Hạn chế và rủi ro:
Xuất hiện các đối thủ cạnh tranh hiệu quả hơn: khi các đối thủ đã quen dần với việc
doanh nghiệp thực thi chiến lược chi phí thấp thì họ sẽ có những điều chỉnh để cạnh
tranh hiệu quả hơn theo 2 hướng:
o Cải tiến công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại hơn để có thể hạ thấp dần cấu
trúc chi phí.
o Nhắm đến một phân đoạn thị trường nhỏ hơn và triển khai chiến lược tập trung
bằng chi phí hay khác biệt hoá (xem mục 4.2.4)
Thay đổi về công nghệ: làm cho những đầu tư lớn hoặc những kinh nghiệm học hỏi
không còn ý nghĩa hay giá trị nữa. Khi những công nghệ mà doanh nghiệp mới đầu tư
đã trở nên lạc hậu, tuy nhiên doanh nghiệp lại không thể ngay lập tức nâng cấp, vì giá
trị của những công nghệ trước lớn cho nên việc cắt giảm chi phí dựa vào công nghệ
không thực sự hiệu quả.Bài 4: Chiến lược cấp kinh doanh
v1.0 70
Doanh nghiệp bỏ qua, không đáp ứng được sự thay đổi vì thị hiếu của khách hàng:
vì quá tập trung chú ý đến việc kiểm soát chi phí cho nên công ty sẽ gặp nhiều
khó khăn trong việc nhận dạng được những thay đổi về sản phẩm hoặc marketing
cần có để thoả mãn được thị hiếu của khách hàng.
Một ví dụ cổ điển cho các đe dọa đối với doanh nghiệp triển khai chiến lược dẫn đầu
về chi phí là trường hợp của công ty sản xuất xe ôtô Ford Motor Company hồi thập
niên 1920. Bằng việc giới hạn những kiểu xe và các biến thể, đầu tư các thiết bị tự
động hoá cao độ, và kiên trì theo đuổi mục tiêu chi
phí thấp bằng con đường chuyên tâm học hỏi, Ford đã
đưa sự dẫn đầu về giá cả của mình đạt đến tầm mức
không có đối thủ. Sự học hỏi ấy được tình trạng thiếu
những thay đổi về kiểu dáng trợ giúp. Tuy nhiên, khi
thu nhập tăng lên, nhiều khách hàng đã có một chiếc
xe và đang tính đến chuyện mua một chiếc nữa thì thị
trường bắt đầu đặt nặng vào những yêu cầu về phong
cách, thay đổi kiểu dáng, sự tiện nghi, và một không gian kín thay vì thoáng cho một
chiếc xe. Khách hàng sẵn sàng trả một mức giá cao hơn để có những đặc tính này.
General Motor đã sẵn sàng để khai thác sự thay đổi này với đủ loại kiểu dáng. Trong
thực trạng những khắc nghiệt được tạo ra bởi những khoản đầu tư khổng lồ vào việc
giảm thiểu phí tổn cho một kiểu dáng đã lỗi thời, Ford phải đối diện với những phí
tổn khổng lồ vì phải điều chỉnh về mặt chiến lược cạnh tranh.
20 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 541 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Quản trị chiến lược - Bài 4: Chiến lược cấp kinh doanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa bộ ba nhân tố "thị trường/cạnh tranh/công nghệ" là đặc thù của
phân đoạn chiến lược. Một SBU có thể coi như một doanh nghiệp độc lập với
những nguồn lực và năng lực riêng biệt, hoạt động trên những thị trường riêng biệt
và với những nhân tố cạnh tranh (KFS) riêng biệt.
Bài 4: Chiến lược cấp kinh doanh
v1.0 64
Bảng 4.2: Các tiêu chí phân đoạn chiến lược
Nguồn: K. Scholes & G. Johnson
Cùng SBU Khác SBU
KFS Tương đồng Khác biệt
Các tiêu chí bên ngoài:
Khách hàng
Thị trường tối ưu
Phân phối
Đối thủ
Giống nhau
Giống nhau
Giống nhau
Giống nhau
Khác nhau
Khác nhau
Khác nhau
Khác nhau
Các tiêu chí bên trong:
Công nghệ
Năng lực
Năng lực cộng sinh
Tương tự
Tương tự
Cao
Khác nhau
Khác nhau
Thấp
Chuỗi giá trị Chỉ một chuỗi giá trị Nhiều chuỗi giá trị
4.1.3. Khó khăn của phân đoạn chiến lược
Khả năng sinh lời ban đầu không đảm bảo rằng doanh nghiệp đã tiến hành phân đoạn
chiến lược chính xác. Lợi nhuận trên mức bình quân của một hoạt động kinh doanh có thể
hoặc không thể công nhận sự tồn tại có giá trị của một đoạn chiến lược (SBU).
Lợi nhuận không đảm bảo rằng SBU đó có thể duy trì và phát triển được lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã nhận ra rằng sự tập trung vào một
SBU có khả năng sinh lời trên mức trung bình trong ngắn hạn có thể dẫn tới sự sụt giảm
mạnh của doanh nghiệp trong tương lai. Trong trường hợp này doanh nghiệp cần phải tổ
chức phân đoạn lại các đơn vị kinh doanh của mình.
Ví dụ: Những năm đầu thập kỉ 60, Anh và Mỹ là các nhà sản xuất chủ yếu loại môtô
phân khối lớn. Lúc đó Nhật chỉ sản xuất môtô có phân khối nhỏ. Giai đoạn này, các
nhà sản xuất ở cả Anh và Mỹ đều quyết định rằng “những chiếc siêu môtô” (những xe
máy có dung tích máy cực lớn trên 500 phân khối) là
một đơn vị chiến lược có giá trị hơn hẳn các loại xe
nhỏ hơn. Bởi vậy họ đã bỏ hẳn thị phần xe máy dung
tích nhỏ cho người Nhật. Giả thiết đánh giá về tầm
mức của phân khúc chiến lược này là sai lầm. Trên
thực tế, không có rào cản thực sự nào tách rời việc
thiết kế, sản xuất, tiếp thị và phân phối xe máy phân
khối lớn và xe máy phân khối nhỏ. Các doanh nghiệp như
Honda, Yamaha đã được cho phép độc chiếm thị trường
xe máy phân khối nhỏ. Từ đó, họ đã có thể xây dựng một
lợi thế cạnh tranh đáng kể và mở rộng chuyển giao sang tất cả các chủng loại môtô.
Kinh nghiệm chỉ ra rằng nếu phân đoạn chiến lược không hợp lý sẽ dẫn đến chiến
lược thất bại, trong khi đó một phân đoạn hợp lý sẽ trở thành 1 vũ khí để thành công.
Tuy nhiên, trong thực tế không có 1 phương pháp tuyệt đối chính xác để thành công.
Chính vì thế quản trị chiến lược được coi như 1 nghệ thuật hơn là 1 môn khoa học.
Mặc dù vậy trong mọi trường hợp phân đoạn chiến lược được coi như yếu tố
Bài 4: Chiến lược cấp kinh doanh
v1.0 65
không thể thiếu để tiến hành quản lý tập hợp các hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Nhiệm vụ của nhà quản trị chiến lược của bất kỳ doanh nghiệp nào là
phải tự mình trả lời cho câu hỏi: Những đơn vị kinh doanh chiến lược khác nhau của
chúng ta là gì?
4.2. Các chiến lược cạnh tranh tổng quát
4.2.1. Bản chất chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những thuật ngữ bắt đầu được
phổ biến trong các sách l ý luận và thực tiễn quản trị kinh doanh từ những năm 60 thế
kỷ trước ở các nước tư bản Châu Âu và Châu Mỹ, từ nửa cuối những năm 90 của thế
kỷ trước ở Việt Nam. Có nhiều cách nhìn nhận về chiến lược kinh doanh khác nhau
tùy theo giai đoạn phát triển, bối cảnh và tình thế ngành kinh doanh cụ thể. Tuy nhiên
có thể khái quát một cách hiểu phổ biến: chiến lược kinh doanh còn được gọi là chiến
lược cạnh tranh hay đơn giản là chiến lược định vị về vị thế, được hiểu là "các công
cụ, giải pháp, nguồn lực để triển khai chiến lược nhằm đạt được các mục tiêu dài hạn
của một doanh nghiệp" (Alan Rowe, 1993).
Về mục tiêu, chiến lược kinh doanh có tiêu điểm ở việc tăng cường vị thế cạnh tranh
trong dài hạn của các SBU của doanh nghiệp trong một ngành kinh doanh xác định
hoặc trên một thị trường mục tiêu xác định của doanh nghiệp đó. Vì vậy chiến lược
kinh doanh có thể có tính cạnh tranh (đua tranh với tất cả các đối thủ cạnh tranh về
một lợi thế nào đó trong cung ứng các giá trị, chi phí hay khác biệt hóa) hoặc có tính
hợp tác (liên kết với một hoặc một vài đối tác để dành được một lợi thế so với các
đối thủ cạnh tranh khác) hoặc đồng thời cả hai (cạnh tranh và hợp tác). Chiến lược
kinh doanh luôn luôn đặt vấn đề doanh nghiệp hoặc các SBU của nó phải cạnh tranh
hoặc hợp tác ra sao trong một ngành kinh doanh cụ thể.
4.2.2. Mô hình các chiến lược cạnh tranh tổng quát
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong một ngành kinh doanh trong dài hạn sẽ
phụ thuộc vào khả năng định vị hay khả năng tạo lập được một lợi thế cạnh tranh
bền vững hay không? Mặc dù có rất nhiều chiến lược cạnh tranh khác nhau, song
một cách khái quát có thể sử dụng cách tiếp cận cơ bản của M. Porter trong việc
xác định loại hình chiến lược cạnh tranh, bao gồm 3 loại: chiến lược dẫn đầu về
chi phí, chiến lược khác biệt hóa và chiến lược tập trung. M. Porter gọi 3 loại hình
chiến lược cạnh tranh này là các chiến lược tổng quát vì chúng có thể áp dụng cho
tất cả các hoạt động hay ngành kinh doanh khác nhau.
M. Porter đã lập luận rằng: cho dù doanh nghiệp có thể sở hữu nhiều điểm
mạnh/yếu trước các đối thủ khác nhau, nhưng tựu trung lại có 2 nguồn lợi thế cạnh
tranh chủ yếu: lợi thế bằng chi phí thấp hoặc lợi thế do khác biệt hóa về sản
phẩm/dịch vụ. Hai loại lợi thế cạnh tranh cơ bản này kết hợp với phạm vi hoạt
động của một doanh nghiệp đang theo đuổi sẽ cho phép tạo ra 3 chiến lược cạnh
tranh tổng quát: chiến lược dẫn đầu về chi phí (Cost Leader), chiến lược khác biệt
hóa (differentiation) và chiến lược tập trung "focus" (M. Porter, 1986). Chiến lược
Bài 4: Chiến lược cấp kinh doanh
v1.0 66
tập trung lại có 2 biến thể: tập trung vào chi phí và tập trung vào khác biệt hóa.
Các chiến lược cạnh tranh này được thể hiện trong hình 4.1 dưới đây.
Chiến lược dẫn đầu về chi phí
Chiến lược khác biệt hóa
Chiến lược tập trung bằng chi phí
Chiến lược tập trung bằng khác biệt hóa
Hình 4.1: Các chiến lược cạnh tranh tổng quát
Nguồn: M.Porter 1986
Ý tưởng làm nền tảng cho khái niệm về các chiến lược cạnh tranh tổng quát là: lợi
thế cạnh tranh là tâm điểm của mọi chiến lược và để đạt được lợi thế doanh nghiệp
cần phải lựa chọn lợi thế nào và trong phạm vi nào? Chiến lược dẫn đầu về chi phí
và khác biệt hóa tìm kiếm lợi thế cạnh tranh trong phạm vi rộng của ngành hoặc
phân khúc ngành kinh doanh. Trong khi đó chiến lược tập trung lại hướng tới lợi
thế cạnh tranh trong những phân khúc hẹp của ngành kinh doanh.
Mỗi một chiến lược cạnh tranh tổng quát là kết quả của sự lựa chọn nhất quán của
doanh nghiệp về loại sản phẩm cung ứng, phạm vi thị trường cung ứng và đặc biệt
các khả năng tạo ra sự khác biệt. Việc lựa chọn và triển khai một chiến lược cạnh
tranh sẽ phải cân nhắc sự khác biệt giữa các ngành và thị trường cụ thể của doanh
nghiệp. Chúng ta sẽ nghiên cứu lần lượt các chiến lược này.
4.2.3. Chiến lược dẫn đầu về chi phí (Cost Leader Strategy)
4.2.3.1. Khái niệm
Chiến lược dẫn đầu về chi phí là tổng thể các
hành động nhằm cung cấp các sản phẩm/dịch vụ có
các đặc tính được khách hàng chấp nhận với mức chi
phí thấp nhất trong mối quan hệ với tất cả các đối thủ.
Mục tiêu của chiến lược dẫn đầu về chi phí là
hướng tới mức tổng chi phí thấp nhất trong ngành.
Lợi thế chi phí so với các đối thủ sẽ tạo ra sự hấp
dẫn khách hàng và cho phép doanh nghiệp giành
được thị phần lớn hơn và sẽ có mức lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Trong
trường hợp doanh nghiệp hoạt động rộng và phục vụ nhiều phân khúc ngành, chiến
lược dẫn đầu về chi phí sẽ đem lại cho doanh nghiệp lợi nhuận trên mức trung bình
của ngành mặc dù trong ngành ấy đã có sự hiện diện của các tác động cạnh tranh
mạnh mẽ. Nguồn gốc về lợi thế chi phí thì khác nhau tùy theo từng ngành và phụ
thuộc vào cấu trúc cạnh tranh của ngành đó. Doanh nghiệp lựa chọn chiến lược
dẫn đầu về chi phí có thể đạt được các lợi thế cạnh tranh sau:
Nguồn lợi thế cạnh tranh
Chi phí thấp Khác biệt hóa
Ph
ạm
v
i c
ạn
h
tr
an
h
H
ẹp
Rộ
ng
Bài 4: Chiến lược cấp kinh doanh
v1.0 67
o Một là, doanh nghiệp có thể đòi hỏi mức giá thấp hơn so với các đối thủ mà
vẫn có được cùng mức lợi nhuận, bởi vì có chi phí thấp hơn.
o Hai là, doanh nghiệp sẽ có thể trụ vững hơn so với các đối thủ một khi số
lượng đối thủ trong ngành tăng và buộc các công ty cạnh tranh bằng giá.
Chiến lược dẫn đầu về chi phí thấp đã mở đường đến thành công cho nhiều doanh nghiệp.
Ví dụ: Khi mới xuất hiện lần đầu vào các năm
1950 và 1960, các nhà bán lẻ hạ giá ở Mỹ như E.J.
Korvette và sau này là Kmart đã thâu tóm phần
lớn thị trường bán lẻ từ tay các cửa hàng bách hóa
truyền thống và các cửa hàng đặc chủng. Thành
công của họ nhờ vào khả năng cung cấp sản phẩm
với giá thấp, và họ đã phát triển khả năng ấy bằng
cách giữ cho cơ cấu chi phí của mình luôn thấp hơn chi phí của các đối thủ cạnh
tranh truyền thống. Những công ty hạ giá này lần lượt bị thay thế bởi Wal-Mart
và Target vì cả hai đã có thể thực hiện một chiến lược chi phí thấp hiệu quả hơn
nhiều.Trong chiến lược này, sản phẩm hay dịch vụ mà Wal-Mart hay Target
cung cấp hoàn toàn tương đồng với sản phẩm hay dịch vụ của các đối thủ. Chẳng
hạn, các mặt hàng được Wal-Mart và Target bán có thể lấy từ nhiều nguồn khác
nhau như pin Duracell, ống nhòm Minolta, máy ảnh Canon, phim Kodak, quần
jeans Wrangler, dầu gội Palmolive, lưỡi dao cạo râu Gillette, bút Bic, ... Vậy tại
sao nhiều người lại thích tìm đến Wal-Mart và Target để mua những món hàng
này mà bỏ qua những địa điểm bán hàng của đối thủ? Vì họ tin rằng họ sẽ mua
được cũng những món hàng như vậy nhưng với giá rẻ hơn. Hai tập đoàn này đã
được xây dựng đặc biệt với lợi thế chi phí thấp như một phần chính trong chiến
lược tổng thể của mình.
4.2.3.2. Các điều kiện triển khai
Chiến lược dẫn đầu về chi phí đòi hỏi các điều kiện để triển khai thành công, cụ thể là:
Thị phần lớn: chiến lược dẫn đầu về chi phí đòi hỏi phải có một thị phần tương đối
rộng lớn. Vì khi đó sẽ cho phép doanh nghiệp tiết kiệm trong mua hàng với số
lượng lớn, trở thành khách hàng chính đối với nhà cung ứng. Do đó, dẫn tới gia
tăng quyền lực lên bên bán và điều này sẽ giúp giảm phí tổn thêm một lần nữa, do
tận dụng được lợi thế theo quy mô.
Mức độ khác biệt hóa sản phẩm thấp: tạo sự
khác biệt thường rất tốn kém, nếu doanh nghiệp
đầu tư cho việc tạo sự khác biệt sẽ làm tăng chi
phí. Doanh nghiệp lựa chọn chiến lược này nên
duy trì mức chi phí sao cho mức độ khác biệt
không thấp hơn quá nhiều so với các đối thủ tạo
ra sự khác biệt. Thực chất, doanh nghiệp sẽ chỉ
đáp ứng thị trường các đặc tính khi mà khách
hàng đã thật sự cần. Ví dụ: doanh nghiệp dẫn
đầu về chi phí trong ngành sản xuất ôtô chỉ bổ
Bài 4: Chiến lược cấp kinh doanh
v1.0 68
sung tính năng chống bó cứng phanh ABS khi mà họ nhận thấy khách hàng
thực sự cần tính năng này.
Năng lực sản xuất và đầu tư lớn: vì kinh doanh trên một thị trường lớn, nên
khối lượng sản phẩm bán ra lớn vì vậy cần phải có năng lực sản xuất tương
ứng để đáp ứng được điều này. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp khi
thực thi chiến lược này cần phải liên tục đầu tư lớn vào công nghệ, dây chuyền
sản xuất, nhà xưởng.
Năng lực quản trị sản xuất và tổ chức kỹ thuật công nghệ: do mục tiêu chủ yếu
của chiến lược dẫn đầu về chi phí là kiểm soát tuyệt đối cấu trúc về chi phí, cho
nên để có thể thi hành tốt chiến lược này cần phải có năng lực quản trị sản xuất
cũng như tổ chức kỹ thuật công nghệ tốt, biết khi nào thay đổi trang thiết bị,
biết bố trí và sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả để giảm chi phí sản xuất tới mức
thấp nhất.
Chính sách giá linh hoạt: do phạm vi cạnh tranh
lớn, nên chính sách giá của doanh nghiệp phải
linh hoạt để thích ứng với các tác động cạnh
tranh liên tục của thị trường. Dựa trên cơ sở chi
phí ban đầu của mình, kết hợp với việc phân tích
đối thủ khác, doanh nghiệp phải xây dựng cho
mình những mức giá khác nhau tại những thời
điểm khác nhau. Lúc này, doanh nghiệp phải chủ
động định giá và chấp nhận những lỗ lãi ban đầu để xây dựng thị phần.
Ví dụ: Tập đoàn bán lẻ Wal-Mart đã triển khai rất thành công chiến lược dẫn
đầu về chi phí trên một thị trường rộng lớn, toàn cầu. Cửa hàng đầu tiên của
Wal-Mart do Sam Walton khai trương năm 1962, bốn mươi năm sau Wal-Mart
đã có trên 4200 siêu thị trên toàn thế giới, lợi nhuận ròng năm 2001 đạt 6,67 tỷ
USD trên doanh số là 217,8 tỷ USD. Mỗi năm trung bình Wal-Mart đầu tư 2 tỷ
USD vào hệ thống máy tính và phần mềm thông tin để giữ cho việc kết nối trực
tiếp luôn luôn được thông suốt giữa 4200 siêu thị, 200 trung tâm phân phối và
hơn 5000 nhà cung cấp đại điện cho hơn 85.000 doanh nghiệp sản xuất.
Hệ thống đó mang tên "Cross Docking - Giao hàng chéo" và vận hành 24/24
giờ và 7/7 ngày. Công dụng của Cross Docking là cung cấp thông tin thời gian
thực "real time" để việc cung ứng luôn luôn kịp thời từ xe giao hàng đến thẳng
các quầy hàng của siêu thị. Với hệ thống này, các siêu thị không còn cần kho
chứa hàng mà các quầy hàng hết đến đâu sẽ được giao hàng ngay đến đấy.
Hệ thống thông tin nối mạng của Wal-Mart còn có chức năng thứ 2 mang tên
"data warehouse", cứ mỗi phút có đến 8,4 triệu thông tin về khách hàng từ 4200
siêu thị được chuyển về trung tâm lưu trữ. Thông tin về khách hàng được lấy
trực tiếp từ các mã vạch ở các mặt hàng khi khách trả tiền. Trên cơ sở đó, các
khuynh hướng tiêu dùng và thị hiếu của khách hàng được thường xuyên theo
sát để kịp thời điều chỉnh các chào hàng.
Với Wal-Mart, tiền, hàng hóa và thông tin hòa thành những dòng lưu chuyển
không ngừng nối liền doanh nghiệp với thị trường và khách hàng. Trên các
dòng lưu chuyển đó, giá thành các sản phẩm của Wal-Mart luôn được giữ thấp
Bài 4: Chiến lược cấp kinh doanh
v1.0 69
hơn tất cả các đối thủ cạnh tranh và khó có công ty nào theo kịp được sự phát
triển này.
4.2.3.3. Ưu điểm, hạn chế và rủi ro của chiến lược dẫn đầu về chi phí
Ưu điểm:
Nếu xảy ra chiến tranh giá cả, doanh nghiệp có cấu trúc chi phí thấp sẽ chịu đựng tốt
hơn: Khi các doanh nghiệp giành giật khách hàng của nhau, bằng cách giảm giá bán
sản phẩm hay dịch vụ thì rõ ràng các doanh nghiệp có
chi phí thấp sẽ chịu đựng việc này tốt hơn, do có chi
phí sản xuất tốt hơn, vì vậy giá bán ra của họ sẽ thấp
hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Khi cuộc chiến xảy
ra thì thiệt hại của nó gây ra đối với các đối thủ của
doanh nghiệp sẽ lớn hơn so với các doanh nghiệp chi
phí thấp. Tuy nhiên không có doanh nghiệp nào
muốn có một cuộc chiến tranh về giá cả, vì lúc đó
người thắng cũng chịu nhiều tổn thất. Về phía khách
hàng thì lâu dài họ cũng sẽ là người chịu thiệt. Ví dụ,
Coca Cola ban đầu tiến vào thị trường Việt Nam, họ đã liên tục giảm giá bán các sản
phẩm của mình, cho đến khi các hãng giải khát nước ngọt khác trong nước không thể
tiếp tục cạnh tranh được nữa ... Sau khi đã giành thắng lợi trong cuộc chiến này thì
Coca Cola lại bắt đầu tăng giá trở lại.
Dễ dàng chịu đựng được khi có sức ép tăng giá từ phía nhà cung cấp và phân phối: với
chi phí thấp của mình, cũng như phạm vi thị trường rộng cho nên khi các nhà cung
cấp và phân phối gia tăng sức ép đòi tăng giá thì các doanh nghiệp này cũng dễ dàng
thương lượng hơn với các nhà cung cấp vì tỉ lệ gia tăng giá thành của
sản phẩm sẽ không quá lớn so với mặt bằng chung.
Tạo ra rào cản gia nhập: vì khách hàng là những người rất nhạy cảm với giá cho nên
với giá bán thấp của mình, các doanh nghiệp thi hành chiến lược giá thấp đã tạo nên
một rào cản đối với các đối thủ khác định xâm nhập vào thị trường này khi khó khăn
trong việc lôi kéo khách hàng và lượng vốn đầu tư vào sản xuất.
Hạn chế và rủi ro:
Xuất hiện các đối thủ cạnh tranh hiệu quả hơn: khi các đối thủ đã quen dần với việc
doanh nghiệp thực thi chiến lược chi phí thấp thì họ sẽ có những điều chỉnh để cạnh
tranh hiệu quả hơn theo 2 hướng:
o Cải tiến công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại hơn để có thể hạ thấp dần cấu
trúc chi phí.
o Nhắm đến một phân đoạn thị trường nhỏ hơn và triển khai chiến lược tập trung
bằng chi phí hay khác biệt hoá (xem mục 4.2.4)
Thay đổi về công nghệ: làm cho những đầu tư lớn hoặc những kinh nghiệm học hỏi
không còn ý nghĩa hay giá trị nữa. Khi những công nghệ mà doanh nghiệp mới đầu tư
đã trở nên lạc hậu, tuy nhiên doanh nghiệp lại không thể ngay lập tức nâng cấp, vì giá
trị của những công nghệ trước lớn cho nên việc cắt giảm chi phí dựa vào công nghệ
không thực sự hiệu quả.
Bài 4: Chiến lược cấp kinh doanh
v1.0 70
Doanh nghiệp bỏ qua, không đáp ứng được sự thay đổi vì thị hiếu của khách hàng:
vì quá tập trung chú ý đến việc kiểm soát chi phí cho nên công ty sẽ gặp nhiều
khó khăn trong việc nhận dạng được những thay đổi về sản phẩm hoặc marketing
cần có để thoả mãn được thị hiếu của khách hàng.
Một ví dụ cổ điển cho các đe dọa đối với doanh nghiệp triển khai chiến lược dẫn đầu
về chi phí là trường hợp của công ty sản xuất xe ôtô Ford Motor Company hồi thập
niên 1920. Bằng việc giới hạn những kiểu xe và các biến thể, đầu tư các thiết bị tự
động hoá cao độ, và kiên trì theo đuổi mục tiêu chi
phí thấp bằng con đường chuyên tâm học hỏi, Ford đã
đưa sự dẫn đầu về giá cả của mình đạt đến tầm mức
không có đối thủ. Sự học hỏi ấy được tình trạng thiếu
những thay đổi về kiểu dáng trợ giúp. Tuy nhiên, khi
thu nhập tăng lên, nhiều khách hàng đã có một chiếc
xe và đang tính đến chuyện mua một chiếc nữa thì thị
trường bắt đầu đặt nặng vào những yêu cầu về phong
cách, thay đổi kiểu dáng, sự tiện nghi, và một không gian kín thay vì thoáng cho một
chiếc xe. Khách hàng sẵn sàng trả một mức giá cao hơn để có những đặc tính này.
General Motor đã sẵn sàng để khai thác sự thay đổi này với đủ loại kiểu dáng. Trong
thực trạng những khắc nghiệt được tạo ra bởi những khoản đầu tư khổng lồ vào việc
giảm thiểu phí tổn cho một kiểu dáng đã lỗi thời, Ford phải đối diện với những phí
tổn khổng lồ vì phải điều chỉnh về mặt chiến lược cạnh tranh.
4.2.4. Chiến lược khác biệt hoá
4.2.4.1. Khái niệm
Chiến lược cạnh tranh thứ hai là chiến lược khác biệt
hóa. Đây là chiến lược tìm kiếm cơ hội trở thành
"người duy nhất" trong một ngành kinh doanh theo
đánh giá của khách hàng về một vài đặc tính quan
trọng nào đó.
Chiến lược này nhấn mạnh sự lựa chọn một hoặc một
vài thuộc tính của sản phẩm/dịch vụ mà người mua
đánh giá cao, tiếp đó định vị là người duy nhất có thể
đáp ứng nhu cầu đó.
Khác biệt hóa sản phẩm có nhiều hình thức: thiết kế hoặc
hình ảnh nhãn hiệu, công nghệ, dịch vụ khách hàng,
Một cách lý tưởng, doanh nghiệp phải làm cho mình khác người ở một vài phương diện nào
đó. Doanh nghiệp có thể áp đặt một mức giá cao để tương xứng với sự độc đáo này.
Ngày nay, các doanh nghiệp áp dụng chiến lược tạo nên sự khác biệt. Hãy xem ngành công
nghiệp ô tô. Volvo giới thiệu đặc tính bền vững và an toàn để tạo nên sự khác biệt. Toyota
nổi tiếng về chất lượng, và gần đây hãng này lại tạo nên sự khác biệt với mô hình xe Prius
sử dụng động cơ hybrid "xăng - điện". Mini Cooper thì tuyên bố với khách hàng rằng thật
thú vị và đặc biệt khi dùng xe của họ. Porsche cũng làm cho mình khác biệt bằng cách tập
trung phát triển các xe thể thao hiệu suất cao. Trong khi GM cung cấp các loại xe phù hợp
Bài 4: Chiến lược cấp kinh doanh
v1.0 71
với ngân sách của mọi gia đình và Toyota tự tin tuyên bố chất lượng và độ tin cậy cao,
thì cả hai hãng này lại không tỏ ra hấp dẫn đối với những khách hàng quan tâm đến
tốc độ, sự nhanh nhẹn và cảm giác điều khiển. Porsche và Ferrari đã làm được điều
này thông qua chiến lược tạo nên sự khác biệt của mình.
Khác biệt hóa, nếu làm được là một chiến lược cạnh tranh cho phép doanh nghiệp
đứng vững được trên thị trường và đem lại lợi nhuận trên mức trung bình trong ngành,
bởi nó tạo ra được một vị thế phòng vệ tốt, từ đó giúp doanh nghiệp đối phó với tác
động của các lực lượng cạnh tranh trên thị trường, mặc dù theo một cách khác với
cách của chiến lược dẫn đầu về chi phí. Khác biệt hóa giúp cho doanh nghiệp không bị
ảnh hưởng nhiều bởi sự đối đầu cạnh tranh nhờ vào sự tín nhiệm, trung thành với nhãn
hiệu/ thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp của khách hàng và nhờ đó khách hàng
không đặt nặng vấn đề giá cả (giá của các sản phẩm có tính khác biệt cũng sẽ cao hơn
so với mức giá trung bình trong ngành).
Không thể xác định rõ khác biệt hóa nếu chỉ xem xét doanh nghiệp trên tổng thể, nó
xuất phát từ các hoạt động cụ thể mà doanh nghiệp thực hiện và phương pháp mà
doanh nghiệp tác động đến người mua. Nói cách khác, khác biệt hóa phải xuất phát từ
trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp. Hầu như mọi hoạt động giá trị đều có thể là
nguồn gốc tiềm năng cho sự khác biệt hóa. Hầu như mọi hoạt động tạo lập giá trị
trong chuỗi đều có thể là nguồn gốc, tiềm năng cho sự khác biệt hóa. Thu mua các
nguyên phụ liệu và những yếu tố đầu vào khác có thể tác động đến sản phẩm sau cùng
và theo đó là khác biệt hóa. Ví dụ như Heineken đặc biệt chú trọng đến chất lượng và
độ tinh khiết của các thành phần trong bia và họ luôn sử dụng loại men rất ổn định.
Một số doanh nghiệp khác lại thực hiện khác biệt hóa thông qua các hoạt động hỗ trợ.
Các hoạt động phát triển công nghệ có thể đưa đến những thiết kế sản phẩm có công
dụng khác biệt, duy nhất, độc đáo.
4.2.4.2. Các điều kiện triển khai
Năng lực marketing và R&D mạnh: để thực hiện
được chiến lược khác biệt hoá thì doanh nghiệp cần
phải có năng lực marketing và R&D mạnh để
nghiên cứu, phát triển và giới thiệu, truyền thông,
quảng cáo cho khách hàng của mình biết và chú ý
đến sự khác biệt đó của sản phẩm. Từ đó kích thích
nhu cầu của khách hàng đối với sản phẩm. Hãng
thang máy Otis đã làm cho sản phẩm của mình trở
nên khác biệt bằng cách nghiên cứu lắp thêm các
thiết bị dự báo từ xa. Vào giờ cao điểm ở các cao ốc văn phòng, việc thực hiện các
hoạt động bảo trì hoặc sửa chữa rất bất tiện. Trước tình hình đó, Otis đã sử dụng
thiết bị dự báo từ xa để lường trước những trở ngại có thể xảy ra và gửi nhân viên
đến trước từ sớm để thực hiện dịch vụ bảo trì vào những giờ mà thang máy được ít
người sử dụng. Hay như Oral - B đã tạo ra khác biệt khi tung ra những bàn chải
đánh răng có tính năng (màu sắc) nhắc nhở người sử dụng biết khi nào cần thay
bàn chải mới.
Khả năng đổi mới, sáng tạo và năng động: muốn giữ được sự khác biệt của sản
phẩm, cũng như không ngừng gia tăng các điểm khác biệt của sản phẩm, các dòng
Bài 4: Chiến lược cấp kinh doanh
v1.0 72
sản phẩm mới thì khả năng đổi mới, sáng tạo và năng động của doanh nghiệp phải
liên tục được phát huy, duy trì. Cứ sau vài năm Gillette lại tung ra thị trường một
loại dao cạo râu mới. Kể từ khi giới thiệu loại dao cạo 2 lưỡi (Trac II) Gillette đã
tung ra một loạt các loại dao cạo cải tiến như 2 lưỡi tự điều chỉnh (Atra), 2 lưỡi
chống thấm nước (Sensor), 3 lưỡi (Mach 3) và sau này là 5 lưỡi (Fusion). Lộ trình
khác biệt của sản phẩm của Gillette là: Cải tiến, Nâng cấp và Đổi mới.
4.2.4.3. Ưu điểm, hạn chế và rủi ro của chiến lược khác biệt hóa
Ưu điểm:
Khả năng áp đặt mức giá “vượt trội” so với đối thủ cạnh tranh: Do các sản phẩm
của doanh nghiệp có tính khác biệt hoá, và thu hút được một lượng lớn khách hàng
trung thành với các sản phẩm của mình. Nhờ đó, các khách hàng sẽ không đặt
nặng vấn đề giá cả đối với các nhãn hiệu sản phẩm yêu thích, điều này cho phép
doanh nghiệp định giá cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh trong ngành nhờ vào
tính khác biệt của sản phẩm.
Tạo ra sự trung thành của khách hàng: Chính nhờ có sự khác biệt trong sản phẩm
của mình so với các đối thủ khác, cho nên các khách hàng thoả mãn với tính khác
biệt trong sản phẩm sẽ trở thành những khách hàng trung thành của doanh nghiệp.
Tạo ra rào cản gia nhập: Khi doanh nghiệp thực hiện chiến lược cạnh tranh bằng
khác biệt hoá sản phẩm/dịch vụ thì họ đã tạo ra cho mình được hai lợi thế đó là sự
trung thành của khách hàng và tính duy nhất của sản phẩm trên thị trường. Đây
chính là hai rào cản rất khó vượt qua đối với bất kỳ một đối thủ nào khi muốn xâm
nhập vào thị trường.
Hạn chế và rủi ro:
Dễ bị đối thủ bắt chước: Theo thời gian sự bắt chước, học hỏi của đối thủ cạnh
tranh sẽ thu hẹp sự khác biệt trong sản phẩm tung ra thị trường. Khi Tide kết hợp
với Downy thì gần như ngay sau đó Omo cũng kết hợp với Comfort, hay dễ dàng
nhận ra hơn cả là sự bắt chước lồng ghép hương bạc hà vào kem đánh răng của các
hãng kem đánh răng. Đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_giang_quan_tri_chien_luoc_bai_4_chien_luoc_cap_kinh_doan.pdf