MỤC LỤC
Bài 1. Đại cương về nghiên cứu khoa học
Bài 2. Lý thuyết khoa học
Bài 3. Luận điểm khoa học
Bài 4. Khẳng định luận điểm khoa học
Bài 5. Công trình khoa học
Bài 6. Quá trình thực hiện luận văn thạc sĩ
75 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 441 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Nguyễn Mạnh Hùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thứ khác Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định.. Như vậy, phạm trù không đơn giản là sự phân loại. Sự phân loại chỉ có được chỉ sau khi xác định phạm trù.2.1.Hệ thống phạm trùPhạm trù được xác định nhờ thao tác mở rộng khái niệm đến tối đa. Mỗi bộ môn khoa học có hệ thống phạm trù riêng của mình, phản ánh những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu. VD: Phạm trù “đường”; “hàm số”; phạm trù “hàng hoá”, “tiền tệ”;phạm trù đạo đức, v.v Phạm trù triết học là những khái niệm chung, rộng nhất phản ánh những mặt, mối liện hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy: phạm trù “vật chất”, “ý thức”2.3. Hệ thống qui luậtQui luật: Mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các yếu tố cấu thành các thuộc tính của sự vật, hiện tượng.Phân loại qui luật: qui luật riêng-tác động trong một phạm vi nhất định, những sự vật cùng loại; qui luật chung-tác động trong một phạm vi rộng hơn, những sự vật khác loại; qui luật phổ biến- tác động trong mọi lĩnh vực.2.3. Hệ thống qui luậtMối liên hệ hữu hình: biểu diễn được bằng sơ đồ hoặc biểu thức toán học. VD. Liên hệ nối tiếp-đốt thanh sắt; liên hệ song song-hệ thống phòng ban; liên hệ hình cây- cây gia phả (dòng họ, thế hệ các nhà khoa học thuộc một trường phái); liên hệ mạng lưới- hệ thống bán hàng, hệ thống giao thông; liên hệ điều khiển học-đầu vào đầu ra; liên hệ tuyến tính, phi tuyến v.v...Mối liên hệ vô hình: còn lại. VD. Liên hệ hành chính, liên hệ tình cảm, trạng thái tâm lý, quan hệ huyest thống v.vIII. SỰ PHÁT TRIỂN LÝ THUYẾT K.H. Sự phát triển của khoa học bắt đầu từ những ý tưởng khoa học qua một quá trình đóng góp của nhiều thế hệ đạt tới đỉnh cao của một lý thuyết khoa học-ngành khoa học.Hướng nghiên cứu: chủ đề nghiên cứu thuộc một hoặc một số lĩnh vực khoa học được định hướng theo một mục tiêu (lý thuyết, ứng dụng , phương pháp luận).III. SỰ PHÁT TRIỂN LÝ THUYẾT K.H.Trường phái: Hướng nghiên cứu đặc biệt phát triển đến một cách nhìn mới đối với đối tượng nghiên cứu (VD. Hình học phi Euclid).Bộ môn khoa học: Hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh về một đối tượng nghiên cứu. Ngành khoa học: Một lĩnh vực hoạt động xã hội về nghiên cứu khoa học hoặc đào tạo.Sergei Lvovich Sobolev Sinh 6 tháng 10, 1908, Saint Petersburg. Mất 1989 tại Moskva. Ngành:Toán học. Nơi công tác: Viện toán học Steklov (1934), Đại học THQG Moscow (MGU, 135-1957), viện phó của Viện Năng lượng Nguyên tử (1943-1957).Học trường Đại học Leningrad, 1929Người hướng dẫn luận án TSKH: Nikolai GünterNổi tiếng vì Không gian Sobolev, hàm suy rộngẢnh hưởng tới Hàm gải tích, phương trình đạo hàm riêng. Giải thưởng: Stalin 1941 Sergei Lvovich SobolevSobolev giới thiệu một số khái niệm bây giờ là cơ sở cho một số lãnh vực khác nhau của toán học. Không gian Sobolev có thể được định nghĩa bằng điều kiện tăng dần của biến đổi Fourier; các định lý nhúng (Sobolev) là một chủ đề quan trọng trong giải tích hàm. Hàm số tổng quát (sau này được gọi là phân bố), được giới thiệu bởi Sobolev lần đầu tiên vào năm 1935 cho các nghiệm yếu, và được phát triển thêm bởi Laurent Schwartz; họ định nghĩa lại khái niệm đạo hàm. Cả hai phát triển này phát sinh trực tiếp từ các công trình của ông về phương trình đạo hàm riêng..Vào năm 1956 Sobolev tham gia một nhóm các khoa học gia trong việc thiết lập hệ thống khoa học và giáo dục ở tầm mức lớn cho phần phía Đông của Liên Xô, kết quả là sự thành lập của Chi nhánh Siberia của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Ông là người thành lập và là viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học ở Novosibirsk, sau này mang tên ông, và đóng một vai trò quan trọng trong việc thành lập và phát triển Đại học Quốc gia Novosibirsk.Bài tập2.12.12.3Bài 3. LUẬN ĐIỂM KHOA HỌC Quá trình hình thành luận điểm khoa học. Sự kiện khoa học Vấn đề khoa học. Giả thuyết khoa học. Luận điểm khoa học.I. Sự kiện khoa họcSự kiện khoa học là một sự vật hoặc hiện tượng chứa đựng các vấn đề đòi hỏi giải thích bằng tri thức khoa học (VD. Xã hội, vật lý, toán học v. v.)Sự kiện khoa học là điểm xuất phát của chủ thể nghiên cứu. Lựa chọn sự kiện khoa học là cơ sở để tìm kiếm chủ đề nghiên cứu.Người Nghiên cứu lấy sự kiện khoa học từ ngành học của mình hoặc từ hoạt động thực tiễn để bắt đầu các nghiên cứu của mình (VD).Từ sự kiện khoa học phát hiện các mâu thuẫn, đặt câu hỏi và tìm câu trả lời –bắt đầu NCKH và hình thành vấn đề nghiên cứu.II.Vấn đề khoa học.Vấn đề khoa học –vấn đề nghiên cứu là câu hỏi được đặt ra đứng trước mâu thuẫn giữa kiến thức khoa học chưa biết với việc phát triển tri thức đó ở mức cao hơn.Vấn đề khoa học bao gồm: vấn đề về bản chất của sự tìm kiếm và vấn đề về phương pháp nghiên cứu để giải quyết vấn đề đặt ra (VD).Phương pháp phát hiện vấn đề khoa học: lý thuyết và thực tiễn.Các tình huống của vấn đề khoa học: Có vấn đề nghiên cứu; không còn vấn đề-không phải nghiên cứu; xuất hiện vấn đề khác. Từ đó xây dựng giả thuyết khoa học cho nghiên cứu của mình.III. Giả thuyết khoa học.Giả thuyết khoa học (giả thuyết nghiên cứu) – kết luận giả định về bản chất sự vậtđược đưa ra để chứng minh hoặc bác bỏ.Giả thuyết khoa học là khởi điểm của mọi nghiên cứu khoa học. Một giả thuyết bị bác bỏ khẳng định trong khoa học không có bản chất như giả thuyết đã nêu ra.Giả thuyết là câu trả lời cho câu hỏi của vấn đề khoa học.Thuộc tính cơ bản của giả thuyết khoa học: Tính giả định, đa phương án và dị biến (dễ biến đổi).III. Giả thuyết khoa học.Tiêu chí của một giả thuyết khoa học: dựa trên cơ sở quan sát; không được trái với lý thuyết đã được xác nhận; có thể kiểm chứng.Có 4 loại giả thuyết: mô tả; giải thích; giải pháp (trong các nghiên cứu về giải pháp và giả thuyết dự báo.Thao tác đưa ra giả thuyết: suy luận diễn dịch-đi từ nguyên lý chung, qui luật chung đến những trường hợp riêng; quy nạp-hoàn toàn và không hoàn toàn; loại suy-quy nạp tương tự (nghiên cứu người trên chuột bạch.IV.Luận điểm khoa học Từ các giả thuyết khoa học hình thành luận điểm khoa học. Luận điểm khoa học trả lời câu hỏi “cần chứng minh điều gì?”.Luận điểm khoa học là một phán đoán về bản chất sự vật , là kết quả của những suy luận từ nghiên cứu lý thuyết hoặc quan sát thực nghiệm.Nghiên cứu khoa học là một quá trình xây dựng để đưa ra luận điểm khoa học và bảo vệ luận điểm khoa học của mình dựa vào các luận cứ khoa học.IV.Luận điểm khoa họcMột công trình khoa học là là một văn bản trình bày và chứng minh luận điểm khoa học của tác giả duậ vào các luận cứ khoa học.Bài tập: 1.1 Xây dựng một luận điểm khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu của mình1.2Bài IV. KHẲNG ĐỊNH LUẬN ĐIỂM KHOA HỌC Để khẳng định một luận điểm khoa học người nghiên cứu cần phải có đầy đủ các căn cứ khoa học để chứng minh luận điểm mình đưa ra, bao gồm tìm bằng chứng - luận cứ và cách sắp xếp luận cứ - luận chứng để chứng minh luận điểm khoa học. Luận cứ trả lời câu hỏi “chứng minh bằng cái gì?”.Luận chứng trả lời câu hỏi “chứng minh bằng cách nào?”. công Các luận điểm khoa học sau khi đã được khẳng đinh sẽ bố trên các công trình khoa họcI. LUẬN CỨ KHOA HỌC1.1. Đại cương về luận cứ khoa học Luận cứ là bằng chứng để chứng minh luận điểm, được xây dựng từ những thông tin từ tài liệu, quan sát hoặc thực nghiệm:luận cứ lý thuyết và luận cứ thực tiễn.Luận cứ lý thuyết là các luận điểm khoa học đã được chứng minh: tiên đề, định lý, định luật, qui luật đã được khoa học chứng minh và đương nhiên là cơ sở lý thuyết được sử dụng.Luận cứ thực tiễn là các phán đoán đã được xác nhận, được hình thành nhờ quan sát, thực nghiệm, phỏng vấn, điều tra.1.2. Các phương pháp tìm luận cứ khoa họcA. Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Mục đích là tìm các tài liệu liên quan đến chủ đề nghiên cứu: cơ sở lý thuyết, thành tựu khoa học, kết quả nghiên cứu của đồng nghiệp, số liệu thống kê, chủ trương chính sách.Phân loại tài liệu: Tác phẩ kinh điển, sách chuyên khảo, sách tham khảo, sách giáo trình, tạp chí khoa học (Vd. Theo phân loại của HDCDGSNN, đặc biệt về tạp chí có chỉ số ISI), kỷ yếu hội nghị khoa hoc, các đề tài khoa học, các văn kiện chính thức, các tư liệu từ thông tin đại chúng và các thông tin từ internet. Đánh giá tài liệu: tác giả, nước xuất bản, nhà xuất bản, xếp loại tài liệu của thế giới. Từ đó có độ tin cậy để sử dụng và trích dẫn. Kiểm chứng các nguồn thông tin từ các tư liệu.ISI là viết tắt của “Institute for Scientific Information”( Viện Thông tin Khoa học). ISI được thành lập từ năm 1960. Điểm quan trọng nhất tạo nên tên tuổi của ISI là việc đưa ra đánh giá tổng quan khách quan và minh bạch một công trình khoa học, một tạp chí khoa học hay một nhà khoa học chỉ bằng một con số. Hiện nay ISI là cơ quan có uy tín và duy nhất đánh giá bao quát tất cả các lĩnh vực khoa học và có phân loại. Liên Hợp Quốc, các Chính phủ và các Tổ chức Quốc tế thường sử dụng thống kê của ISI trong quản lý và hoạch định các chính sách khoa học. Thống kê của Việt Nam về khoa học nếu không theo ISI thì sẽ bị lệch so với thống kê của các Tổ chức Quốc tế. Quỹ NAFOSTED Việt Nam đang sử dụng tiêu chuẩn có công trình đăng trên các tạp ISI như là một tiêu chí cứng để quyết định việc tài trợ nghiên cứu cho một nhà khoa học.Trên thế giới có khoảng hơn một trăm ngàn Tạp chí Khoa học. Tuy nhiên mới chỉ có gần 10.000 Tạp chí Khoa học có trong danh mục ISI. Trong số đó có: • Khoảng 6.800 trong SCI (Science Citation index) và SCIE (Science Citation index Expanded);• Khoảng 1860 trong SSCI (Social Science Citation index);• Khoảng 1200 trong A&HCI (Arts & Humanities Citation index).(nghệ thuật và nhân văn) Mỗi năm ban biên tập Thomson xem xét hơn 2000 tạp chí và chỉ có từ 10% đến 12% Tạp chí được lựa chọn vào ISI. Việt Nam cho đến nay vẫn chưa có một Tạp chí Khoa học nào lọt vào danh sách xếp hạng danh mục ISI.B. Phương pháp thực nghiệm Thu thập thông tin qua quan sát trong điều kiện gây biến đổi đối tượng khảo sát và môi trường xung quanh có chủ định. Phân loại thực nghiệm. Trong phòng thí nghiệm: chủ động tạo dựng được các mô hình thực nghiệm và khống chế được các tham số. Hạn chế là không thể tạo ra đầy đủ những yếu tố của môi trường thực. Tại hiện trường: tiếp cận được các yếu tố hoàn toàn thực. Hạn chế là về khả năng khống chế các tham số và điều kiện nghiên cứu. Trong quần thể xã hội: được thực hiện trên một cộng đồng người, trong những điều kiện sống của họ. Loại thực nghiệm này được sử dụng trong nghiên cứu khoa học xã hội, y học, tổ chức quản lý.Các loại thực nghiệm. - Thực nghiệm trên mô hình: Mô hình toán học- Lập mô hình theo ngôn ngữ toán học và sử lý trên máy tính trước khi đưa vào phòng thí nghiệm. Mô hình vật lý- mô phỏng đối tượng bằng vật liệu nhân tạo với qui mô nhỏ và có tính chất vật lý tương đồng. Mô hình sinh học – thay nghiên cứu cơ thể người trên những động vật khác. Mô hình xã hội- sử dụng trong nghiên cứu khoa học xã hội (các lớp học thí điểm, các phương pháp quản lý thí điểm). C. Phương pháp phi thực nghiệmQuan sát. - Phương pháp quan sát : quan sát liên tục, quan sát định kỳ hay quan sát theo chu kỳ; quan sát mô tả, quan sát phân tích. - Phương tiện quan sát: trực tiếp (xem nghe), ghi băng hình, đo lường (máy đo địa chấn, xét nghiệm máu). Phỏng vấn. - Đối tượng phỏng vấn: chọn đối tượng khách quan theo chủ đề nghiên cứu.- Câu hỏi phỏng vấn: hệ thống câu hỏi chuẩn bị trước và các câu hỏi tình thế. Nên hỏi vào việc đối tượng được hỏi đang làm, tránh câu hỏi đánh giá và nhạy cảm.- Các loại phỏng vấn: chuẩn bị trước, không chuẩn bị trước, trao đổi trực tiếp, qua điện thoại.Phiếu điều tra. Lập bảng các câu hỏi điều tra phải thỏa mãn ba yêu cầu: Chọn mẫu, thiết kế câu hỏi và xử lý kết quả. - Chọn mẫu. Mẫu là đối tượng khảo sát được chọn từ khách thể. Các phương pháp chọn mẫu: lấy mẫu ngẫu nhiên- mỗi đơn vị lấy mẫu có cơ hội hiện diện trong mẫu bằng nhau; lấy mẫu hệ thống-một đối tượng nghiên cứu gồm nhiều đơn vị được đánh số. Lấy một số bất kỳ làm khoảng cách mẫu, cộng vào số thứ tự của mẫu đầu tiên (Vd. 100 trường phổ thông được đánh số ngẫu nhiên và lấy số 10 làm khoảng cách mẫu. Phát phiếu bắt đầu từ số 1, sau đó cộng với 10 là phát phiếu cho trường tiếp theo); lấy mẫu phân tầng (lớp)-đối tượng được chia thành nhiều lớp, mỗi lớp có đặc trưng đồng nhất; lấy mẫu hệ thống phân tầng- đối tượng gồm nhiều tập hợp không đồng nhất. Nguyên tắc chung là mỗi tập con đêu phai lấy ngẫu nhiên. - Thiết kế câu hỏi: đảm bảo khai thác cao nhất ý kiến cá nhân của từng người được hỏi; đặt câu hỏi vào những công việc cụ thể đến mỗi cá nhân; tránh câu hỏi đánh giá về người khác; phân tích cơ cấu xã hội-phân tích ý kiến các tầng lớp xã hội khác nhau; hệ thống câu hỏi được xếp theo thứ tự logic và theo phép suy luận.- Xử lý kết quả. Sử lý dựa trên cơ sở thống kê hoặc theo phương pháp có sẵn đã được lập trình cho máy tính.Hội nghị khoa học.Semenar khoa học. Sinh hoạt khoa học thường kỳ của các nhóm nghiên cứu. Cách tổ chức một semensr khoa học trong các cơ sở khoa học.Workshop. Những chuyên gia có uy tín được mời đến trình bày chuyên đề. Người tham dự được mời đến chủ yếu để học tập, cũng có thể được được trình bày báo cáo hoặc thảo luận.Conference. Tổ chức nhằm tổng kết một giai đoạn nghiên cứu theo một hướng nghiên cứu khoa học. Tập hợp lực lượng cho những nghiên cứu mới và quan trọng. Thường có phiên toàn thể coa các báo cáo mời là những chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu của hội nghị. Các tiểu ban sẽ có một số báo cáo được chỉ định và được thảo luận sâu một số chuyên đề.Congress. Đại hội khoa học thường có mục tiêu ở tầm chiến lược, như tổng kết một giai đoạn nghiên cứu của một ngành, địa phương, một quốc gia, liên quốc gia, quốc tế. Ra tuyên bố của một hướng nghiên cứu lớn, tập hợp lực lượng nghiên cứu mới và quan trọng, đưa khuyến nghị chính sách liên quan đến khoa học và công nghệ. Vd. ĐHTH ở VN-5 năm một lần, ĐHTH quốc tế 4 năm một lần (do hiệp hội toán học quốc tế tổ chức). Năm 2010 có 4 giải thưởng (Elon Lindenstrauss (Israel), Ngô Bảo Châu (Việt Nam/Pháp), Stanislav Smirnov, (Nga), Cédric Villani (Pháp)).II. LUẬN CHỨNG KHOA HỌC2.1. Đại cương về luận chứng khoa họcLuận cứ là cách thức , phương pháp tổ chức một phép chứng minh nhằm vạch rõ mối liên hệ giữa luận cứ khoa học với luận điểm khoa học. Có hai loại luận chứng: logic và ngoài logic-tiếp cận.Luận chứng logic bao gồm chuỗi các phép suy luận được liên kết theo một trật tự xác định.Luận chứng tiếp cận là sự lựa chọn, tìm cách thức xem xét sự kiện, có thể là toàn diện hoặc phiếm diện, để tìm được những thông tin tin cậy: tiếp cận hệ thống, tiếp cận lịch sử v.v. . 2.2. Xây dựng luận cứ khoa họcXử lý thông tin. Mục đích để xây dựng các luận cứ, khái quát hóa làm bộc lộ qui luật để chứng minh hoặc bác bỏ luận cứ.Xử lý thông tin định lượng là sử dụng thống kê toán học để xác định qui luật thống kê của tập hợp số liệu. Số liệu có thể được trình bày dưới các dạng: con số rời rạc, bảng số liệu, biểu đồ (hình cột, hình quạt,tuyến tính), đồ thị.Xử lý thông tin định tính là xử lý logic những phán đoán về bản chất các sự kiện và thể hiện các liên hệ logic của các sự kiện. Kết quả sẽ giúp người nghiên cứu mô tả được các bản chất của sự kiện dưới dạng sơ đồ hoặc biểu thức toán học (Vd. Phương trình truyền nhiệt, phương trình truyền sóng)Xư lý sai số. Sai số ngẫu nhiên-sai số do cảm nhận chủ quan của người quan sát, sai số kỹ thuật- sai số do các yếu tố kỹ thuật gây ra một cách khách quan, sai số hệ thống-sai số do qui mô hệ thống được nghiên cứu. Xử lý các sai số này phải dựa trên các yêu cầu thực tế nhất quán và cơ sở khoa học (xác suất thống kê). Vd. Giả sử ta muốn xác định tổng số cá có trong hồ, ta bắt đầu bằng cách bắt lên n con cá (ví dụ n=50), đánh dấu chúng, sau đó lại thả xuống hồ cho chúng lẫn với những con khác. Sau đó lấy một mẫu cá bất kỳ trong hồ, tính tỷ lệ p cá bị đánh dấu trong mẫu đó (ví dụ mẫu có 20 con trong đó có 2 con có dấu, p=1/10). Khi đó giá trị n/p (=500) là một ước lượng cho tổng số cá có trong hồ. Nếu trong mẫu không có con cá nào bị đánh dấu, ta thực hiện lại trên một mẫu khác.B. Kiểm chứng giả thuyết khoa họcChứng minh trực tiếp là hình thức suy luận logic, trong đó tính xác thực của giả thuyết được rút ra trực tiếp từ tính xác thực của tất cả các luận cứ.Chứng minh gián tiếp được sử dụng khi không có đủ luận cứ để khẳng định luận điểm. Có hai loại chứng minh gián tiếp: phản chứng-đặt ngược lại với giả thuyết ban đầu và loại trừ-loại trừ một số khả năng để còn lại khả năng cần khẳng định.Phương pháp bác bỏ giả thuyết là hình thức chứng minh để chỉ rõ sai lầm của một giả thuyết. Bác bỏ giả thuyết thực hiện hoàn toàn giống như phép chứng minh: bác bỏ trực tiếp và bác bỏ gián tiếp. Bác bỏ trực tiếp chỉ cần yêu cầu bác bỏ một trong ba yếu tố cấu thành cấu trúc logic: luận điểm sai hoặc luận cứ sai hoặc luận chứng sai.BT. 1. Chọn một bài báo khoa học trong lĩnh vực nghien cứu của mình để minh họa cho bài học.2. Phân tích một semenar trong cơ sở khoa học mình đang làm việc.Bài V. CÔNG TRÌNH KHOA HỌCBài báo khoa họcBáo cáo khoa họcSáchLuận văn khoa họcLuận án khoa họcI. Bài báo khoa họcBài báo khoa học là một công trình khoa học khẳng đinh một luận điểm khoa học của tác giả được công bố trên một tạp chí khoa học chuyên ngành. Cấu trúc của một bài báo khoa học được qui chuẩn bao gồm: - Tên bài báo: câu tiêu đề phản ánh cô đọng nhất nội dung nghiên cứu. - Tên các tác giả, nơi công tác, e-mail. - Tóm tắt nội dung (abstract): tóm tắt kết quả chính của bài báo. - Chỉ số phân loại lĩnh vực nghiên cứu: tùy từng loại tạp chí khoa học qui định. - Từ khóa (keywords). - Nội dung bài báo: đặt vấn đề-luận điểm khoa học, chứng minh luận điểm, kết luận (nếu cần). - Lời cám ơn (acknowledgments): cho các bài báo được tài trợ. Vd.” This research is funded by Vietnam national foundation for science and Technology development (NAFOSTED) under grant number 101.01-2011.30”. - Tài liệu tham khảo (refences).Các loại bài báo: bài báo tổng quan-được mời viết, bài báo công bố kết quả nghiên cứu mới, bài báo tốm tắt kết quả.ISSN (International Standard Serial Number) là mã số chuẩn quốc tế cho xuất bản phẩm nhiều kỳ. Khi đã có chỉ số ISSN tạp chí sẽ được quốc tế thừa nhận chính thức và giới thiệu trên quy mô toàn cầu. Khác với sự xét chọn và phân loại theo chất lượng tạp chí khoa học ISI (Mỹ) hoặc Scopus của Nhà xuất bản Elsevier (Hà Lan), chỉ số ISSN của một tạp chí không liên quan đến chất lượng khoa học của các bài báo được đăng ở trong đó.Phân loại ISI. Viện Thông tin Khoa học (Institute for Scientific Information, ISI, Mỹ). ISI được thành lập từ năm 1960. Điểm quan trọng nhất tạo nên tên tuổi của ISI là việc đưa ra đánh giá tổng quan khách quan và minh bạch một công trình khoa học, một tạp chí khoa học hay một nhà khoa học chỉ bằng một con số. Hiện nay ISI là cơ quan có uy tín và duy nhất đánh giá bao quát tất cả các lĩnh vực khoa học và có phân loại. Liên Hợp Quốc, các Chính phủ và các Tổ chức Quốc tế thường sử dụng thống kê của ISI trong quản lý và hoạch định các chính sách khoa học. Thống kê của Việt Nam về khoa học nếu không theo ISI thì sẽ bị lệch so với thống kê của các Tổ chức Quốc tế. Quỹ NAFOSTED Việt Nam đang sử dụng tiêu chuẩn ISI như là một tiêu chí cứng để quyết định việc tài trợ nghiên cứu cho một nhà khoa học.ISI lúc đầu (năm 1960) chỉ bao gồm tập hợp SCI (Science Citation Index) với khoảng khoảng 4.000 tạp chí khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ có chất lượng cao và truyền thống lâu đời nhất trên thế giới ( Về sau SCI mở rộng thành tập hợp SCIE (Science Citation Index Expanded) với khoảng 7.000 tạp chí khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ xuất bản từ năm 1900 đến nay ( Hiện nay, ISI còn bao gồm tập hợp SSCI (Social Science Citation Index) với hơn 2.000 tập chí xuất bản từ năm 1956 đến nay và A&HCI (Arts & Humanities Citation Index) với hơn 1.200 tập chí xuất bản từ năm 1975 đến nay. Như vậy, ISI là tập hợp bao hàm cả SCI, SCIE, SSCI và A&HCI với tổng cộng khoảng 10.000 tạp chí khoa học có chất lượng cao, trong tổng số hàng trăm nghìn tạp chí "thượng vàng hạ cám" trên thế giới. Mỗi năm ban biên tập Thomson xem xét hơn 2000 tạp chí và chỉ có từ 10% đến 12% Tạp chí được lựa chọn vào ISI. Việt Nam cho đến nay vẫn chưa có một Tạp chí Khoa học nào lọt vào danh sách xếp hạng danh mục ISI.Chất lượng của các tạp chí ISI chủ yếu được đánh giá dựa trên qui trình kiểm duyệt để đăng bài và các thống kê về chỉ số được trích dẫn của các bài báo đăng trên tạp chí đó thông qua chỉ số ảnh hưởng (Impact Factor, IF). Sơ đồ mô tả sự phân loại tạp chí khoa học theo ISI và chỉ số ISSN đối với tạp chí như sau ISBN SSCI (2.000) A&HCI (1.200) ISSN (1,3 tri?u) SCI (4.000) SCIE (7.000) ISI (10.000) Phân loại ScopusScopus (được xây dựng từ tháng 11 năm 2004) của Elsevier (Hà Lan). Để được liệt kê vào danh sách Scopus, các tạp chí cũng được lựa chọn nghiêm ngặt. Số lượng tạp chí nằm trong Scopus gần gấp đôi số lượng nẳm trong ISI, nhưng không bao gồm tất cả mà chỉ chứa khoảng 70% số lượng tạp chí của ISI. Scopus chỉ bao gồm các bài báo xuất bản từ năm 1995 trở lại đây. Cách đánh giá chất lượng các tạp chí của Scopus cũng dựa vào chỉ số ảnh hưởng IF, nhưng trang web của Scopus ( rất tiện ích khi sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, từ tra cứu tài liệu đến đánh giá tình hình nghiên cứu khoa học của các cá nhân và các cơ sở đào tạo, nghiên cứu. Các số liệu của Scopus đã được tổ chức xếp hạng (thế giới) các cơ sở nghiên cứu khoa học (SCIMAGO) ( sử dụng để đánh giá, xếp hạng các tạp chí khoa học và các cơ sở khoa học. Tạp chí toán học Acta Mathematica Vietnamica của Viện Toán học lần đầu tiên được lọt vào danh sách Scopus. Các quốc gia trong cộng đồng ASEAN như Malaysia đã có 48 tạp chí và Thái Lan đã có 21 tạp chí được công nhận để xếp vào hệ thống Scopus. Chỉ số H và IFHệ số ảnh hưởng (Impact Factor, IF) là số lần trích dẫn hay tham khảo trung bình các bài báo mà tạp chí đã công bố hai năm trước. Những công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí có hệ số ảnh hưởng cao thường có chất lượng khoa học rất cao. Tuy nhiên, hệ số ảnh hưởng của tạp chí cũng còn phụ thuộc vào các ngành khoa học khác nhau. Năm 2005, nhà vật lý người Mỹ Jorge Hirsch đưa thêm chỉ số H (H-index). Một nhà khoa học có chỉ số H nếu trong số N công trình của ông ta có H công trình khoa học (H < N) có số lần trích dẫn của mỗi bài đạt được từ H trở lên. Như vậy, chỉ số H chứa đựng được cả hai thông tin: số lượng và tầm ảnh hưởng. Jorge Hirsch cũng đã xem xét chỉ số H cho một số nhà khoa học và đưa ra nhận xét rằng, các nhà khoa học Mỹ thành công (successful) sẽ có chỉ số H = 20 sau 20 năm; một nhà khoa học nổi tiếng (outstanding) sẽ có chỉ số H = 40 sau 20 năm; thiên tài khoa học (truly unique individual) sẽ có chỉ số H = 60 sau 20 năm. Jorge Hirsch cũng đã đề nghị rằng ở Mỹ một nhà khoa học có thể bổ nhiệm phó giáo sư (associate professor) nếu có chỉ số H khoảng 12 và giáo sư (full professor) nếu H vào khoảng 18. Các nhà khoa học được giải thưởng Nobel thường có chỉ số H trong khoảng từ 35 đến 100. Chỉ số H cao nhất của một số lĩnh vực khác như hoá - lý: 100, sinh học: 160, khoa học máy tính: 70, trong khi đó lĩnh vực kinh tế học có chỉ số H vào khoảng 40. II. Báo cáo khoa họcBáo cáo khoa học được đăng trong các kỉ yếu hội nghị khoa học. Các nhà nghiên cứu tham dự hội nghị và muốn trình bày kết quả nghiên cứu của mình thường gửi bài báo để đăng vào kỉ yếu của hội nghị. Có hai loại báo cáo trong nhóm này: nhóm 1 gồm những báo cáo đầy đủ (proceedings), và nhóm 2 gồm những báo cáo tóm lược (abstracts).Những báo cáo xuất hiện dưới dạng “proceeding papers” thường ngắn (khoảng 5 đến 10 trang). Tùy theo hội nghị, đại đa số những bài báo dạng này không phải qua hệ thống bình duyệt. Cần nhấn mạnh rằng đây không phải là những bài báo khoa học bởi vì chúng chưa xuất hiện trên các tập san khoa học và qua bình duyệt nghiêm chỉnh.Các báo cáo tóm lược là những bản tin khoa học ngắn (chỉ dài từ 250 chữ đến 500 chữ) mà nội dung là tóm tắt một công trình nghiên cứu. Những bản tin này cũng không qua hệ thống bình duyệt. Tuyển tập các báo cáo hội nghi khoa học: sau các hội nghị khoa học có thể xuất bản các kỷ yếu hội nghị dưới dạng tyển tập hoặc xin số của một tạp chí khoa học. Các báo cáo được chọn lọc đăng trong kỷ yếu này phải qua khâu bình duyệt của một ban biên tập gồm các nhà khoa học có uy tín. Các báo cáo khi đó mới có giá trị về mặt khoa học và được tính như một công trình khoa học dưới dạng báo cáo khoa học được đăng trong kỷ yếu khoa học. Như vậy có hai loại kỷ yếu khoa học cần được phân biệt: kỷ yếu trước khi có hội nghị khoa học chỉ mang ý nghĩa thông báo, còn kỷ yếu sau hội nghị khoa học được xuất bản đã qua bình duyệt và có ban biên tập có uy tín mới được tính là công trình khoa học.III. SáchSách chuyên khảo là một công trình khoa học hoàn thiện và hệ thống về một hướng nghiên cứu: đảm bảo tính hệ thống, tính hoàn thiện và tính mới đối với hướng nghiên cứu được trình bày. Các tài liệu tham khảo cho sách là các công trình khoa học chuyên về một lĩnh vực hoặc có liên quan. Sách chuyên khảo có thể do một hoặc một nhóm tác giả. Sách giáo trình. Sách được viết để giảng dạy cho các bộ môn trong c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_giang_phuong_phap_luan_nghien_cuu_khoa_hoc_nguyen_manh_h.pptx