Bài tập hiến pháp- Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ theo pháp luật hiện hành

Theo quy định tại điều 83, 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) và điều 1, 2 luật tổ chức Quốc hội 2001, ngoài chức năng lập hiến, lập pháp; chức năng giám sát, “Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân”.

Trong hoạt động đối ngoại của Quốc hội, vấn đề chủ chốt nhất hiện nay là hoạt động về kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực về tài chính – ngân sách. Vấn đề ngân sách nhà nước là vấn đề quan trọng của quốc gia. Mặt khác, việc thông qua ngân sách là một trong những chức năng quan trọng nhất thể hiện rõ nét và trực tiếp quyền lực nhà nước của Quốc hội.

Theo quy định tại khoản 4, điều 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001): Quốc hội “Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước, quyết định, sửa đỏi hoặc bãi bỏ các thứ thuế”

 

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 25986 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập hiến pháp- Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ theo pháp luật hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” ( Điều 2 hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001). Quốc hội là cơ quan cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, mối quan hệ giữa quốc hội và Chính phủ nói trong cơ cấu quyền lực nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhà nước và xã hội. Vậy nên em quyết định chọn đề tài " Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ theo pháp luật hiện hành" để làm rõ mối quan hệ giữa hai cơ quan trên. Do kiến thức còn hạn chế nên không tránh khỏi sai sót trong bài, rất mong thầy cô thông cảm và đóng góp ý kiến để em có thể nâng cao kiến thức của mình. Em xin trân thành cảm ơn! B. NỘI DUNG I. Khái quát về Quốc hội và Chính phủ 1. Vị trí, tính chất và chức năng của Quốc hội Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng.Điều 83 Hiến pháp 1992 đã nêu rõ vị trí, tính chất của Quốc hội: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Chức năng của Quốc hội bao gồm những phương diện lớn sau đây: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; Quốc hội quyết định những chính sách, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân; Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” nhằm đảm bảo cho những quy định của Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để và thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, có hiệu lực và hiệu quả. 2. Vị trí, tính chất và chức năng của Chính phủ Điều 109 Hiến pháp 1992 đã khẳng định vị trí của Chính phủ: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Việc khẳng định này nhằm chỉ rõ tính chất của Chính phủ, mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội, đồng thời đề cao vị trí của Chính phủ trong bộ máy nhà nước, tạo thế chủ động cho Chính phủ trong hoạt động quản lý Nhà nước. Hoạt động quản lí nhà nước của Chính Phủ được thể hiện ở những điểm sau đây: “Chính phủ thống nhất quản lí việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; đảm bảo hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; đảm bảo việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của người dân”. II. Cơ sở cho mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ 1. Cơ sở lý luận Bắt nguồn từ bản chất giai cấp của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân do dân vì dân nhân dân là chủ nhân dân làm chủ thể hiện tập trung tối đa ý chí nguyện vọng của nhân dân. Trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công phối hợp vận dụng những hạt nhân hợp lý của thuyết phân chia quyền lực ở các nước tư sản. Quốc hội không thể tự mình đảm nhiệm hết tất cả các công việc của đất nước cũng như của xã hội , bởi vậy Quốc hội giao công việc này cho các cơ quan nhà nước khác như chính phủ, chủ tịch nước hay các cơ quan khác do mình tự lập lên, để có thể thực hiện tốt hơn phần công việc của mình. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao các cơ quan này phải báo cáo hoạt động của mình trước Quốc hội . Vai trò của Quốc hội là rất lớn nhưng trên thực tế người thực hiện quản lý xã hội, mang quyền lực thực tế lại là chính phủ. 2. Cơ sở pháp lý Cơ sở pháp lý là những cơ sở tồn tại về mặt pháp lý được quy định trong Hiến pháp và luật của Quốc hội. Trong Hiến pháp cũng dành riêng một chương ( chương VIII ) để quy định về Chính phủ. Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10, luật của Quốc hội 32/2001/QH10 về tổ chức và hoạt động của chính phủ ra đời. Bộ luật này gồm tất cả 43 điều quy định rất rõ mối quan hệ giữa hai cơ quan trung ương này. 3. Cơ sở thực thực tế Trong thực tế hiện nay ở nước ta, có thể nói là mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ là khá “thân thiết”. Quốc hội ban hành luật trên cơ sở dự luật của chính phủ thì “có hơn 90% các dự luật do chính phủ đệ trình”. Bên cạnh đó, khi Quốc hội đã ban hành luật thì Chính phủ cũng ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật cho các cơ quan nhà nước khác thực hiện. III. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính Phủ theo pháp luật hiện hành Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) cùng các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước ra đời, trong đó có quy định cụ thể về vị trí, vai trò, chức năng của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước cho phù hợp với tình hình mới của đất nước là một dấu mốc, là bước đổi mới nhằm hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước, hoàn thiện việc xác lập mối quan hệ pháp lí giữa Quốc hội và Chính phủ trong giai đoạn hiện nay của đất nước. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ được thể hiện ở những mặt sau: 1. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ về mặt tổ chức Theo quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) và luật tổ chức Chính phủ năm 2001, Quốc hội lập ra Chính Phủ. Cơ cấu tổ chức của Chính Phủ bao gồm: các Bộ và các cơ quan ngang Bộ (điều 2 luật Tổ chức Chính phủ năm 2001). Quốc hội Quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Thành viện của Chính phủ gồm: Thủ tướng, các phó thủ tướng, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Số lượng phó thủ tướng, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ do quốc hội quyết định (điều 3 luật tổ chức Chính phủ năm 2001). Trên cơ sở quy định Hiến pháp 1992 và luật tổ chức chính phủ năm 2001. Quốc hội sẽ quyết định tổ chức của chính phủ theo từng nhiệm kỳ cho phù hợp. Ví dụ, Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ nhất quyết định thành lập 20 bộ và 6 cơ quan ngang bộ, đến Quốc hội khóa XII (2007 – 2012) cơ cấu Chính phủ có sự sắp xếp lại chỉ còn 18 bộ và 6 cơ quan ngang bộ. Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước; thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ tưởng cơ quan ngang bộ. theo Hiến pháp 1992, thành viên Chính phủ không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội (trừ Thủ tướng). Việc quy định như vậy là để đảm bảo hiệu quả hoạt động cho các thành viên của Chính phủ và đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, Chính phủ do Quốc hội lập ra nhưng với việc lựa chọn danh sách các thành viên, Chính phủ đã khẳng định vị trí tương đối độc lập của mình. Ở nước ta, Quốc hội vừa có quyền lập hiến,vừa có quyền lập pháp. Do vậy Quốc hội không những có quyền thành lập ra Chính phủ, mà còn có quyền định ra cơ cấu và những nguyên tắc hoạt động của cơ quan này. 2. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ về phương thức hoạt động Quốc hội hoạt động thông qua phương thức chính là các kì họp của Quốc hội. Quốc hội họp thường kì mỗi năm hai lần. Trong hiến pháp 1992 cũng như các Hiến pháp trước đều ghi nhận Chính phủ có quyền triệu tập kì họp bất thường của Quốc hội. Điều 86 hiến pháp 1992 quy định: “Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Ủy ban thường vụ quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất thường”. 3. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong hoạt động lập pháp Quy trình lập pháp được xem như công nghệ làm luật. Công nghệ lạc hậu hay hiện đại, phù hợp hay không phù hợp với khả năng vận hành là một trong những yếu tố quyết định năng lực lập pháp của Quốc hội. Hoạt động lập pháp của Quốc hội ngày càng có chất lượng hơn bởi sự phối hợp chặt chẽ giữa Quốc hội và Chính phủ. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, nhưng Chính phủ là cơ quan có sáng kiến lập pháp, tức là quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội. Quốc hội không trực tiếp soạn thảo nội dung của tất cả các văn bản pháp luật, pháp lệnh mà đa số các văn bản pháp lệnh do Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua đều do Chính phủ soạn thảo. Về mặt nội dung, Chính phủ tập trung vào việc xây dựng thể chế, thảo luận và thông qua các dự án tại phiên họp của chính phủ. Kết quả là chính phủ đã ban hành một lượng lớn các văn bản pháp luật với chất lượng ngày càng cao. Bởi vậy, có thể nói rằng Chính phủ là cơ quan chủ yếu đưa ra các sáng kiến lập pháp, chủ động đưa ra chiến lược lập pháp trong từng giai đoạn phát triển của đất nước; định hướng đi cho từng lĩnh vực cụ thể, lựa chọn những vấn đề ưu tiên giải pháp quản lý bằng luật; đề ra lộ trình, cách thức thực hiện… Đây là điểm then chốt hình thành nội dung nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh từng năm và cả nhiệm kỳ của Quốc hội. Như vậy, quyền lập pháp của Quốc hội được thực hiện trên cơ sở quyền trình dự án luật của Chính phủ. Quy định này là hợp lý bởi Chính phủ thống nhất và quản lí mọi mặt của đời sống xã hội nên Chính phủ có thể thấy được những bất cập trong sự đều chỉnh của pháp luật và dự tính được những quan hệ xã hội sẽ phát sinh cần sự điều chỉnh của pháp luật. Mặt khác, Chính phủ có đầy đủ chuyên viên và hệ thống cơ quan chuyên môn nắm vững tình hình thực tế của Quốc hội. 4. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong hoạt động giám sát Việc kiểm tra giám sát đối với hoạt động của Chính phủ là một hoạt động đặc thù của Quốc hội. Hiến pháp 1992 đã chính thức ghi nhận quyền này do Quốc hội trực tiếp thực thi. Hình thức thực hiện chức năng giám sát quan trọng nhất của Quốc hội là trong các kì họp. Quốc hội xem xét thảo luận, báo cáo công tác của Chính phủ và của các cơ quan nhà nước khác. Hàng năm Chính phủ phải báo cáo tình hình của mình trước Quốc hội ít nhất một lần. Điều 77 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 quy định: “Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại kỳ họp cuối năm. Tại kỳ họp giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến các đại biểu Quốc hội, khi cần thiết Quốc hội có thể xem xét, thảo luận. Quốc hội có thể ra nghị quyết về công tác của các cơ quan đã báo cáo”. Qua báo cáo của Chính phủ, Quốc hội thực hiện được quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của tình hình kinh tế - xã hội trong phạm vi cả nước. Hình thức giám sát thứ hai của Quốc hội đối với các Bộ trưởng và thành viên Chính phủ là thông qua vai trò của các Đại biểu Quốc hội. Hình thức giám sát này của đại biểu Quốc hội có hiệu năng, tác dụng phát huy được công luận, một khi phiên họp được truyền hình trực tiếp cho công chúng. Trong trường hợp chất vấn không được trả lời một cách thỏa đáng tại kì họp, Quốc hội có thể bỏ phiếu tín nhiệm bộ trưởng. Trường hợp khác, Quốc hội có thể giao cho các ủy ban, Hội đồng hoặc thành lập các đoàn công tác lâm thời điều tra lại vấn đề có liên quan đến chất vấn và trả lời chất vấn của những người có liên quan đến chất vấn và báo cáo lại kết quả điều tra để Quốc hội xem xét tại kì họp tiếp theo. Chất vấn là hình thức giám sát hữu hiệu nhất, mục đích cuối cùng của chất vấn là nhằm quy kết trách nhiệm của chủ thể bị chất vấn. Hình thức giám sát thứ ba của Quốc hội đối với Chính phủ là giám sát đối với các văn bản của Chính phủ. Khoản 9, điều 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: Quốc hội “Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm soát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội”. Ngoài các hình thức giám sát trên, hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ còn do các cơ quan của Quốc hội đảm nhiệm, đó là Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các ủy ban khác của Quốc hội. Chẳng hạn, Khoản 5 Điều 91 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ: “Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”. 5. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong việc quyết những vấn đề quan trọng của đất nước Theo quy định tại điều 83, 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) và điều 1, 2 luật tổ chức Quốc hội 2001, ngoài chức năng lập hiến, lập pháp; chức năng giám sát, “Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân”. Trong hoạt động đối ngoại của Quốc hội, vấn đề chủ chốt nhất hiện nay là hoạt động về kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực về tài chính – ngân sách. Vấn đề ngân sách nhà nước là vấn đề quan trọng của quốc gia. Mặt khác, việc thông qua ngân sách là một trong những chức năng quan trọng nhất thể hiện rõ nét và trực tiếp quyền lực nhà nước của Quốc hội. Theo quy định tại khoản 4, điều 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001): Quốc hội “Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước, quyết định, sửa đỏi hoặc bãi bỏ các thứ thuế” Còn Chính phủ sẽ thực hiện chính sách tài chính quốc gia.Khoản 4, Điều 112 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: Chính phủ “Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước”. Việc quy định cụ thể quyền và ngân sách nhà nước giúp Quốc hội thực hiện hoạt động quản lí, giám sát việc chi tiêu của Chính phủ cũng như chi tiêu của chính quyền địa phương, nhằm đẩy mạnh hoạt động chống tham nhũng – một nguy cơ lớn mà đảng ta luôn nhấn mạnh. Về hoạt động đối ngoại, khoản 12 điều 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: Quốc hội “Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia”; Nhưng “Trong trường hợp Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội " thuộc về Ủy ban thường vụ Quốc hội (khoản 8 điều 91 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001). Quốc hội phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế đã kí kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước. Trên cơ sở đó Chính phủ “Thống nhất quản lý công tác đối ngoại; đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại điểm 10 Điều 103; đàm phán, ký, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài " (khoản 8, điều 112 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sunhg 2011). Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) chỉ có Chính phủ mới có quyền kí kết các điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước. Các điều ước quốc tế này có hiệu lực khi được Quốc hội phê chuẩn còn Chính phủ chỉ có quyền kí kết các điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ mà thôi. C. KẾT LUẬN Qua những biểu hiện trên của mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ chúng ta đã có được cái nhìn đúng đắn, khách quan hơn về nhiệm vu, chức năng, quyền hạn cũng như sự gắn kết khăng khít giữa hai cơ quan đầu não của bộ máy Nhà nước Việt Nam. Qua đó nâng cao hiểu biết của mình về hoạt động, tổ chức của hai cơ quan đặc biệt trên, đồng thời đóng góp ý kiến xây dựng để Quốc hội và Chính phủ ngày càng được hoàn thiện hơn nhằm đáp ứng được yêu cầu đổi mới của xã hội, với công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra là xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì dân. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Trường đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2010. 2. Hiến pháp việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992), Nxb Lao động – Xã hội. 3. Luật tổ chức Quốc hội 2001 4. Luật tổ chức Chính phủ 2001 5. Vũ Thu Hằng – hoàn thiện cơ sở pháp lí, xác lập và điều chỉnh mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ, Bộ tư pháp trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội 2003. 6. Ngô Đức Tuấn (2000), “Mối quan hệ giữa hoạt động lập pháp (QH) và hoạt động hành pháp (CP) ở nước ta”, Đặc san khoa học pháp lí (2) MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập hiến pháp- Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ theo pháp luật hiện hành.doc
Tài liệu liên quan