. 
Ở hình thức đơn giản nhất, CPU là 
một con chip với vài chục chân. 
Phức tạp hơn, CPU được ráp sẵn 
trong các bộ mạch với hàng trăm 
con chip khác. 
CPU là một mạch xử lý dữ liệu theo 
chương trình được thiết lập trước. 
Nó là một mạch tích hợp phức tạp 
gồm hàng triệu transitor trên một 
bảng mạch nhỏ. Bộ xử lý trung 
tâm bao gồm Bộ điều khiển và Bộ 
làm tính.
Bộ điều khiển (CU - Control Unit) 
là các vi xử lí có nhiệm vụ thông 
dịch các lệnh của chương trình và 
điều khiển hoạt động xử lí, được 
điều tiết chính xác bởi xung nhịp 
đồng hồ hệ thống. Mạch xung nhịp 
đồng hồ hệ thống dùng để đồng 
bộ các thao tác xử lí trong và 
ngoài CPU theo các khoảng thời 
gian không đổi.
.Khoảng thời gian chờ giữa hai xung 
gọi là chu kỳ xung nhịp.Tốc độ 
theo đó xung nhịp hệ thống tạo ra 
các xung tín hiệu chuẩn thời gian 
gọi là tốc độ xung nhịp - tốc độ 
đồng hồ tính bằng triệu đơn vị mỗi 
giây - MHz. Thanh ghi là phần tử 
nhớ tạm trong bộ vi xử lý dùng lưu 
dữ liệu và địa chỉ nhớ trong máy 
khi đang thực hiện tác vụ với.
Chức năng cơ bản của máy tính là 
thực thi chương trình. Chương 
trình được thực thi gồm một dãy 
các chỉ thị được lưu trữ trong bộ 
nhớ. Đơn vị xử lý trung tâm 
(CPU) đảm nhận việc thực thi 
này. Quá trình thực thi chương 
trình gồm hai bước: CPU đọc chỉ 
thị từ bộ nhớ và thực thi chỉ thị 
đó. Việc thực thi chương 
Bộ làm tính (Arithmetic and Logical 
Unit ALU) là một mạch kỹ thuật số có 
chức năng thực hiện các phép toán 
logic và số học. ALU là một khối nền 
tảng của bộ xử lý trung tâm. Trong các 
CPU hiện đại và Bộ xử lý đồ họa (GPU) 
thường có những ALU cực mạnh. Một 
bộ phận riêng của máy tính cũng có 
thể có một số ALU.
Tốc độ của máy tính. Tốc độ xử 
lý của máy tính phụ thuộc vào tốc 
độ của CPU, nhưng nó cũng phụ 
thuộc vào các phần khác (như bộ 
nhớ trong, RAM, hay bo mạch đồ 
họa). Có nhiều công nghệ làm 
tăng tốc độ xử lý của CPU. Ví dụ 
công nghệ Core hay Nehalem. 
Tốc độ CPU có liên hệ với tần số 
đồng hồ làm việc của nó (tính 
bằng các đơn vị như MHz, 
GHz,...). Đối với các CPU cùng 
loại, tần số này càng cao thì tốc 
độ xử lý càng tăng. Đối với CPU 
khác loại, thì điều này chưa chắc 
đã đúng; 
ví dụ CPU Core 2 Duo có tốc độ 2,6 GHz 
có thể xử lý dữ liệu nhanh hơn CPU có tốc
độ 3,4 GHz một nhân. Tốc độ CPU còn
phụ thuộc vào bộ nhớ đệm của nó, ví như
Intel Core 2 Duo sử dụng chung cache L2 
(shared cache) giúp cho tốc độ xử lý của
hệ thống 2 nhân mới này nhanh hơn so 
với hệ thống 2 nhân thế hệ 1 (Intel 
Pentium D) với mỗi core từng cache L2 
riêng biệt. (Bộ nhớ đệm dùng để lưu các
lệnh hay dùng, giúp cho việc nhập dữ liệu
xử lý nhanh hơn). Công nghệ sản xuất
CPU mới nhất là 32nm.
2.2.6 Bo mạch chủ
Bo mạch chủ của máy 
tính trong tiếng Anh là 
motherboard hay mainboard 
và thường được nhiều người 
gọi tắt là: mobo, main. 
Thuật ngữ Bo mạch chủ thường 
dùng nhiều nhất trong ngành 
công nghiệp máy tính nói chung 
như một từ dành riêng, mặc dù 
có rất nhiều thiết bị khác cũng có 
thể có bản mạch chính được gọi 
là "bo mạch chủ". Phần này giới 
thiệu chủ yếu về Bo mạch chủ 
trong các máy tính cá nhân.
2.2.8 Phân loại máy tính điện 
tử
Có rất nhiều cách phân loại máy 
tính điện tử. Phần tiếp theo sẽ 
trình bày về hai cách phân loại 
thông dụng: Phân loại theo thế 
hệ và phân loại theo công năng.
a. Phân loại theo thế hệ
Cách phân loại này sử dụng yếu 
tố kỹ thuật cơ bản dùng thiết kế 
lên máy tính điện tử. Cụ thể máy 
tính điện tử được xếp vào 4 thế 
hệ như sau:
+ Thế hệ thứ nhất: Thế hệ bóng 
đèn chân không (Vacuum Tubes) 
Được phát triển từ năm 1946, máy 
tính có tên ENIAC (Electronic 
Numerical Integrator and Computer) là 
một trong những máy tính điện tử đầu 
tiên. Nó có kích thước bằng một căn 
phòng, chưa hơn 18.000 bóng đén 
điện tử chân không
+ Thế hệ thứ hai: Bóng bán dẫn ( 
Transitor)
Vào năm 1958 máy tính UNIVAC 
được sản xuất bằng Transitors thay 
cho bóng chân không. Transitor ít 
nóng, nhỏ hơn nhiều, làm việc nhanh 
hơn và ôn định hơn rất nhiều so với 
bóng chân không. Một transitor thời 
đó có kích thước nhỏ hơn đồng tiền 
xu. 
Các máy tính ngày nay vẫn còn
dùng công nghệ transitor những có
hàng triệu transitors trên một con chip 
vi xử lý (microprocessor) với kích thược
cũng chỉ nhỉnh hơn một đồng xu. Công
suất của máy tính UNIVAC những năm
1958 đã lớn hơn nhiều so với máy tính
thế hệ 1, chúng thực hiện hàng nghìn
phép tính trong một giây.
+ Thế hệ thứ ba: Mạch tích hợp
(Intergrated Circuits)
Chip IC 
Vào năm 1964 máy tính IBM 360
Lần đầu tiên được thiết kế có sử
dụng mạch tích hợp (IC) và có hệ
điều hành đa mục đích. Mạch điện
tử được gọi là mạch tích hợp bởi
vì trên mỗi con chíp có nhiều
transitor. 
Sự phát triển công nghệ IC đã tạo ra 
một bước ngoặt lớn về tốc độ và độ 
tin cậy. Hệ điều hành chung đa mục 
đích đã làm cho máy tính trở lên dễ 
lập trình và dễ dàng chuyển từ ứng 
dụng này sang ứng dụng khác. 
Trước thời điểm này, máy tính được 
cấu hình để chạy duy nhất một 
chương trình cho mỗi thời gian. 
Năm 1987 Microsoft viết Windows 
1.0 cho máy PC và năm 1989 Intel 
sáng tạo chip xử lý 486. Kể từ khi 
Intel công bố chip vi xử lý 
Pentium vào năm 1993, đế 
chế Wintel (Windows/Intel) đã 
khởi đầu tốt đẹp và tiến triển cực 
nhanh.
+ Thế hệ thứ tư: Quang học và 
đa phương tiện
Nhiều chuyên gia còn chưa khẳng 
định rõ chúng ta còn đang ở thế 
hệ ba hay đã sang thế hệ bốn vì 
rằng mạch tích hợp vẫn là linh 
kiện chính của những máy tính 
ngày nay
. Một số chuyên gia cảm thấy rằng 
cuộc cách mạng máy vi tính đánh dấu 
khởi đầu máy tính thế hệ thứ tư, thế 
hệ có những ứng dụng mới được phát 
triển
. Một trong những phát triển quan 
trọng là đa phương tiện 
(Multimedia) nghĩa là tích hợp cả 
tiếng nói, video và dữ liệu vào 
trong một máy vi tính. Apple’s 
HyperCard ra đời năm 1987 là 
ứng dụng đầu tiên tích hợp tiếng 
nói, video và dữ liệu.
b) Phân loại máy tính theo 
công năng
Theo cách này máy tính điện tử 
được chia làm 5 loại : Siêu máy 
tính, máy tính lớn, máy mini, máy 
tính cá nhân và máy tính xách tay.
+ Siêu máy tính (Super 
computer)
+ Máy tính lớn (Mainframes)
+ Máy tính mini (Minicomputer)
+ Máy tính cá nhân (Personal 
computers)
+ Máy tính xách tay (Notebook 
computers)
2.2.9 Xu thế công nghệ phần 
cứng máy tính
a) Xu thế công nghệ tính toán ngày 
một nhanh hơn, nhỏ hơn, dễ sử 
dụng hơn với hàng loạt các ứng 
dụng và đặc biệt là rẻ hơn rất 
nhiều.
b) Xu thế máy tính bảng lai, máy 
có ý thức,chỉ dẫn thông minh
+ Xuất hiện máy tính bảng lai 
netbook
+ Laptop sẽ sản xuất nhiều hơn
+ Máy tính có ý thức
+ Bảo mật tốt hơn
+ “Cá nhân hóa” CNTT
+ Bảng chỉ dẫn thông minh
+ Công nghệ tự động
+ Đám mây và ảo hóa lên ngôi
+ Smart TV trở thành sự thực
2.3 Phần mềm máy tính điện tử
2.3.1 Ngôn ngữ máy và nguyên
lý làm việc tự động theo
chương trình ngôn ngữ máy
của máy tính điện tử
a/ Ngôn ngữ máy
Chương trình ngôn ngữ máy là một
dãy các lệnh máy, khi thực hiện
theo các lệnh trong dãy thì máy tính
sẽ giải quyết một nhiệm vụ hay một
chức năng cụ thể nào đó.
Tập hợp các lệnh máy và các quy 
tắc viết thành chương trình, cách 
thức sử dụng các lệnh máy để 
giao tiếp và làm việc với máy tính 
gọi là ngôn ngữ máy (Machine 
Language). Đây là ngôn ngữ lập 
trình đầu tiên.
b) Nguyên lý tự động theo 
chương trình ngôn ngữ máy
Lệnh máy sẽ được thực hiện trong 
bộ xử lý trung tâm. Sau khi một 
chương trình ngôn ngữ máy được 
nạp vào trong bộ nhớ của máy tính. 
Khi được yêu cầu chạy chương trình 
đó CPU sẽ thực hiện chương trình 
đó theo quy trình như sau:
1. Tìm nạp lệnh (fetch): CPU tìm 
đến địa chỉ ô nhớ chứa lệnh, đọc 
một lệnh từ bộ nhớ về
2. Phân tích: Lệnh được CPU giải 
mã để xác định cần phải làm gì
3. Tìm nạp dữ liệu: Một lệnh có thế 
phải đọc dữ liệu từ bộ nhớ hoặc từ 
một mô đun vào/ra nào đó về
4. Xử lý dữ liệu: Thực hiện lệnh 
có thể yêu cầu thực hiện phép 
toán logic hoặc số học
5. Ghi dữ liệu: Kết quả có thể 
cần được ghi vào bộ nhớ hoặc mô 
đun vào/ra Quy trình này được 
thực hiện cho đến khi gặp và thực 
hiện lệnh kết thúc chương trình.
2.3.2 Phân loại ngôn ngữ lập trình.
Căn cứ vào khả năng trừu tượng của 
ngôn ngữ so với phần cứng máy tính 
thì hiện có 4 thế hệ ngôn ngữ lập 
trình: Ngôn ngữ máy, hợp ngữ, ngôn 
ngữ bậc cao và ngôn ngữ thế hệ thứ 4.
+ Thế hệ 1: Ngôn ngữ máy
Ngôn ngữ này viết trực tiếp bằng các 
lênh máy. Máy tính đọc trực tiếp và 
thực hiện được ngay.
+ Thế hệ 2: Ngôn ngữ ASSEMBLY
Ngôn ngữ assembly (còn gọi là 
hợp ngữ) là một ngôn ngữ bậc thấp 
được dùng trong việc viết các 
chương trình máy tính. Ngôn ngữ 
assembly sử dụng các từ có tính gợi 
nhớ, các từ viết tắt để giúp ta dễ ghi 
nhớ các chỉ thị phức tạp và làm cho 
việc lập trình bằng assembly dễ 
dàng hơn
. Mục đích của việc dùng các từ 
gợi nhớ là nhằm thay thế việc lập 
trình trực tiếp bằng ngôn ngữ 
máy được sử dụng trong các máy 
tính đầu tiên thường gặp nhiều lỗi 
và tốn thời gian 
+ Ngôn ngữ thế hệ 3: Ngôn ngữ
bậc cao(high level)
Khái niệm ngôn ngữ lập trình bậc
cao không có nghĩa là ngôn ngữ cao
hơn ngôn ngữ bậc thấp mà theo
nghiã có mức độ trừu tượng tri thức
cao hơn ngôn ngữ máy. 
Khác với ngôn ngữ bậc thấp, 
ngôn ngữ bậc cao có một số công 
cụ phần mềm dùng để dịch 
chương trình sang ngôn ngữ máy 
và xử lý các thủ tục, các đối 
tượng cũng những các tệp vào/ra.
Thông dịch (Interpreted)
Ngôn ngữ thông dịch được đọc 
và thực hiện ngay không qua 
khâu biên dịch. 
Biên dịch (Compiled)
Ngôn ngữ biên dịch được 
chuyển sang dạng thực hiện 
được trước khi chạy chương 
trình. Có 2 loại dịch:
Sinh ra mã lệnh máy. Một số 
chương trình dịch dịch mã 
nguồn sang mã máy. Còn gọi là 
biên dịch thực sự.
Sinh ra sự thể hiện trung gian 
(object file). Khi một ngôn ngữ 
được biên dịch sang một tệp 
dạng trung gian, sau đó được 
tối ưu và lưu lại để biên dịch 
tiếp không cần phải đọc lại tệp 
nguồn. 
Phiên dịch (Translated)
Một ngôn ngữ có thể được phiên 
dịch sang một ngôn ngữ bậc thấp 
mà trình biên dịch sang ngôn ngữ 
máy đã rất thông dụng sẵn sàng. 
Ngôn ngữ C là một ngôn ngữ đích 
chung cho các trình phiên dịch loại 
này.
+ Ngôn ngữ thế hệ thứ tư - Ngôn 
ngữ phi thủ tục (non-procedural)
Ngôn ngữ thế hệ thứ tư (xuất hiện 
những năm 1970 – 1990) viết tắt là 
4GL là ngôn ngữ lập trình hoặc môi 
trường lập trình với mục đích đặc trưng 
chẳng hạn như để phát trình phần 
mềm ứng dụng kinh doanh. Sự trừu 
tượng của nó cao hơn ngôn ngữ thế hệ 
thứ 3
. Ngôn ngữ thứ 4 không bắt câu 
lệnh phải thể hiện thủ tục tính 
toán mà chỉ cần câu lệnh trừu 
tượng hơn ví SUM để tính tổng, 
MAX để tìm giá trị lớn nhất, Vì 
thế ngôn ngữ này còn gọi là ngôn 
ngữ phi thủ tục.
2.3.3 Phần mềm (software)
a) Khái niệm phần mềm
Phần mềm là một tập hợp những câu lệnh 
được viết bằng một hoặc nhiều ngôn ngữ 
lập trình theo một trật tự xác định nhằm 
tự động thực hiện một số nhiệm vụ hoặc 
chức năng hoặc giải quyết một bài toán 
nào đó.
b) Phân loại phần mềm
+ Theo phương thức hoạt 
động phân thành :
1. Phần mềm hệ thống dùng để vận hành 
máy tính và các thiết bị phần cứng máy 
tính, ví dụ như các hệ điều hành máy tính 
Windows XP, Linux, Unix, các thư viện 
động của hệ điều hành, các trình điều 
khiển (driver), phần sụn (firmware) và 
BIOS. Đây là các loại phần mềm mà hệ 
điều hành liên lạc với chúng để điều khiển 
và quản lý các thiết bị phần cứng.
Nó bao gồm các hệ điều hành, 
phần mềm điều vận thiết bị 
(device driver), các công cụ phân 
tích (diagnostic tool), trình phục 
vụ, hệ thống cửa sổ, các tiện ích
Mục đích của phần mềm hệ thống 
là để giúp các lập trình viên ứng 
dụng không phải quan tâm đến 
các chi tiết của hệ thống máy tính 
phức tạp được sử dụng, đặc biệt 
là các tính năng bộ nhớ và các 
phần cứng khác chẳng hạn như 
máy in, bàn phím, thiết bị hiển 
thị,...
2. Phần mềm ứng dụng để người sử 
dụng có thể hoàn thành một hay 
nhiều công việc nào đó, ví dụ như 
các phần mềm văn phòng (Microsoft 
Office, Lotus 1-2-3, FoxPro), phần 
mềm doanh nghiệp, phần mềm 
quản lý nguồn nhân lực XETA, phần
mềm giáo dục, cơ sở dữ liệu, phần 
mềm trò chơi, 
chương trình tiện ích, Phần mềm ứng dụng với 
nhiệm vụ thực hiện tin học hoá các quá trình quản 
lý truyền thống, không chỉ đơn thuần là việc lưu trữ 
hay xử lý thông tin. Việc xây dựng và khai thác 
phần mềm quản lý đòi hỏi sự am hiểu về chuyên 
môn quản lý tương ứng, thí dụ quản lý con người, 
quản lý kho hàng, quản lý lương,v.v... Bản thân 
phần mềm và các lập trình viên, nói chung, không 
sản xuất ra phần mềm quản lý được.
Ngày nay, các phần mềm quản lý có xu hướng trực 
tuyến nhiều hơn nhờ công nghệ trên nền Internet 
phát triển mạnh hơn trước đây rất nhiều.
3. Các phần mềm phát triển dùng 
để phát triển các phần mềm khác 
như phần mềm chuyển dịch mã 
bao gồm trình biên dịch và trình 
thông dịch: các loại chương trình 
này sẽ đọc các câu lệnh từ mã 
nguồn được viết bởi các lập trình 
viên theo một ngôn ngữ lập trình 
và dịch nó sang dạng ngôn ngữ 
máy mà máy tính có thể hiểu 
đưọc. 
Các phần mềm lập trình và công 
cụ hỗ trợ lập trình (Computer 
Aided Software Engineering -
CASE tools).
Phần mềm lập trình thường cung 
cấp các công cụ hỗ trợ lập trình 
viên trong khi viết chương trình 
và phần mềm bằng các ngôn ngữ 
lập trình khác nhau. Các công cụ 
này bao gồm các trình soạn thảo, 
trình biên dịch, trình thông dịch, 
trình liên kết, trình tìm lỗi,v.v... 
Một môi trường phát triển tích
hợp (IDE) kết hợp các công cụ
này thành một gói phần mềm, và
một lập trình viên có thể không
cần gõ nhiều dòng lệnh để dịch, 
tìm lỗi, lần bước,... vì IDE thường
có một giao diện người dùng đồ
họa cao cấp (GUI).
+ Theo khả năng ứng dụng
1. Những phần mềm dùng chung 
(Common) hay còn gọi là phần 
mềm không phụ thuộc. Nó có thể 
được bán cho bất kỳ khách hàng 
nào trên thị trường tự do. Ví dụ: 
phần mềm về cơ sở dữ liệu như 
Oracle, đồ họa như Photoshop, 
Corel Draw, soạn thảo và xử lý 
văn bản, bảng tính,... 
Thông thường đây là những phần 
mềm có khả năng ứng dụng
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bai_giang_nhap_mon_tin_hoc_chuong_2_tong_quan_ve_cong_nghe_t.pdf bai_giang_nhap_mon_tin_hoc_chuong_2_tong_quan_ve_cong_nghe_t.pdf