1.2.2. Mô má, môi và rãnh mũi má
* Má
Má được phủ trên mặt ngoài bởi da và trên mặt trong bởi niêm mạc. Giữa da và niêm mạc là cơ mút và một lượng mô mỡ biến đổi nhưng thường là nhiều; mô mỡ này thường được bao bọc để tạo nên một khối hai mặt lõm: đệm mỡ má (đệm mỡ Bicha), vốn đặc biệt rõ ở trẻ nhỏ.
Má cũng chứa mô liên kết sợi, các mạch máu, các thần kinh và nhiều tuyến niêm mạc má (tiết nước bọt) nhỏ.
Môi
Môi là những nếp thịt bao quanh lỗ miệng. Trung tâm của mỗi môi chứa một dải (strand) sợi dày, được tạo nên từ những bó sợi cơ xương song song (cơ vòng miệng, cùng với cơ răng cửa (incisivus) trên và dưới, và các cơ kéo môi (tractor) trực tiếp) và gân bám của chúng vào da, niêm mạc hoặc sợi cơ khác
Kích thước và độ cong của các bề mặt môi đỏ lộ ra có sự biến đổi đáng kể theo cá thể, giới và chủng tộc
Hình thái của các môi có thể bị biến đổi bởi hoạt động của cơ.
Ở mỗi bên, môi trên được ngăn cách với má ở phía bên bởi rãnh mũi môi và liên tiếp ở trên cánh mũi với rãnh vòng má (circumalar). Môi dưới được ngăn cách với cằm bởi rãnh cằm môi (mentolabial sulcus).
16 trang |
Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 05/09/2024 | Lượt xem: 829 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài thuyết trình Giải phẫu các tầng mô vùng đầu mặt và các đơn vị thẩm mỹ vùng mặt - Lê thị Thu Hải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIẢI PHẪU CÁC TẦNG MÔ VÙNG ĐẦU MẶT VÀ CÁC ĐƠN VỊ THẨM MỸ VÙNG MẶT
Người hướng dẫn : TS. Nguyễn Văn Huy
Nghiên cứu sinh : Lê thị Thu Hải
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Giải phẫu các lớp mô ở đầu mặt
1.1. Vùng đầu
1.2 Vùng mặt
1.2.1. Da và tổ chức dưới da :
Đường nhăn da được Dupuytren đề xuất năm 1932 và Langer mô tả hoàn chỉnh năm 1961[2]
Các nếp nhăn da được Borger nghiên cứu năm 1973
1.2.2. Mô má , môi và rãnh mũi má
* Má
Má được phủ trên mặt ngoài bởi da và trên mặt trong bởi niêm mạc. Giữa da và niêm mạc là cơ mút và một lượng mô mỡ biến đổi nhưng thường là nhiều; mô mỡ này thường được bao bọc để tạo nên một khối hai mặt lõm: đệm mỡ má (đệm mỡ Bicha), vốn đặc biệt rõ ở trẻ nhỏ.
Má cũng chứa mô liên kết sợi, các mạch máu, các thần kinh và nhiều tuyến niêm mạc má (tiết nước bọt) nhỏ.
Môi
Môi là những nếp thịt bao quanh lỗ miệng. Trung tâm của mỗi môi chứa một dải (strand) sợi dày, được tạo nên từ những bó sợi cơ xương song song (cơ vòng miệng, cùng với cơ răng cửa (incisivus) trên và dưới, và các cơ kéo môi (tractor) trực tiếp) và gân bám của chúng vào da, niêm mạc hoặc sợi cơ khác
Kích thước và độ cong của các bề mặt môi đỏ lộ ra có sự biến đổi đáng kể theo cá thể, giới và chủng tộc
Hình thái của các môi có thể bị biến đổi bởi hoạt động của cơ .
Ở mỗi bên, môi trên được ngăn cách với má ở phía bên bởi rãnh mũi môi và liên tiếp ở trên cánh mũi với rãnh vòng má (circumalar). Môi dưới được ngăn cách với cằm bởi rãnh cằm môi (mentolabial sulcus).
Rãnh mũi má
Rãnh mũi má là một rãnh tự nhiên trên vùng mặt , nó bắt đầu từ góc bờ trên ngoài của nền cánh mũi , kéo dài xuống dưới , ra ngoài và thường tận hết ở phía ngoài góc miệng .
Qua các nghiên cứu , người ta đã biết rõ , rãnh mũi má được tạo ra là do các cơ bám da mặt gồm : cơ chéo gò má lớn , cơ chéo gò má bé , cơ nâng môi trên , cơ nâng môi trên cánh mũi , cơ cười , các cơ này một phần đến bám tận vào cơ vòng môi , “ modiolus ”, và đồng thời cũng tách ra các sợi đến bám vào lớp bì của da vùng rãnh mũi má .
Zufferrey (1992) đã nghiên cứu sự liên quan các cơ bám da và các dạng nếp mũi má , ông chia nếp mũi má ra làm 3 dạng : dạng lồi , dạng lõm và dạng thẳng . [27]
Chiều dài rãnh mũi má cũng rất khác nhau , dựa trên liên quan của nó với góc miệng , được chia làm 3 loại [11]:
Loại ngắn : kết thúc ở phía trên góc miệng
Loại trung bình : kết thúc ở ngang góc miệng
Loại dài : kéo dài qua góc miệng .
1.2.3. Các lớp mạc và các mặt phẳng mô ở mặt
Hệ thống cân-cơ nông (superficial musculo-aponeurotic system) (SMAS)
M ạc mang tai c ắn ( parotid-masseteric fascia)
M ạc mang tai ( parotid fascia)
M ạc thái dương đ ỉnh và m ạc thái dương ( temporo-parietal and temporal fasciae )
Mạc má hầu ( buccopharyngeal fascia)
1.2.4. Các dây chằng giữ của mặt
Những dây chằng này là những dải mạc ở những vị trí đặc biệt có tác dụng neo giữ da vào xương ở bên dưới . Tính trùng giãn nói chung của da mặt xuất hiện cùng với quá trình lão hoá làm cho da mặt bị sệ xuống do trọng lực
1.2.5. Các khoang mạc
Hai khoang mô ở mặt có thể liên quan tới sự lan rộng của nhiễm trùng bắt nguồn từ răng . Đó là khoang mô má , nằm ở giữa da và bề mặt cơ mút , và khoang mô dưới ổ mắt , nằm giữa những chỗ bám vào xương của cơ nâng môi trên và cơ nâng góc miệng .
1.2.6 Các cơ sọ mặt
Nhóm cơ quanh ổ m ắt và mí
Nhóm cơ của mũi
Nhóm các cơ của miệng
Gọi là các cơ bám da mặt. Có đặc điểm chung:
Một đầu bám vào xương, mạc hoặc dây chằng dầu kia bám vào da.
Vận động bởi các nhánh TK mặt (VII)
Bám quanh các hóc tự nhiên của đầu mặt
Biểu hiện nét mặt, khép mở các hốc tự nhiên
Các cử động của mặt và môi
Modiolus và vai trò của nó trong các cử động mặt
Modiolus
Năm 1925, Lightoller - ông là ngưòi đầu tiên phát hiện ra 1 vùng phía ngoài góc miệng là nơi đan xen của các sợi cơ mà ông gọi là “ modiolus ” [22,23].
Sau đó tác giả Duchenne (1956) đã nghiên cứu hoạt động riêng rẽ của từng cơ trong việc thể hiện cảm xúc nét mặt bằng cách kích thích điện chọ lọc lên từng cơ riêng rẽ [22] .
Năm 1974, Rubin đã mô tả hoạt động các cơ vùng quanh miệng và cơ chế giải phẫu của nụ cười . [24,25]
Hình dạng và kích thước của modiolus chỉ được mô tả một cách tương đối vì chúng biến đổi theo cá thể , tuổi , giới và sắc tộc .
Hơn nữa , modiolus không có các giới hạn mô học chính xác , và là một vùng không đều , nơi mô dày đặc bện xoắn liên tiếp với những cuống của những cơ riêng biệt có thể nhận ra được .
Modiolus có hình gần giống như một hình nón tù . Nền hình nón ( nền modiolus ) thì ở liền kề và dính với niêm mạc . Chu vi của nền có hình elip và trải ra trên chiều thẳng đứng từ khoẳng 20 mm trên và 20 mm dưới một đường nằm ngang qua góc miệng
Đỉnh tù của hình nón ( đỉnh modiolus ) có đường kính 4 mm và có tâm nằm ở khoảng 12 mm ngoài góc miệng
Các cử động của modiolus
Sự chuyển động theo ba chiều có kiểm soát của các modiolus làm cho chúng có thể phối hợp các hoạt động của má , môi và khe miệng , tiền đình miệng và hàm . Các hoạt động như vậy bao gồm cắn , nhai , uống , mút , nuốt , những thay đổi về thành phần và áp lực trong tiền đình miệng , rất nhiều những biến đổi khó nhận thấy liên quan đến lới nói , sự uốn éo ( và đôi khi là sự tạo ra ) của những âm mang tính nhạc điệu , sự tạo ra những âm khó nghe trong lúc la thét và gào lên , khóc , và tất cả những thay đổi trật tự của sự biểu hiện nét mặt , đi từ những dấu hiệu nhỏ tới những biến dạng lớn , cân xứng hoặc không cân xứng .
2. Các đơn vị thẩm mỹ vùng mặt
xin chân thành cảm ơn!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_thuyet_trinh_giai_phau_cac_tang_mo_vung_dau_mat_va_cac_d.ppt