Chính phủ đóng một vai trò then chốt trong việc tiên liệu các cơhội và xu thếtrong tương
lai, chọn các nước đi chiến lược trong những lĩnh vực mới và xây dựng năng lực dài hạn.
Không giống nhưkhu vực tưnhân, thường bịthúc đẩy bởi các mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận
trong ngắn hạn, Chính phủcó thể đi theo định hướng dài hạn hơn trong cách tiếp cận của
mình đối với đầu tưvà lập dựtoán ngân sách cho các tài nguyên quốc gia.
Chính phủ đã tiến hành nhiều chương trình đầu tưkhác nhau đểxây dựng năng lực
kinh tếtrong nước và chuẩn bịtốt hơn cho Singapore trước các thay đổi trong nền kinh tế
toàn cầu. Xin nêu hai ví dụ:
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Sử dụng các thị trường để quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a của Sếp là tương đương về thiết kế
và tiện nghi với ‘villa’ tư nhân, và được xây dựng và bán bởi các công ty tư nhân.
Cơ chế thị trường đi vào hệ thống nhà ở theo cách việc tiêu dùng nhà ở được gắn chủ
yếu với túi tiền (khả năng chi trả). Loại căn hộ được mua là phụ thuộc hoàn toàn vào mức mà
hộ gia đình đó sẵn sàng chi trả. Điều này thúc đẩy các gia đình nên đời nhà ở của mình khi
mức thu nhập của họ tăng lên, dẫn đến việc sàng lọc những căn hộ cũ hơn xuống các nhóm
thu nhập thấp hơn.
Qui trình lên đời này đã phát triển đều đặn kể từ những năm 1970, phản ánh thành
công kinh tế và sự giàu có ngày càng tăng của Singapore. Một phần nó cũng là hậu quả của
chính sách bán lại nhà của HDB. Chủ sở hữu căn hộ HDB, sau năm năm cư trú, có quyền bán
lại căn hộ cho bất cứ ai hội đủ điều kiện mua nhà chung cư (với mức giá do hai bên thỏa
thuận, hoàn toàn không có sự can thiệp của HDB) và nộp đơn xin mua một căn hộ HDB mới
cao cấp hơn bằng số tiền bán căn hộ. Chính phủ cho phép sức mạnh thị trường tác động hoàn
toàn lên việc xác định giá trị bán lại của các căn hộ. Thông qua cơ chế bán lại này, nhà ở
chung cư đáp ứng một cách hiệu quả vai trò như một tài sản đầu tư cho người dân Singapore.
HDB có thể thu được lợi nhuận khá lớn từ chương trình nhà ở chung cư của mình, với
thu nhập xuất phát từ bán các căn hộ, tiền cho thuê các cơ sở thương mãi và công nghiệp, và
doanh thu từ các dịch vụ ngoại vi như chợ và bãi đổ xe. Lợi nhuận được tái đầu tư vào những
vòng quay tiếp theo của chương trình xây dựng nhà. Điều này giúp giới hạn lượng tiền trợ
cấp của chính phủ cần thiết để tài trợ cho hoạt động của HDB. Ví dụ trong tài khóa 2000, vốn
của chính phủ cấp cho HDB là chưa đến 3% của ngân sách chính phủ hàng năm.
Y tế
Dịch vụ y tế có các ngoại tác tích cực đáng kể, và thường được nêu lên làm cơ sở để chính
phủ can thiệp và chi tiêu. Hệ thống tài trợ y tế, tuy thế, lại khác nhau rất nhiều từ nước này
sang nước khác, khi các chính phủ vật lộn tìm giải pháp cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao
và hiệu quả về chi phí. Ở một đầu thái cực là hệ thống chăm sóc sức khỏe phổ quát được trợ
cấp hoàn toàn bằng tiền thuế theo đó bệnh nhân chịu tiền rất ít hoặc không cùng-chi trả khi
tiêu dùng dịch vụ này – Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh Quốc là một trường hợp điển hình. Tuy
nhiên, hệ thống này có xu hướng khuyến khích tiêu dùng quá mức, hậu quả là phân phối giới
hạn bằng cách xếp hàng chờ đợi. Ở đầu phía bên kia là hệ thống y tế Mỹ với nhà nước tham
gia rất ít. Ngược lại, điều này dẫn đến các vấn đề như chi phí cao, không bao trùm hết dân cư
và không đồng nhất về chất lượng chăm sóc y tế.
Giải pháp tài trợ cho y tế của Singapore dựa trên hai nguyên tắc thị trường chính yếu:
cá nhân tự chịu trách nhiệm, với cộng đồng và chính phủ hỗ trợ cho những ai gặp khó khăn,
và chế độ bệnh nhân cùng-chi trả để ngăn chặn tiêu dùng quá mức và để tránh các khó khăn
khôn lường của hệ thống y tế hoàn toàn miễn phí.
13 Số lượng phòng chỉ bao gồm phòng khách/phòng ăn và phòng ngủ; không tính nhà bếp và phòng
tắm.
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright
Taøi chính coâng
Baøi ñoïc
Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác
gia toát hôn ôû Singapore
John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 13 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ
Thực hiện theo các nguyên tắc trên, chương trình tiết kiệm y tế bắt buộc được triển
khai vào năm 1984 như một bộ phận của CPF để giúp người dân Singapore tích lũy đủ tiền
tiết kiệm để trả chi phí khám chữa bệnh của mình. Theo chương trình này, một phần của tiền
đóng góp CPF hàng tháng của cá nhân (6-8 phần trăm tùy theo độ tuổi) được cắt riêng sang
tài khoản tiết kiệm y tế cá nhân. Cách tiếp cận này gán trách nhiệm trên cá nhân phải tiết
kiệm và sử dụng tiền tiết kiệm y tế của mình một cách cẩn trọng. Nó còn giúp ngăn chặn việc
sử dụng quá mức các dịch vụ y tế, bởi vì các cá nhân có thể giữ lại tiền tiết kiệm của mình
cho đến lúc nghỉ hưu nếu họ không rút tiền tiết kiệm y tế.
Tiết kiệm y tế bảo đảm quyền tự do chọn lựa của cá nhân về nhà cung cấp dịch vụ y
tế và ngay cả loại phòng/khu trong một bệnh viện. Các dịch vụ y tế cơ bản tại các phòng
khám đa khoa được chính phủ trợ cấp 50% chi phí. Phòng/khu trong bệnh viện được trợ cấp
tùy theo mức độ tiện nghi mà người bệnh nhân chọn. Nói chung, tỷ lệ phần trăm của trợ cấp
chính phủ tăng theo tỷ lệ nghịch với mức độ tiện nghi thoải mái. Ví dụ, phòng/khu Hạng-A
chỉ có một giường bệnh, có TV, phòng tắm riêng, và điều hòa không khí được tính giá trọn
chi phí, trong khi phòng/khu Hạng-C cửa mở nằm chung nhiều giường lại được trợ cấp
khoảng 80% chi phí. Tuy nhiên, dù có chênh lệch về mức trợ cấp, mức độ chăm sóc là giống
nhau cho mọi hạng và được chăm sóc bởi cùng đội ngũ nhân viên y tế như nhau. Tóm lại,
bệnh nhân có thể “tự mình chọn” phòng/khu có hạng thích hợp tùy theo độ sẵn lòng chi trả
của mình, mà không bị bắt buộc phải vào một nhóm trợ cấp cụ thể nào.
‘Lá chắn y tế’ – chương trình bảo hiểm quốc gia với giá rẽ – được triển khai năm
1990 để cung cấp bảo vệ tài chính cho người dân Singapore trước chi phí cao khi gặp phải
bệnh tật nghiêm trọng hay kéo dài. Lá chắn y tế tự động bù đắp cho tất cả những người có tài
khoản Tiết kiệm y tế dưới 75 tuổi trừ khi tự họ chọn không dùng đến. Không giống như hầu
hết các chương trình bảo hiểm y tế quốc gia, Lá chắn y tế hoạt động trên nguyên tắc phí rủi
ro, chứ không phải nguyên tắc xã hội, theo đó tiền đóng bảo hiểm và quyền lợi bảo hiểm
được xác định dựa trên các nhân tố rủi ro sức khỏe thực tế trong dân cư. Như thế, người nào
có rủi ro cao hơn phải đóng tiền bảo hiểm cao hơn. Điều này giúp hạn chế tối thiểu trợ cấp
chéo ngấm ngầm giữa người mạnh khỏe và người bệnh hoạn. Cũng không có trợ cấp chéo
giữa các nhóm độ tuổi khác nhau.
Dù có Tiết kiệm y tế và Lá chắn y tế, vẫn còn một số ít người Singapore, chủ yếu là
người nghèo và người già cả, không có khả năng chi trả tiền chữa bệnh. Trong những trường
hợp đó, chính phủ là cánh tay cứu vớt cuối cùng với Quỹ y tế, một quỹ ký thác được thành
lập như lưới an toàn để giúp người Singapore nghèo khổ chi trả tiền chữa bệnh. Quỹ y tế
được thành lập vào tháng 4 năm 1993 với số vốn ban đầu là 118 triệu USD. Tổng vốn hiện
nay lên đến 412 triệu USD. Chỉ có phần thu nhập lãi từ tổng vốn này được sử dụng. Bệnh
nhân ở các bệnh viện công không có khả năng trả tiền bệnh viện ngay cả sau khi đã tận dụng
Tiết kiệm y tế và Lá chắn y tế có thể nộp đơn xin Hội đồng Quỹ y tế trợ giúp.
Giáo dục
Giáo dục được thừa nhận rộng rãi, nhất là phổ thông cơ sở và trung học, là một hàng hóa gần
như là công, bởi vì xã hội nhận biết những lợi ích rõ ràng của giáo dục tốt vượt xa hơn những
lợi ích của cá nhân, tư nhân như được phản ánh qua định giá thị trường. Thông qua đầu tư
của chính phủ vào giáo dục, trình độ giáo dục của người dân Singapore đã cải thiện đáng kể
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright
Taøi chính coâng
Baøi ñoïc
Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác
gia toát hôn ôû Singapore
John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 14 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ
trong thập niên vừa qua. Ngày hôm nay, 56% những người thuộc độ tuổi từ 25 đến 34 có
trình độ giáo dục trên trung học. Tăng gần ba lần so với thập niên trước đó, xem
Trong khi chính phủ vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng như một nhà cung cấp
dịch vụ giáo dục, chính phủ cũng đã sử dụng các cơ chế thị trường để nâng cao hệ thống
trường công lập. Đặc biệt, cơ chế cùng-chi trả được thực hiện nhằm nhấn mạnh thực tế tốn
kém nhiều chi phí cho giáo dục công lập. Mức độ cùng-chi trả của cá nhân tăng lên cùng với
cấp học. Mức tiền tối thiểu cùng-chi trả được qui định cho học sinh cấp hai và cấp ba trung
học, vì giáo dục cơ sở hầu như được chính phủ trợ cấp 100%. Ở những cấp học cao hơn, giáo
dục đóng vai trò không chỉ là một lợi ích công mà còn là một hình thức nâng cao dòng thu
nhập tương lai của cá nhân. Vì thế, tỷ lệ cùng-chi trả là cao hơn đối với sinh viên đại học và
cao đẳng kỹ thuật (bách khoa) – Chính phủ trợ cấp khoảng 83% của chi phí hoạt động cho
các trường cao đẳng kỹ thuật và 75-84% cho các chương trình cử nhân của đại học. Kế hoạch
hiện nay là sẽ tăng học phí đại học trong vòng hai năm tới, phù hợp với chủ trương chính
sách để cho sinh viên đại học chịu 25% của chi phí đào tạo.
Đồng thời, nhiều chương trình cho vay và hỗ trợ tài chính được triển khai để bảo đảm
rằng không một sinh viên nào phải đánh mất cơ hội học lên cao do khó khăn về tài chính. Ví
dụ, Chương trình Giáo dục là một chương trình cho vay, theo đó các thành viên CPF có thể
sử dụng tiền tiết kiệm CPF của mình để tài trợ tiền học đại học cho cho con cái hay cho chính
mình.
Về phía bên cung, giáo dục ở Singapore được tự do hóa dần dần với những sáng kiến
mới như Trường học Tự quản. Nó cho trường học quyền tự chủ lớn hơn trong hoạt động, để
các trường có thể tối đa hóa việc sử dụng các nguồn lực và thử nghiệm những ý tưởng và
sáng kiến mới trong giáo dục vì lợi ích của học sinh trường mình. Tất cả trường học ở
Sơ đồ 3:
Trình độ giáo dục của người dân Singapore (độ tuổi 25-34)
Cấp đại học
Bách khoa
Cấp
trung học
Cấp
cơ sở
Cấp tiểu học
Không có
trình độ
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright
Taøi chính coâng
Baøi ñoïc
Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác
gia toát hôn ôû Singapore
John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 15 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ
Singapore đều chịu sự đánh giá theo “Mô hình Trường học Xuất sắc” gắn liền với Giải
thưởng Chất lượng Singapore giành cho Tổ chức Xuất sắc, một giải thưởng quốc gia hoàn
toàn tương đương với giải thưởng Malcolm Baldridge Award của Hoa Kỳ.
Tắt nghẽn giao thông và Sở hữu và sử dụng xe ôtô
Đất là một nguồn lực rất khan hiếm ở Singapore, ở đó xấp xỉ 4 triệu người chia sẻ khoảng
660 km vuông đất (Singapore rộng khoảng bốn phần năm diện tích của đảo Mahattan của
thành phố New York, và một phần ba diện tích của Tokyo). Ngoài cơ sở hạ tầng giao thông,
đất còn cần dùng cho các mục đích nhà ở, thương mại, và công nghiệp, huấn luyện quân sự,
hứng nước mưa, và các mục đích giải trí. Hơn nữa, không có những khu riêng biệt cho các
mục đích sử dụng đất khác nhau – khu thương mãi và khu dân cư thường nằm sát nhau. Điều
này có nghĩa là đường bộ phải đáp ứng tất cả các loại xe di chuyển quanh đảo này. Vì thế, tắt
nghẽn giao thông có thể gây ra trở ngại nghiêm trọng cho nền kinh tế.
Với diện tích mặt đường giới hạn, sẽ có ngoại tác tiêu cực đáng kể cứ mỗi lần có một
người quyết định lái ôtô ra đường, nhất là vào giờ cao điểm. Tổng chi phí có thể gán cho
người lái xe không chỉ bao gồm các chi phí tư nhân của việc lái xe (như tiền xăng, tiền bãi đổ
xe và chi phí bảo trì xe) mà người đó chi trả trực tiếp, mà còn cả những chi phí công cộng do
tắt nghẽn giao thông và hậu quả tổn thất hiệu năng trong nền kinh tế. Nếu không có sự can
thiệp của chính phủ, sẽ tồn tại thị trường không hiệu quả, vì các nguồn lực (trong trường hợp
này, diện tích mặt đường) được định giá quá thấp, sử dụng quá mức và phân bổ không tối ưu.
Hiện nay chính phủ đang áp dụng một loạt các biện pháp hạn chế việc sở hữu và sử
dụng các loại xe ôtô để quản lý cầu đối với diện tích mặt đường và kiểm soát tắt nghẽn giao
thông:
Các Biện pháp Hạn chế Sử dụng Ôtô
Tính giá phí cầu đường điện tử (ERP): Tính giá phí cầu đường, khi được thực hiện dưới hình
thức áp đặt tiền phí cao hơn trên những người lái xe đi lại vào những thời điểm và những vị
trí nơi mà hệ thống đường đông nghẹt xe, khuyến khích người lái xe tìm cách giảm bớt tắt
nghẽn giao thông bằng cách thay đổi phương tiện đi lại, thời gian, lộ trình, hoặc tần suất của
mình. Nó tối ưu hóa việc sử dụng mạng lưới đường và giúp trải mỏng lưu lượng xe vào giờ
cao điểm. Vì thế, tính giá phí cầu đường mang lại một giải pháp phía-cầu cho vấn đề diện
tích mặt đường hạn chế.14
Hệ thống ERP là một cơ chế tính giá phí cầu đường nhằm tối ưu hóa lưu lượng xe cộ
bằng giá cả “do thị trường thúc đẩy”. Các bảng thu tín hiệu ERP đầu tiên đã được gắn tại
những đường cao tốc chính và tại các điểm ra vào Quận Thương mãi Trung tâm. Sau đó,
ERP đã mở rộng dần để giảm bớt áp lực giao thông trên những tuyến đường vành đai, nơi mà
tình trạng giao thông đã trở nên căng thẳng. Theo hệ thống ERP, người lái xe bị tính tiền cứ
14 Các giải pháp phía bên cung, ví dụ xây dựng thêm đường mới, có tính ít bền vững hơn. Theo thời
gian, “cầu tiềm tàng” – những người vẫn thường đi lại bằng các phương tiện giao thông khác, vào
những thời điểm hay địa điểm khác do tắt nghẽn giao thông trước đây – sẽ nhanh chóng tham gia sử
dụng mạng lưới đường một khi mật độ giảm, đẩy mức độ tắt nghẽn lên mức cũ một lần nữa. Tính giá
phí cầu đường làm nản lòng không chỉ cầu hiện hữu, mà còn cả cầu tiềm tàng.
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright
Taøi chính coâng
Baøi ñoïc
Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác
gia toát hôn ôû Singapore
John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 16 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ
mỗi lần lái xe ngang qua điểm kiểm soát ERP có gắn bảng thu tín hiệu trong những giờ hoạt
động. Giá phí ERP được điều chỉnh hàng quý dựa trên tình trạng giao thông để giữ cho tốc
độ ở trong khoản tối ưu 45 đến 65 km/giờ đối với đường cao tốc và 20 đến 30 km/giờ đối với
các trục đường chính. Kể từ ngày thực hiện, lưu lượng xe trên những tuyến đường có tính giá
phí ERP đã giảm đáng kể. Nói chung, lưu lượng giao thông đã giảm bớt 15% và tốc độ giao
thông được giữ trong khoản tốc độ tối ưu.
Thuế xăng dầu được đánh ở mức 40% trên giá và được sử dụng chủ yếu như một
công cụ quản lý giao thông.
Các Biện pháp Hạn chế Sở hữu Ôtô
Thuế Ôtô: Các biện pháp giới hạn sở hữu ôtô gồm có tiền phí đăng ký xe, phí đăng ký bổ
sung, và thuế nhập khẩu. Ngoài ra, người sở hữu ôtô còn phải đóng thuế cầu đường hàng
năm dựa trên công suất máy của xe. Phí đăng ký có mức cố định 82 USD. Phí đăng ký bổ
sung và thuế nhập khẩu là những loại thuế lũy tiến tính theo tỷ lệ phần trăm của giá trị xe
trên thị trường tự do. Mức thuế là 31% và 140% tương ứng. Điều này có nghĩa là xe càng đắt
tiền chịu thuế càng cao hơn nhiều so với xe rẽ tiền hơn. Cơ cấu thuế lũy tiến phục vụ một
chức năng hữu ích theo quan điểm công bằng xã hội.
Hệ thống Hạn ngạch Ôtô được áp dụng vào tháng 5 năm 1990. Hệ thống này khống
chế sự gia tăng số lượng xe ở một mức độ bền vững. Hạn ngạch ôtô được xem xét lại hàng
năm, có tính đến diễn biến của lượng xe hủy đăng ký và tính bền vững của tốc độ gia tăng.
Hiện nay, chỉ tiêu là giữ tốc độ gia tăng của ôtô khoảng 3% mỗi năm cho đến năm 2005
nhằm kiểm soát được tắt nghẽn giao thông. Chỉ tiêu này được điều chỉnh 5 năm một lần.
Hệ thống này có các tính chất chủ yếu như sau: Bất cứ ai có ý định đăng ký một chiếc
xe ôtô đều phải trước tiên bỏ thầu tranh một Chứng chỉ Đặc quyền (COE) trong một cuộc đấu
thầu công khai. Phương pháp này được chọn bởi vì định giá là phương thức hữu hiệu nhất để
phân phối hạn chế các nguồn lực khan hiếm, trong trường hợp này là quyền sở hữu một chiếc
ôtô. Những người thắng thầu chỉ cần chi trả ở mức giá bỏ thầu thành công thấp nhất. Qui
trình đấu thầu cạnh tranh này được tinh chỉnh qua các năm để bảo đảm phân phối hiệu quả.
Đấu thầu trên mạng sẽ được tiến hành thử nghiệm vào quý hai năm 2001. Điều này sẽ mang
lại nhiều thông tin cần thiết cho công chúng khi tham gia đấu thầu. COE có giá trị trong 10
năm. Quá thời hạn đó, người sở hữu hoặc là phải chấm dứt sử dụng xe hoặc là phải gia hạn
COE đó thêm 10 năm nữa bằng cách đóng tiền hạn ngạch theo mức hiện hành. Nếu người đó
hủy đăng ký chiếc xe, Cơ quan Giao thông Đường bộ sẽ tái sử dụng COE đó và nhập nó vào
chung cho những người mua mới đấu thầu. Thực sự, đây là một hệ thống quyền sử dụng có
thể gia hạn.
Bằng cách ấn định hạn ngạch ôtô và định giá hạn ngạch thông qua đấu thầu, chính
phủ thu hồi một cách hiệu quả tiền tô kinh tế thay vì để nó trở thành lợi nhuận của những
người mua bán xe (trong khi một hệ thống bốc thăm/xổ số sẽ chỉ chuyển giao tô kinh tế cho
những cá nhân may mắn). Tiền thu thuế liên quan đến ôtô và COE trở thành một phần của
nguồn thu hoạt động của chính phủ và được tái phân phối trở lại cho công chúng thông qua
chi tiêu của chính phủ.
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright
Taøi chính coâng
Baøi ñoïc
Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác
gia toát hôn ôû Singapore
John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 17 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ
Thuế đối với Lao động Người nước ngoài
Singapore vẫn luôn luôn sử dụng đòn bẩy nhân lực nước ngoài ở mọi cấp độ để nâng cao
tăng trưởng kinh tế. Sử dụng nhân lực nước ngoài là một chiến lược có chủ định để giúp
Singapore có thể tăng trưởng vượt xa hơn mức mà nguồn lực bản địa có thể tạo ra. Hệ thống
visa lao động nhắm mục đích thu hút nhiều nhóm nhân lực nước ngoài khác nhau thông qua
thang đặc quyền giảm dần, với đặc quyền cao hơn giành cho những người có trình độ cao
hơn. Có một chính sách rất thoáng mở về cấp visa lao động cho những người nước ngoài có
kỹ năng và tài năng nếu họ muốn làm việc ở Singapore, với các biện pháp kiểm soát chặt chẽ
tăng dần được áp dụng để điều tiết việc tuyển dụng lao động nước ngoài không có kỹ năng và
kỹ năng thấp kèm chế độ giấy phép lao động phải được gia hạn sau 2 hoặc 3 năm.
Hiện nay có hơn 500.000 người nước ngoài có giấy phép lao động ở Singapore, kể cả
hơn 100.000 người nước ngoài giúp việc trong gia đình. Trong khi những người lao động này
giúp bổ sung lực lượng lao động trong nước và góp phần vào tăng trưởng kinh tế, vẫn có
những chi phí xã hội nghiêm trọng phát sinh từ sự hiện diện của một lực lượng đông đảo lao
động nước ngoài không có kỹ năng ở Singapore. Vì thế, các cơ chế kiểm soát được triển khai
để điều tiết dòng người lao động thiếu kỹ năng. Một hình thức kiểm soát là thuế đối với lao
động người nước ngoài (đưa ra thực hiện vào năm 1980) với mục đích điều tiết dòng người
lao động bằng cơ chế giá cả. Các sức mạnh thị trường được đưa vào theo cách để người lao
động nước ngoài được phân phối vào nhiều ngành công nghiệp và khu vực kinh tế khác
nhau, tùy theo khả năng chi trả của người chủ thuê mướn họ.
Chương trình thuế lao động người nước ngoài nhằm bảo đảm rằng lao động nước
ngoài không đè ép một cách giả tạo mức lương trong nước và trở thành một chọn lựa rẽ tiền
hơn trong khi lao động trong nước chịu thiệt hại. Chương trình này rất hiệu quả trong việc
giúp cải thiện mức lương của lao động cấp thấp trong nước.
Các Công ty có Liên kết với Chính phủ (GLC)
Đầu thập niên 1960, vào lúc mới độc lập, Singapore gặp tình trạng thất nghiệp tràn lan, thiếu
hụt nhà ở trầm trọng, và sút giảm trong nền kinh tế cảng trung chuyển. Singapore thiếu
nghiêm trọng trình độ chuyên môn về quản trị tư nhân, đầu óc kinh doanh và vốn trong nhiều
khu vực của nền kinh tế. Vấn đề cấp bách là phải tái cơ cấu nền kinh tế từ dựa trên sản xuất
thay thế hàng nhập khẩu sang dựa trên công nghiệp hóa theo định hướng xuất khẩu, hỗ trợ
bởi vốn, thị trường, và công nghệ nước ngoài. Trong hoàn cảnh đó, Chính phủ đã chọn cách
tiếp cận can thiệp mạnh để giúp đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế. Các công ty đa
quốc gia được mời đón với điều kiện thoải mái. Một số Công ty có Liên kết với Chính phủ
(GLC) được thành lập trong một số khu vực cụ thể của nền kinh tế nơi đang thiếu doanh
nghiệp tư nhân như đóng tàu, hàng không, vận tải biển và ngân hàng đầu tư phát triển.
Ví dụ, hồi đó ngành ngân hàng còn phôi thai và manh mún. Hiếm có ngân hàng nào ở
Singapore sẵn sàng cho vay với thời hạn quá 3 năm hoặc tài trợ vốn cho những công ty sản
xuất mới ra đời. Chính phủ đã bước vào để giải quyết sự thất bại thị trường này bằng cách
cung cấp tài trợ phát triển cho những công ty sản xuất, kể cả đầu tư vốn chủ sở hữu. Điều này
cuối cùng đã dẫn đến sự ra đời của Ngân hàng Phát triển Singapore (DBS) vào năm 1968.
Không bao lâu sau khi thành lập, DBS được niêm yết bán cổ phiếu trên Thị trường Chứng
khoán, chủ yếu để thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân và buộc ngân hàng này phải
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright
Taøi chính coâng
Baøi ñoïc
Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác
gia toát hôn ôû Singapore
John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 18 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ
chịu sự khắc nghiệt và kỷ cương của thị trường trong hoạt động kinh doanh của mình. DBS
là GLC đầu tiên được niêm yết trên thị trường chứng khoán và có mức vốn theo cổ phiếu trên
thị trường 59 triệu USD hồi đó. Ngày nay nó là một trong những tập đoàn ngân hàng lớn nhất
trong khu vực, và được xếp hạng trong số 100 ngân hàng hàng đầu trên thế giới, với mức vốn
theo thị trường là 14 tỷ USD.
Vì nhiều GLC đã lớn mạnh trở thành những thực thể thương mãi thành công hoạt
động trên các thị trường cạnh tranh cả trong nước lẫn nước ngoài, không còn các lý do bức
bách để Chính phủ phải nắm giữ cổ phần kiểm soát trong những công ty này. Số liệu thống
kê mới nhất cho thấy rằng các GLC chỉ chiếm khoảng 13% của tổng giá trị gia tăng trong nền
kinh tế. Qua thời gian, Chính phủ đã giảm bớt cổ phần của mình trong những GLC này. Ví
dụ, Chính phủ hiện nắm giữ 37% cổ phần của DBS và sẵn sàng giảm nhiều hơn nữa. Vì có
liên quan đến tài sản công, nên cần phải bán khoản đầu tư chỉ khi nào có giá đúng và điều
kiện thị trường thuận lợi.
Nhìn trong bối cảnh rộng hơn, cách tiếp cận chung là ‘công ty hóa’ tất cả các hoạt
động nào của chính phủ có dòng kết toán lãi/lỗ, hoặc dưới dạng các công ty bình thường hoạt
động trong khu vực tư nhân hoặc dưới dạng doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm trước
các Bộ thuộc Chính phủ.15 Các GLC thuộc nhóm thứ nhất. Chúng hoạt động không có trợ
cấp chính phủ và được điều hành trên cơ sở thương mãi, chịu chung luật và qui định như bất
kỳ công ty nào khác trong khu vực tư nhân. GLC có quyền tự chủ hoàn toàn đối với các
quyết định kinh doanh và đầu tư. Chúng phải chịu tất cả các qui luật của cạnh tranh, và phải
đáp ứng và phản ứng nhanh chóng trước các thay đổi trong môi trường kinh doanh. Chính
phủ tin rằng không phải quyền sở hữu quyết định việc một công ty hoạt động hiệu quả như
thế nào, mà chính là chất lượng của hội đồng quản trị và ban giám đốc công ty. GLC phải thu
được suất sinh lợi kỳ vọng bình thường của các công ty kinh doanh. GLC là một minh họa rõ
ràng cho việc Chính phủ sử dụng các giải pháp thị trường đã nâng cao tính hiệu quả như thế
nào về phía bên cung. Kỷ cương của thị trường là động lực tốt nhất cho hoạt động hiệu quả.
Các GLC đứng vững giữa những công ty có niêm yết chứng khoán của Singapore, và biết
rằng chúng phải đạt đẳng cấp quốc tế thì mới tồn tại và thành công. Ba công ty niêm yết lớn
nhất trên Thị trường Chứng khoán Singapore là GLC: Singapore Telecom, DBS Bank, và
Singapore Airlines và rõ ràng đạt được vị thế này bằng cách hiệu quả và có lãi.
Công nghệ và Phát triển Chuỗi xí nghiệp
Chính phủ đóng một vai trò then chốt trong việc tiên liệu các cơ hội và xu thế trong tương
lai, chọn các nước đi chiến lược trong những lĩnh vực mới và xây dựng năng lực dài hạn.
Không giống như khu vực tư nhân, thường bị thúc đẩy bởi các mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận
trong ngắn hạn, Chính phủ có thể đi theo định hướng dài hạn hơn trong cách tiếp cận của
mình đối với đầu tư và lập dự toán ngân sách cho các tài nguyên quốc gia.
Chính phủ đã tiến hành nhiều chương trình đầu tư khác nhau để xây dựng năng lực
kinh tế trong nước và chuẩn bị tốt hơn cho Singapore trước các thay đổi trong nền kinh tế
toàn cầu. Xin nêu hai ví dụ:
15 Có những Ủy ban Nhà nước với chức năng hoặc là điều tiết hoặc là phát triển chung.
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright
Taøi chính coâng
Baøi ñoïc
Söû duïng caùc thò tröôøng ñeà quaûn trò quoác
gia toát hôn ôû Singapore
John W. Thomas vaø Lim Siong Guan 19 Bieân dòch: Töø Nguyeân Vuõ
Quỹ Phát triển Chuỗi xí nghiệp
Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng căng thẳng hơn, một xu hướng phổ biến là càng
ngày càng có nhiều hơn các liên minh chiến lược giữa các công ty để chia sẻ rủi ro đầu tư
trong những chuỗi công nghiệp mới. Quỹ Phát triển Chuỗi xí nghiệp (CDF) được thành lập
năm 1993 nằm dưới Hội đồng Phát triển Kinh tế để giải quyết những thiếu sót trong các
chuỗi công nghiệp, mở rộng quan hệ đối tác với các công ty đa quốc gia (MNC), đẩy nhanh
sự phát triển của những xí nghiệp trong nước có nhiều triển vọng. Vốn của quỹ này hiện nay
đã lên đến 3,5 tỷ USD.
Dự án đầu tư chiến lược có sử dụng vốn CDF được kỳ vọng phải có tính khả thi về
thương mãi. Để áp đặt kỷ cương, dự án đầu tư còn được kỳ vọng phải tạo ra suất sinh lợi chỉ
tiêu tối thiểu. Các dự án được tiến hành trên cơ sở cùng-đầu tư với khu vực tư nhân, một
minh chứng rằng nếu dự án là đáng giá về mặt kinh doanh thì khu vực tư nhân sẽ sẵn lòng
cam kết nguồn lực vào, và một sự thừa nhận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- singgapore_683.pdf