Như chúng ta đã biết, con người với ý nghĩa vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội có thể là chủ thể của nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Trong số những quan hệ xã hội đó có những quan hệ xã hội chỉ có thể gây thiệt hại khi có sự biến đổi tình trạng bình thường của con người. Đó là những chủ thể có quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng về sức khỏe. Đối với tội giết người, thì đối tượng tác động là con người. Ở đây, A có ý định muốn giết B nên đã thực hiện hành vi dùng dao đâm B. Như vậy, đối tượng tác động của tôi phạm trong trường hợp này là B- nạn nhân.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4275 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập Tình huống Luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài số 6
Vì nghen tuông, A có ý định giết B, A rủ B đi chơi, đến chỗ vắng, A rút dao đâm B ba nhát. Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi. Do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án xác định A phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS.
Câu hỏi:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người.
Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao?
Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án.
Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá, bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. B bị chết với tỉ lệ thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích rõ tại sao?
Giả sử A đâm B 3 nhát, tưởng rằng B đã chết. A bỏ đi nhưng do được phát hiện kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với A có đúng không? Giải thích rõ tại sao?
Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê trong một công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội thì A có bị xử lí theo luật Hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao?
BÀI LÀM
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người.
Tội phạm tuy có những dấu hiệu chung nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau. Luật hình sự Việt Nam phân tội phạm ra thành 4 loại tội phạm: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
Điều 8 Bộ luật hình sự quy định:
“Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất là của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Như vậy, ứng với các mức độ nguy hiểm cho xã hội của mỗi loại tội phạm thì mức cao nhất của khung hình phạt cũng có sự khác nhau là: đến 3 năm tù; đến 7 năm tù; đến 15 năm tù và trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Đối chiếu tội giết người được quy định tại Điều 93 BLHS với Khoản 3 Điều 8, ta có sự phân loại tội phạm đối với tội giết người như sau:
Theo khoản 1 Điều 93, tội giết người là tội đặc biệt nghiêm trọng vì mức cao nhất của khung hình phạt là… đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình: “ Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”.
Theo khoản 2 Điều 93, tội giết người là tội rất nghiêm trọng vì mức cao nhất của khung hình phạt là đến 15 năm tù: “Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm dến mười lăm năm”
Khoản 3 Điều 93 chỉ là hình phạt bổ sung mà với mỗi tội, kèm theo hình phạt chính có thể tuyên một, nhiều hoặc không tuyên hình phạt bổ sung nào, nên không thể phân loại tội phạm đối với hình phạt bổ sung.
2. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao.
Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Trong đó:
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết chon việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó.
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong CTTP.
Phân tích các dấu hiệu phạm tội của A ta thấy:
Thứ nhất, A đã bắt đầu thực hiện tội phạm, biểu hiện ở chỗ A đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP của tội giết người là đã thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng người khác, cụ thể là đã rút dao đâm B ba nhát. Đã có hành vi “đâm” cho nên dù hậu quả có xảy ra hay không thì vẫn có thể kết luận người phạm tội ở dây là A đã thực hiện tội phạm.
Thứ hai, A không thực hiện tội phạm được đến cùng, hành vi của A chưa thoả mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan trong CTTP của tội giết người Hành vi của A tuy có mục đích, động lực thúc đẩy, lỗi của A là cố ý, đã có hành vi nguy hiểm diễn ra trong thực tế, có hậu quả xảy ra, nhưng vì B không chết nên tội phạm mà A đã thực hiện là chưa đạt.
Thứ ba, A không thực hiện được tội giết người đến cùng là do nguyên nhân ngoài ý muốn. A có ý định giết B vì ghen tuông, sau khi đâm B ba nhát tưởng rằng B đã chết nên A mới bỏ đi, nghĩa là bản thân A vẫn muốn tội phạm hoàn thành nhưng do B được cấp cứu kịp thời nên đã dược cứu sống và hành vi tội phạm của K đã không hoàn thành được.
Như vậy, trong trường hợp này, người phạm tội là A đã thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn, hậu quả vẫn không xảy ra. Vì tất cả các lí do trên, đối chiếu với các giai đoạn thực hiện tội phạm có thể kết luận giai đoạn phạm tội của T là phạm tội chưa đạt, cụ thể hơn là phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
3. Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án.
3.1 Đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án.
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật Hình sự bảo vệ.
Các bộ phận của khách thể có thể bị tác động là:
Chủ thể của các quan hệ xã hội;
Nội dung của các quan hệ xã hội: là các hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội;
Đối tượng của các quan hệ xã hội : là các sự vật khác nhau của thế giới bên ngoài cũng như các lợi ích mà qua đó cac quan hệ xã hội phát sinh và tồn tại.
Như chúng ta đã biết, con người với ý nghĩa vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội có thể là chủ thể của nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Trong số những quan hệ xã hội đó có những quan hệ xã hội chỉ có thể gây thiệt hại khi có sự biến đổi tình trạng bình thường của con người. Đó là những chủ thể có quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng về sức khỏe. Đối với tội giết người, thì đối tượng tác động là con người. Ở đây, A có ý định muốn giết B nên đã thực hiện hành vi dùng dao đâm B. Như vậy, đối tượng tác động của tôi phạm trong trường hợp này là B- nạn nhân.
Vì vậy, có thể khẳng định đối tượng tác động của tội phạm trong trường hợp này là con người.
3.2 Công cụ phạm tội trong vụ án.
Công cụ phạm tội là đối tượng vật chất được chủ thể sử dụng trợ giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội. Nó là dạng cụ thể của phương tiện phạm tội được chủ thể sử dụng tác động đến đối tượng tác động của tội phạm. Cụ thể trong vụ án này thì công cụ phạm tội là con dao, chính là hung khí mà A dùng để tước đoạt tính mạng của B.
4. Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. B bị thương tích với tỉ lệ thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích rõ tại sao.
“Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự ý mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội phạm khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này” (Điều 19 Bộ luật hình sự).
Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành.
Xét trường hợp phạm tội của A ta thấy:
A đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Sự bắt đầu này thể hiện ở chỗ: A đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội giết người, cụ thể là A đã thực hiện hành vi cướp đoạt tính mạng của B: dùng giao đâm B một nhát, khiến B bị thương và ra máu nhiều.
Tuy nhiên, mới đâm được một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá nên ko tiếp tục đâm B đến chết nữa. Ở đây, A đã không thực hiện tội phạm được đến cùng, hành vi phạm tội chưa có đầy đủ những đặc điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện. Việc A dừng lại không đâm tiếp đã ngăn chặn được việc hậu quả là cái chết của B.
Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm là tự nguyện, dứt khoát. Hiện tại không có gì ngăn cản A, A hoàn toàn có thể thực hiện tiếp được tội phạm. Nhưng A đã không tiếp tục đâm B tới chết. Việc A không tiếp tục đâm B hoàn toàn là do ý nghĩ chủ quan của A chứ không phải do trở ngại khách quan chi phối. Trạng thái tâm lí “sợ” đã chứng minh động cơ khiến A chấm dứt việc phạm tội hoàn toàn mang tâm lí chủ quan.
Với những dấu hiệu như vậy thì có thể kết luận trường hợp phạm tội của A được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Theo luật Hình sự Việt Nam, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm, nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Như vậy A không phải chịu trách nhiệm hình sự vì tội giết người nhưng hành vi đâm B của A đã có đủ các yếu tố của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo Điều 104 Bộ luật hình sự. Cụ thể là A đã gây thương tích cho B với tỷ lệ thương tật là 21%, cho nên theo khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”, A có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
5. Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Toà án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Toà án quyết định đới với A có đúng không? giải thích rõ tại sao.
Để có thể biết được tòa án tuyên phạt B 13 năm tù giam là đúng hay sai, trước hết, ta phải xác định xem hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn nào và tội phạm mà A đã thực hiện thuộc loại tội gì.
Theo như phần 2 thì hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành và theo như phần 1 thì tội phạm mà A thực hiện thuộc loại rất nghiêm trọng.
Theo Điều 18: “…Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.”
Khoản 3 Điều 52 về Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt quy định: “Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.”
Đồng thời, khoản 2 Điều 93 về tội giết người quy định: “Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.”
Xét hành vi phạm tội của T là tội giết người nên theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự, T có thể bị phạt tù cao nhất là đến mười lăm năm. Nhưng trường hợp của T là phạm tội chưa đạt nên kết hợp với khoản 3 Điều 52 và Điều 18 Bộ luật hình sự thì T sẽ chỉ phải chịu mức án tù tối đa là ba phần tư của mười lăm năm tù tức là không quá 11 năm 3 tháng tù.
Vậy Toà án tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù là quyết định không đúng
6. Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội thì A có bị xử lí theo luật hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao.
Đạo luật hình sự Việt Nam có hiệu lực trong khoảng không gian nhất định và đối với một số người nhất định. Xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền toàn vẹn và tuyệt đối của quốc gia đã được luật pháp quốc tế thừa nhận rộng rãi, luật hình sự Việt Nam có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nghĩa là bất cứ tội phạm nào thực hiện trên vùng đất, vùng nước, vùng trời của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng đều có thể bị xét xử theo luật hình sự Việt Nam. Điều 5 BLHS quy định:
Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.”
Như vậy theo khoản 1 điều này thì mọi hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam đều phải chịu sự tác động của luật hình sự Việt Nam không phân biệt là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay người không quốc tịch.
A đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội, như vậy không có căn cứ nào chứng tỏ A thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam (Thông thường những người được hưởng các quyền đặc miễn tư pháp là những người đứng đầu nhà nước, các thành viên của chính phủ, những người đứng đầu các cơ quan ngoại giao, các thành viên của đoàn ngoại giao như đại sứ, tham tán đại sứ, bí thư, tuỳ viên…).
A đã phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam (Hà Nội), vì thế, theo Khoản 1 Điều 5 hành vi của A có bị xử lí theo luật Hình sự Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội-2007.
2 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2009.
MỤC LỤC
Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người……………………………………………………………………….1
Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao?...............................................................................................................2
Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án…………………………………………………………………………...3
Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá, bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. B bị chết với tỉ lệ thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích rõ tại sao?...............4
Giả sử A đâm B 3 nhát, tưởng rằng B đã chết. A bỏ đi nhưng do được phát hiện kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với A có đúng không? Giải thích rõ tại sao?..........................................6
Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê trong một công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội thì A có bị xử lí theo luật Hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao?...................7