Một loại ruộng trong đó các giống cây trồng có góc lá nhỏ
so với thân chính và lá cây phân bố thẳng đứng, nhất là
cây cao sẽ bao gồm nhiều tầng lá. Nếu tính tổng cộng diện
tích lá của các tầng lại có thể lớn gấp 8- 10 lần diện tích lá
của “lớp đơn” của ruộng có tầng lá nằm ngang và ánh
sáng xuyên xuống sâu khá tốt vào các tầng lá phía dưới,
tuy cường độ chiếu sáng có giảm nhưng cũng đủ để QH.
Do vậy, Iqh của các lá trong ruộng này thấp hơn 2-5 lần
nhưng do có diện tích lá tham gia QH lớn gấp 8-10 lần so
với ruộng có lớp lá nằm ngang nên công QH tổng số vẫn
lớn hơn nhiều. Tuy nhiên khi nghiên cứu về QH của ruộng
mà giống cây trồng có lá thẳng đứng thì bộ lá hút các tia
sáng chiếu tới chưa hoàn hảo.
•Vì vậy, để tạo ra loại ruộng lý tưởng có đặc tính trung
gian giữa ruộng có lớp lá nằm ngang liên tục và ruộng mà
lá cây phân bố thẳng đứng thì tầng lá trên phải gần như
thẳng đứng để cho ánh sáng xuyên qua lớp lá phía dưới
mà lớp lá này có hướng không gian gần nằm ngang hút
thu ánh sáng. Từ kết quả nghiên cứu của Nitsporovits cho
thấy: Ruộng cây ngũ cốc có diện tích lá gần bằng
40.000m2/ha thì khoảng 50% diện tích phiến lá xếp theo
hướng tạo với mặt phẳng ngang một góc 90o -60o; 37%
góc 30o-60o và 30% góc 30o- 0o.
Nếu theo định hướng không gian này, các phiến lá trong
ruộng chiếm tất cả các vị trí có thể có để tiếp nhận ánh
sáng và lá đứng thẳng chiếm ưu thế. Đây là một trong
những kiểu cấu trúc ruộng thuận lợi cho QH để tạo NSsvh
và NSkt cao.
9 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 522 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Quang hợp quần thể, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7/18/15
1
I. HỆ SỐ SỬ DỤNG QUANG NĂNG CỦA
QUẦN THỂ CÂY TRỒNG
Theo kết quả nghiên cứu đã chứng minh: Quang hợp là quá trình cơ bản quyết
định năng suất cây trồng. Quang hợp tạo ra 90 -95% tổng số lượng chất khô
mà cây trồng tích lũy được trong suốt đời sống của mình
Mối liên quan giữa hoạt động của bộ máy quang hợp và năng suất cây trồng
được biểu diễn bằng phương trình sau
NSkt = (Fco2.L.Kf.Kkt).1,2,n (tạ/ha)
100.000
Muốn tăng năng suất cây trồng, cần phải điều khiển hệ quang hợp về thành
phần tạo nên hệ, cấu trúc hệ, hoạt tính của hệ
Trong điều kiện tối ưu quần thể cây trồng sử dụng được 5% năng lượng ánh
sáng để QH tạo NSSVH. Nhưng trên thực tế do điều kiện bất thuận nên cây
trồng chỉ sử dụng được 0,5-2% NLAS tới
Chứng minh cây sử dụng 5% (Lý thuyết)
- Trong suốt chu kỳ sống, cây nhận được 50% E của các
tia tới (50% không hấp thu được do: qua đất, phản lại...)
- Trong 50% thì chỉ ½ tia có lợi cho QH ---> như vậy chỉ
25% sử dụng được vào QH.
- Trong 25% này, để đồng hóa được 1 PT C02 cần 8 lượng
tử và cần 28% E ánh sáng (trong đó 8% tiêu hao do hô
hấp, còn lại 20% Tạo NSsvh (20% là của 25%) nên:
25% x 20%
HSSDNL ánh sáng = --------------- = 5%
100%
- Vì sao 28%: E ánh sáng các tia: Xanh= 65Kcalo/mol –
photon; đỏ 43 và trắng = 50Kcalo/mol
Ánh sáng trắng: 112x100 / 50x8= 28%
Nhà sinh lý thực vật thiên tài người Nga Timiriazev đã
nói: “Bằng cách điều khiển chức năng quang hợp, con
người có thể khai thác cây xanh vô hạn” và nhà sinh lý
thực vật Hà Lan Dewitt đã tính rằng nếu chỉ sử dụng 5%
năng lượng ánh sáng mặt trời, cây trồng đã cho năng suất
gấp 4-5 lần năng suất cao nhất hiện nay (vùng ôn đới
khoảng 125 tạ/ha, vùng nhiệt đới khoảng 250 tạ/ha).
Rõ ràng trồng trọt chính là ngành “Kinh doanh” năng
lượng mặt trời.
Phương trình quang hợp
H2O + CO2 [CH2O] + O2 – 112 KCal
II. CẤU TRÚC QUẦN THỂ CÂY TRỒNG VÀ
HOẠT ĐỘNG QUANG HỢP
- Ruộng là một quần thể gồm nhiều cá thể ảnh hưởng
qua lại lẫn nhau. Do đó nếu hệ số sử dụng quang năng của
quần thể cây trồng càng cao thì NSsvh càng cao.
- Theo tính toán toàn bộ thực vật trên trái đất hàng
năm tạo khoảng trên 120 tỷ tấn chất hữu cơ và với trên 6
tỷ người hiện nay đang sống cần gần 1 tỷ tấn sản phẩm
DD.
- Như vậy, vấn đề nguồn thực phẩm vẫn là một trong
những vấn đề gay cấn nhất của loài người. Tuy nhiên con
người có thể giải quyết được lương thực nếu có biện pháp
cải tạo đúng và sử dụng hợp lý chức năng QH của cây.
- Những biện pháp nâng cao NSsvh chính là các biện
pháp nâng cao hệ số sử dụng quang năng của quần thể
cây.
II. CẤU TRÚC QUẦN THỂ CÂY TRỒNG VÀ
HOẠT ĐỘNG QUANG HỢP
- Có nhiều biện pháp nâng cao hệ số sử dụng quang năng
của quần thể cây trồng nhưng mang tính quyết định:
+ Thông qua chỉ số LAI (m2 lá/ m2 đất) tối ưu
+ Thời gian hoạt động QH dài nhất để có thế năng QH
đồng ruộng lớn nhất (m2 lá/ngày/ha).
+ Các giống cây trồng khác nhau có LAI và thế năng
QH cũng khác nhau, vì vậy cấu trúc và hoạt động QH của
quần thể cây trồng phụ thuộc rất nhiều vào hình thái lá,
góc lá so với thân, chiều cao, của mỗi giống cây trồng.
Lớp Học Phần VNUA ( Khoa Nông Học ) - Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam
https://sites.google.com/site/lophocphank57vnua/
7/18/15
2
II. CẤU TRÚC QUẦN THỂ CÂY TRỒNG VÀ
HOẠT ĐỘNG QUANG HỢP
2.1 Cấu trúc của cây trồng lý tưởng
Cây trồng lý tưởng là cây sử dụng bức xạ mặt trời với hiệu quả
tốt nhất
+ Cây trồng khác nhau có chiều cao cây và mục đích sử dụng khác
nhau nhưng nhìn chung giống cây cao sẽ bị che cớm lẫn nhau
khi tăng mật độ trồng và tăng dinh dưỡng, cây dễ bị đổ,NS
giảm
+ Lá cây có cường độ quang hợp cao và thời gian quang hợp dài:
Cây có S lá phù hợp và chỉ số diện tích lá thích hợp thì Iqh sẽ
quyết định năng suất sinh vật học.
Trên thực tế, có giống Iqh không cao nhưng cho NSsvh cao vì
giống này có tổng S lá tham gia Qh tăng và thời gian QH dài.
+ Giống có cấu trúc hình thái thuận lợi
Cây phải có chiều cao trung bình, dáng cây gọn, lá dài rộng
trung bình và đứng.
II. CẤU TRÚC QUẦN THỂ CÂY TRỒNG VÀ
HOẠT ĐỘNG QUANG HỢP
để có hệ số tiêu sáng nhỏ, ánh sáng có thể xuyên sâu hơn xuống các
tầng lá dưới nên nâng cao được chỉ số diện tích lá tối ưu. Muốn vậy,
cây phải có chiều cao trung bình, dáng cây gọn, lá dài rộng trung
bình và đứng (góc giữa lá với thân lá 30o) là thích hợp, phù hợp
với định luật Bia (Monsi và Saeki, 1952):
IF = Io. e
-KF
Trong đó: Io: Cường độ tia sáng tới trên bề mặt ruộng
IF: Cường độ ánh sáng trong quần thể cây trồng ở tầng
lá có chỉ số diện tích lá F.
K: Hệ số hấp thu ánh sáng của lá (hệ số tiêu sáng)
F : Chỉ số diện tích lá.
e : Cơ số của logarit tự nhiên.
Ví dụ: Đối với ruộng lúa người ta thường tính hệ số tiêu sáng K của
ruộng để tìm ra chế độ ánh sáng của ruộng. Hệ số K có ý nghĩa quan
trọng nhất khi ruộng lúa đạt chỉ số diện tích lá đạt cao nhất.
II. CẤU TRÚC QUẦN THỂ CÂY TRỒNG VÀ
HOẠT ĐỘNG QUANG HỢP
Hệ số K ở gốc cây lúa thay đổi từ 0,5 đến 0,9 và nó tăng dần lên
theo thời gian sinh trưởng của cây, hệ số K nhỏ nhất 0,3- 0,6 rơi vào
giữa thời kỳ sinh trưởng ở ruộng có năng suất cao. Giống có khả
năng chịu phân cao có hệ số K 0,5- 0,75, còn giống lúa có tính chịu
phân kém có K 0,75- 1,0.
Hệ số tiêu sáng K trong quần thể ruộng phụ thuộc vào:
+ Diện tích lá trên điểm tính càng lớn thì K càng nhỏ do K tính
theo công thức:
IF
K= -ln : F
Io
IF
K= -ln : F
Io
IF IF
+ Ias càng thấp thì K càng lớn vì IF/Io nhỏ thì -ln IF /I o lớn
Do vậy ở tầng lá dưới có cường độ ánh sáng thấp nên K tăng lên mặc
dù diện tích lá ở tầng dưới có thể tăng.
Từ công thức của Mônsi ta có thể tính được chỉ số diện tích lá cao nhất
trong quần thể ruộng.
II. CẤU TRÚC QUẦN THỂ CÂY TRỒNG VÀ
HOẠT ĐỘNG QUANG HỢP
IF
F = - ln ----------------------: K
Io
Cấu trúc hình thái thuận lợi của cá thể là cơ sở để cấu tạo nên quần thể tốt và
muốn tính được chỉ số diện tích lá (F) thì ta phải biết được cường độ ánh sáng
của điểm bù tức là cường độ ánh sáng mà ở đó cường độ QH bằng cường độ HH.
Theo công thức trên nếu đo được điểm bù ánh sáng (IF) là 2.000 lux vào tháng 4
đối với lúa xuân hè. Tại Việt Nam Io (cường độ ánh sáng trung bình hàng ngày của
tháng có diện tích lá đạt cao nhất) là 0,38 cal/cm2/phút = 25.308 lux. (Tổng bức xạ
tháng 4 là 293 cal/cm2/phút = 25.308 lux) và hệ số tiêu sáng K của ruộng là 0,7 đối
với giống lúa cao cây có bộ lá nằm ngang và 0,4 đối với giống lúa thấp cây (có bộ
lá đứng) thì chỉ số diện tích (m2 lá/m2 đất) sẽ được tính như sau:
2000 - In 0,079 2,5383
F(gốc lá nằm ngang)= - ln -------- :07 = ------------- = ---------- = 3,6
25.308 0,7 0,7
2000 - ln 0,079 2,5383
F(góc lá đứng) = - In ---------- : 0,4 = -------------- = ------------ = 6,3
25.308 0,4 0,4
II. CẤU TRÚC QUẦN THỂ CÂY TRỒNG VÀ
HOẠT ĐỘNG QUANG HỢP
+ Cây có cơ quan kinh tế lớn
Năng suất kinh tế(NSkt) là lượng
chất khô mà cây tích lũy được ở các bộ
phận có giá trị kinh tế đối với con người
như hạt, quả, củ. NSkt đươc tính theo
công thức:
NSkt = NSsvh . Kkt
+ Cây có cảm ứng cao với độ phì của đất
Cây có cảm ứng cao với độ phì của
đất nghĩa là cây sinh trưởng hợp lý khi
bón lượng phân nhiều nhất là N, giống
cây có phản ứng đạm thấp có bộ lá dài,
rộng, mỏng, xanh đậm, thân cao và yếu.
Giống có phản ứng với đạm cao có bộ lá
thẳng đứng, ngắn, xanh đậm, thân ngắn
và cứng.
Iqh (mgCO2/dm
2/giờ)
3
2
1
(Nitơ)
50
40
30
20
10
I qh cây phụ thuộc vào lượng nitơ bón
1. Cây có phản ứng thấp với nitơ.
2. Cây có phản ứng trung bình với nitơ.
3. Cây có phản ứng cao với nitơ.
2.2 Điều chỉnh diện tích lá tối ưu cho quần thể cây trồng
Diện tích lá quyết định đến quang hợp, do đó nó quyết định đến
năng suất.
+ Để biểu thị S lá cao hay thấp người ta dùng chỉ tiêu chỉ số S lá
(LAI: Leaf Area Index – được đo bằng m2 lá/m2 đất) )
+ Ngoài chỉ tiêu chỉ số S lá để biểu thị S lá còn dùng chỉ tiêu thế năng
quang hợp đồng ruộng . Thế năng quang hợp đồng ruộng tổng S lá
tham gia quang hợp qua từng ngày trong suốt thời kỳ sinh trưởng
của quần thể cây trồng (triệu m2lá/ha/ngày – 0,5 – 5 tr )
Các biện pháp nâng cao S lá
- Chọn giống
- Sử dụng phân bón
- Điều chỉnh mật độ
- Phòng trừ sâu bệnh tấn công vào bộ lá
- Kéo dài tuổi thọ của lá
7/18/15
3
II. CẤU TRÚC QUẦN THỂ CÂY TRỒNG VÀ
HOẠT ĐỘNG QUANG HỢP
3. Cấu trúc của ruộng là một hệ quang học, yếu tố của năng suất
- Sự tương quan giữa S lá và cường độ quang hợp và hiệu
suất QH có ý nghĩa rất quan trọng. Hoạt động của quang
hợp liên quan chặt chẽ với sự đồng hóa các nguyên tố
khoáng của cây. Tùy theo mức tăng S lá trong ruộng, sự
giảm độ chiếu sáng và giảm quang hợp mà ảnh hưởng xấu
đến sự đồng hóa các nguyên tố khoáng
- Quần thể cây trồng có góc lá rộng thì thực hiện được một
công quang hợp nhỏ hơn quần thể cây trồng có góc lá nhỏ.
Từ đó ảnh hưởng đến năng suất cây trồng.
- Nếu diện tích lá tăng đến 30.000- 40.000 m2/ha thì hệ số hút thu
ánh sáng tăng mạnh, nhưng tiếp tục tăng diện tích lá lên nữa thì
hiệu quả hấp thu ánh sáng mặt trời lại giảm.
- Để sử dụng có hiệu quả năng lượng bức xạ ánh sáng mặt trời thì ở
thời kỳ diện tích lá tối đa của quần thể cây trồng phải có chỉ số diện
tích lá tối ưu.
=====> HSQH được tính theo công thức:
P2 – P1
HSQH = = g/m2 lá/ngày đêm
1/2 . (L2 + L1). T
- Để có NSsvh cao ngoài chỉ số LAI tối ưu cần phải có thời
gian hoạt động QH dài nhất để tạo ra “thế năng QH đồng
rụông” lớn nhất.
•Hình: Biểu đồ cực thuận về sinh trưởng
của diện tích lá tối ưu đối với ruộng cây có thời gian sinh trưởng khác nhau
Hình: Biểu đồ cực thuận về sinh trưởng
của diện tích lá tối ưu đối với ruộng cây có thời gian sinh trưởng khác nhau
•- Với những ruộng hoàn thiện về cấu trúc bộ máy QH thì
HSQH thuần thường gặp là 5g/m2 lá/ngày đêm có thể cho
năng suất sinh vật học khá cao từ 6 đến 22-25 tấn/ha.
- Nếu diện tích lá của ruộng đạt cao nhất nhỏ hơn so với trị
số 40.000- 50.000 m2/ha (từ 15.000- 20.000 m2/ha hay thấp
hơn nữa từ 8.000- 10.000m2/ha) thì số liệu tương ứng về
thế năng QH chỉ là 0,5- 1,0 triệu m2/ha/ngày (nếu diện tích
lá của ruộng đạt 40.000 m2/ha thì thế năng QH của nó có
thể thay đổi từ 1- 4,5 triệu m2/ha/ngày).
- HSQH thuần của quần thể cây trồng thường đạt từ 2-4
g/m2/ngày đêm. thì năng suất sinh vật học chỉ đạt 2-4
tấn/ha.
====> để tăng năng suất cây trồng chúng ta phải làm thế
nào để ruộng có thế năng QH cao
* Đối với những cây chín sớm thì thế năng QH ít nhất phải đạt từ
1,5- 2,0 triệu m2/ha/ngày.
* Đối với cây chín trung bình là 2,5- 3,0 triệu m2/ha/ngày
* Đối với cây chín muộn là 3,0- 5,0 triệu m2/ha/ngày.
- Một số cây trồng khác lại có nhu cầu đặc biệt về điều kiện chiếu
sáng trong thời kỳ làm đòng và hình thành cơ quan sinh sản. Cho
nên nhìn chung nếu tăng quá nhanh diện tích lá và khép kín lá
nhanh trong ruộng là thuận lợi để tăng năng suất sinh vật học
(NSsvh) nhưng lại không có lợi cho việc tăng năng suất kinh tế
(NSkt).
- Mật độ gieo và trồng cây là một trong những yếu tố tác động
nhanh vào việc chi phối nhịp điệu đầu và cuối của sự hình thành
diện tích lá trong quần thể ruộng. Để có NSsvh cao thì cây trong
ruộng phải hút được nhiều năng lượng bức xạ mặt trời và sử dụng
tốt nhất năng lượng đó vào QH, do đó tăng diện tích lá trong ruộng
phải phù hợp với nhịp điệu thay đổi theo mùa vụ của chế độ chiếu
sáng của mặt trời.
Lớp Học Phần VNUA ( Khoa Nông Học ) - Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam
https://sites.google.com/site/lophocphank57vnua/
7/18/15
4
•Ví dụ: Cây ngô, cây đậu tương, vào thời điểm chiếu sáng của mặt
trời tốt nhất nhưng diện tích lá trong quần thể ruộng lại không đạt
tối ưu nên sự hút thu ánh sáng vào QH là rất thấp. Vào thời kỳ mà
diện tích lá ngô, đậu tương,.. đạt trị số tối ưu thì điều kiện chiếu sáng
lại kém nên hoạt động QH của ruộng lại bị giảm nhiều, dẫn tới
HSQH thuần cũng giảm. Chính vì lẽ đó mà các cây trồng đã thích
nghi với điều kiện sinh thái mà nó sống, sinh trưởng, phát triển tốt
và cho NSsvh cao khi chuyển chúng đến vùng sinh thái khác sẽ bộc
lộ nhiều bất lợi.
- Sự chuyên môn hoá cao các cây trồng và các giống có vòng phát
triển thích nghi nhất với chu kỳ thay đổi khí hậu của miền là một
trong những biện pháp quan trọng nhằm tăng hệ số sử dụng năng
lượng bức xạ mặt trời để tạo NSsvh và NSkt của cây. Những vùng
mà điều kiện cho phép như vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới có thời
gian sinh trưởng dài và đầy đủ nước để tăng hệ số sử dụng ánh sáng
vào việc tạo năng suất ta có thể trồng xen, gối vụ để có thể thu được
từ 2- 4 vụ trong năm. Ở những vùng có thời gian sinh trưởng ngắn
ta nên gieo trồng đúng thời vụ và có thể sớm hơn.
• Một giống lúa hay giống ngô, nào đó có góc lá rộng so với thân
chính sẽ tạo ra một tầng lớp lá nằm ngang liên tục trong ruộng và
che lấp các tầng lá phía dưới nên tổng diện tích lá tham gia hút thu
bức xạ quang hợp không nhiều, do đó tổng diện tích lá của loại
ruộng này không thể thực hiện được một công quang hợp tổng cộng
lớn. Loại ruộng có tầng lá nằm ngang này vào những giờ giữa trưa
nắng (cường độ ánh sáng đạt 40.000 lux -50.000 lux) thì bản lá sẽ
nhận được ánh sáng thừa ứng (ánh sáng quá mạnh) nên hoạt động
quang hợp giảm, còn vào buổi sáng do tia nắng mặt trời rơi lên bản
lá theo độ chiếu sáng của mặt phẳng ngang nên lá cũng ít nhận được
ánh sáng và QH cũng bị giảm. Hơn nữa, do lớp lá nằm ngang “lớp
đơn” này liên tục đã làm cho lớp lá dưới nó không đủ năng lượng
ánh sáng mặt trời để thực hiện chức năng QH cũng như các chức
năng sinh lý khác của cây và quần thể ruộng.
•Một loại ruộng trong đó các giống cây trồng có góc lá nhỏ
so với thân chính và lá cây phân bố thẳng đứng, nhất là
cây cao sẽ bao gồm nhiều tầng lá. Nếu tính tổng cộng diện
tích lá của các tầng lại có thể lớn gấp 8- 10 lần diện tích lá
của “lớp đơn” của ruộng có tầng lá nằm ngang và ánh
sáng xuyên xuống sâu khá tốt vào các tầng lá phía dưới,
tuy cường độ chiếu sáng có giảm nhưng cũng đủ để QH.
Do vậy, Iqh của các lá trong ruộng này thấp hơn 2-5 lần
nhưng do có diện tích lá tham gia QH lớn gấp 8-10 lần so
với ruộng có lớp lá nằm ngang nên công QH tổng số vẫn
lớn hơn nhiều. Tuy nhiên khi nghiên cứu về QH của ruộng
mà giống cây trồng có lá thẳng đứng thì bộ lá hút các tia
sáng chiếu tới chưa hoàn hảo.
•Vì vậy, để tạo ra loại ruộng lý tưởng có đặc tính trung
gian giữa ruộng có lớp lá nằm ngang liên tục và ruộng mà
lá cây phân bố thẳng đứng thì tầng lá trên phải gần như
thẳng đứng để cho ánh sáng xuyên qua lớp lá phía dưới
mà lớp lá này có hướng không gian gần nằm ngang hút
thu ánh sáng. Từ kết quả nghiên cứu của Nitsporovits cho
thấy: Ruộng cây ngũ cốc có diện tích lá gần bằng
40.000m2/ha thì khoảng 50% diện tích phiến lá xếp theo
hướng tạo với mặt phẳng ngang một góc 90o -60o; 37%
góc 30o-60o và 30% góc 30o- 0o.
Nếu theo định hướng không gian này, các phiến lá trong
ruộng chiếm tất cả các vị trí có thể có để tiếp nhận ánh
sáng và lá đứng thẳng chiếm ưu thế. Đây là một trong
những kiểu cấu trúc ruộng thuận lợi cho QH để tạo NSsvh
và NSkt cao.
- Trên thực tế những
loại cây trồng như bí
ngô, dưa hấu, hướng
dương,, chúng tạo
ra các ruộng hay
vườn cây có lá nằm
ngang chiếm ưu thế.
Cũng có ruộng và
quần thể có cây cao,
cây thấp.
K = 0,3
K = 0,5
K = 0,7
K = 0,9
K = 1,0
Hình: Năng suất chất khô ở LAI khác
nhau trong quần thể cây có hệ số tắt (K)
khác Nhau.
Chỉ số diện tích lá (LAI)
(m2lá/m2đất)
50
40
30
20
10
2 4 6 8 10 12
K= 0,3
K= 0,5
K= 0,7
K= 0,9
K= 1,0
Năng suất chất khô (g/m2lá/ngày)
• - Dùng phương pháp xác định theo tầng (cứ 10 cm theo chiều
thẳng đứng là một tầng) mà các tia sáng chiếu vào ruộng, tính khối
lượng sinh khối và diện tích lá ở mỗi tầng bằng phương pháp cắt.
===> Kết quả cho thấy những ruộng mà phần lớn lá tập trung ở
tầng trên và lá chủ yếu theo hướng nằm ngang thì hệ số tắt (K) của
ruộng cao và giảm cường độ ánh sáng, quang hợp mạnh. Tuy nhiên,
ruộng có cấu trúc kiểu này thì diện tích lá cực đại để hấp thu ánh
sáng là không cao nên năng suất sinh khối tạo ra không nhiều. Nếu
diện tích lá được phân bố đều trong không gian của ruộng và ánh
sáng được chiếu tới lá trong tán thì hệ số tắt (K) sẽ nhỏ hơn. Diện
tích lá đạt cực đại (tối ưu) cao hơn nên năng suất sinh khối hàng
ngày cao. Như vậy cấu trúc ruộng là một hệ thống quang học và
năng suất, muốn có năng suất cao chúng ta phải tạo ra những giống
cây có khả năng hình thành nên quần thể có cấu trúc hoàn thiện
nhất
7/18/15
5
0 20 40 60 80
Thời gian sinh trưởng (ngày) Thời gian sinh trưởng (ngày)
Hình : Nhịp điệu tích luỹ chất khô của cây ngô
Thời gian sinh trưởng (ngày) Thời gian sinh trưởng (ngày)
Hình : Nhịp điệu tích luỹ chất khô của cây ngô trong quá trình sinh trưởng, phát triển.
0 20 40 60 80 100
60
40
20
0 20 40
60 80
1 2
300
200
100
0 20 40 60 80 100
Sự tích luỹ chất khô phụ thuộc nhiều vào thế năng quang
hợp của ruộng (m2 lá/ha/ngày) chỉ tiêu này thay đổi tuỳ
theo các cây trồng khác nhau, dao động từ 0,5-5 triệu m2-
ngày. Tuy nhiên, đây không phải là chỉ tiêu duy nhất chi
phối mức năng suất. Chỉ tiêu m2lá/ m2 đất cũng có ý nghĩa
quan trọng trong việc tạo năng suất quang hợp, chỉ tiêu
này trong ruộng cũng thay đổi khá nhiều. Trong điều kiện
tốt 1 m2lá cây trong ruộng có thể đồng hoá được 4-6g CO2
trong 1 giờ, còn trong điều kiện xấu chỉ dưới 1g và có khi
tiêu hao hết chất hữu cơ tích luỹ được do hô hấp xảy ra
mạnh. Do vậy, cường độ hoạt động quang hợp của lá cây
trong ruộng còn phụ thuộc vào HSQH, nghĩa là lượng chất
khô chung do cây tạo ra trong một ngày đêm tính trên 1
m2 lá hoạt động trong ngày đó.
Chúng ta có thể tính HSQH trung bình của bộ lá trong
suốt thời gian sinh trưởng của quần thể cây trồng bằng cách
lấy năng suất sinh vật học chia cho thế năng QHcủa quần thể
ruộng. Ví dụ:NSsvh của ruộng tạo ra 80 tạ hay 8.000.000 g chất
khô. Thế năng QH của ruộng là 3 triệu m2-ngày thì HSQH
trung bình của lá sẽ là:
8.000.000g
HSQH trung bình = ------------------------- = 2,6 g/m2/ngày đêm
3.000.000 m2
HSQH trung bình QH hàng ngày còn phụ thuộc vào lượng
CO2 đồng hoá được trong quá trình QH của ngày đó và được
ký hiệu là FCO2. Tỷ số giữa lượng chất khô tăng hàng ngày
(FK) và sự đồng hoá CO2 hàng ngày là Kf (hệ số hiệu quả của
QH)
Hiệu suất quang hợp (g/m2lá/ngày đêm)
20 40 60 80 100
Thời gian sinh trưởng cây ngô (ngày)
12
10
8
6
4
12
10
8
6
4
. Hiệu quả sử dụng năng lượng ánh sáng vào việc tạo
NSsvh
Quần thể
ruộng
Vĩ độ
Năng lượng
tới của bức
xạ mặt trời
(tỷ Kcal/ha)
Tích luỹ sinh
khối
(tấn/ha/vụ)
Tích luỹ
năng lượng
(triệu
Kcal/ha/vụ)
Hệ số sử
dụng ánh
sáng (%)
- Cây mía 10- 25o 8 40 150 1,9
- Cây ngô 40- 50o 4 20- 25 84 2,0
- Khoai tây 50- 55o 3 15 60 2,0
Do vậy, trong trồng trọt chúng ta cần tăng vụ, xen canh gối vụ để tận
dụng thời gian QH của quần thể cây trồng nhằm tăng hệ số sử dụng
quang năng.
+ Mô hình luân canh 3, 4 vụ và cá biệt 5 vụ / năm.
+ Các biện pháp kỹ thuật canh tác hợp lý như : chế độ phân bón, tưới
nước, phòng trừ sâu bệnh kịp thời đã làm tăng tuổi thọ của lá (nhất là lá
đòng của lúa), tăng Iqh và kéo dài thời gian QH có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc tăng NSsvh.
4. Biện pháp điều khiển QH để tăng năng suất cây trồng
4.1 Ý nghĩa và triển vọng của quang hợp trong các hệ nhân tạo
Như chúng ta đã thấy rõ QH của cây xanh có vai trò vô cùng quan
trọng. Theo tính toán thì trong một phút tất cả các cá thể QH trên bề
mặt trái đất hấp thụ được khoảng 1019 Kcal, khoảng 30% năng
lượng ánh sáng này được chuyển hoá thành năng lượng hoá học của
các hợp chất hữu cơ nhờ cây xanh. Do vậy nhờ có QH của thực vật
đã bù đắp lại sự hao hụt về chất hữu cơ hàng năm (chỉ riêng trên 6
tỷ người trên trái đất này hàng năm sử dụng khoảng 1 tỷ tấn chất
hữu cơ). Các sản phẩm như đường, tinh bột, protein, lipit, do QH
tạo ra rất cần thiết cho con người. 96% nhu cầu của con người về
năng lượng trong dinh dưỡng và kỹ thuật là nhờ có QH (lương thực,
thực phẩm, nguyên liệu). Đối với trồng trọt thì QH quyết định 90-
95% năng suất cây trồng.
7/18/15
6
- Ngày nay hoạt động cơ giới và công nghiệp hàng ngày
tiêu thụ một lượng O2 và nhả ra một lượng CO2 khổng lồ.
Người ta tính rằng hàng năm thực vật trên trái đất
lấy đi từ môi trường khoảng 2.109 tấn nitơ; 6.1019 tấn
photpho và các nguyên tố khoáng khác; 158.1019 tấn CO2;
128.1019 tấn nước để xây dựng nên cơ thể của mình và giải
phóng 115.1019 tấn O2. Như vậy nhờ có QH của cây xanh
mà hàm lượng O2 và CO2 trong khí quyển được điều hoà
(O2 21% và CO2 0,03%) tránh sự tích luỹ nhiều CO2
trong không khí.
• Đến nay có thể nhận biết tương đối rõ về 4 giai
đoạn chính của sự phát triển năng suất cây trồng:
* Giai đoạn 1: là giai đoạn sử dụng các chất hoá học
để diệt cỏ, b chống sâu bệnh và côn trùng.
* Giai đoạn 2: là giai đoạn sử dụng các giống mới
và các chất có hoạt tính sinh học.
* Giai đoạn 3: Nâng cao hoạt động QH cây trồng
* Giai đoạn 4: là giai đoạn sử dụng các hệ thống
nhân tạo, một dạng mới của sản xuất nông nghiệp
“quang hợp trong ống nghiệm”.
4.2 Biện pháp điều khiển quang hợp để tăng
năng suất cây trồng
1. Ý nghĩa và triển vọng của quang hợp trong các hệ nhân tạo
Mục đích của việc nghiên cứu bản chất và cơ chế của quá trình quang hợp là
xây dựng những con đương và phương pháp làm tăng năng suất quang hợp
ở cây trồng, song chúng ta có thể tái lập và sử dụng nguyên tắc, phản ứng
của quang hợp trong các hệ thống công nghiệp như nhờ “ Quang hợp nhân
tạo” để tạo ra các chất đơn loại về thực phẩm và các nguyên liệu khác
2. Biện pháp điều khiển quang hợp để tăng năng suất cây trồng
Năng suất cây trồng là mục đích chính của ngành trồng trọt, năng suất cây trồng
gồm: NSSVH, NSKT
NSKT = NSSVH . Kkt
a) NSSVH và các biện pháp kỹ thuật trồng trọt để tăng NSSVH
NSSVH = (Fco2.L.Kf.).1,2,n (tạ/ha)
100.000
TĂNG NSSVH
Nâng cao diện
tích lá
Điều chỉnh thời gian
quang hợp
Tăng cường độ
quang hợp và hiệu
suất quang hợp
Phòng trừ sâu bệnh
Điều chỉnh mật độ
Chọn giống
Bố trí thời vụ
Kéo dài tuổi
Thọ lá
Sử dung phân bón
Giảm cường độ
Hô hấp
b) Hệ số kinh tế (Kkt) biện pháp nâng cao Kkt
Hệ số kinh tế
biểu thị khả
năng tích lũy
chất khô về
các cơ quan
có giá trị kinh
tế
BỐ TRÍ THỜI VỤ
BÓN PHÂN
PHÒNG TRỪ
SÂU BỆNH
TƯỚI NƯỚC
CHỌN GIỐNG
HỆ SỐ KINH TẾ
7/18/15
7
7/18/15
8
Lớp Học Phần VNUA ( Khoa Nông Học ) - Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam
https://sites.google.com/site/lophocphank57vnua/
7/18/15
9
Lớp Học Phần VNUA ( Khoa Nông Học ) - Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam
https://sites.google.com/site/lophocphank57vnua/
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_giang_quang_hop_quan_the.pdf