Báo cáo Bảo vệ, sử dụng hợp lí tài nguyên nước

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

I. Tổng quan về tài nguyên nước 2

II. Sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước 3

1. Tình hình khai thác tài nguyên nước 3

2. Nguyên nhân gây suy giảm tài nguyên nước 5

 Sự gia tăng dân số 5

 Kết cấu hạ tầng khai thác, sử dụng nước xuống cấp và tình trạng sử dụng nước lãng phí, thiếu hiệu quả 5

 Sự phát triển kinh tế 5

 Tác động của biến đổi khí hậu 7

III. Phân tích tài nguyên nước dưới góc độ kinh tế 7

1. Giá trị kinh tế của tài nguyên nước 7

2. Một số công cụ dùng phân tích kinh tế tài nguyên nước 9

a) Phân tích tài chính và phân tích kinh tế 10

b) Phân tích chi phí và lợi ích 10

IV. Bảo vệ tài nguyên nước 11

V. Kết luận - Kiến nghị 13

TÀI LIỆU THAM KHẢO 14

 

 

doc16 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2293 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Bảo vệ, sử dụng hợp lí tài nguyên nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trái Đất là 1,4 tỉ km3, nhưng so với trữ lượng ở lớp vỏ giữa (chừng 200 tỉ km3) thì nó chỉ chiếm không quá 1%.Nguồn. những phần sau, chổ nào có số liệu hay phát biểu của ai cần bổ sung nguồn? Nước ngọt có thể sử dụng được chiếm không đầy 1% toàn bộ khối lượng của thủy quyển. Nhưng nhờ quá trình khổng lồ là sự tuần hoàn nước mà trữ lượng nước ngọt được phục hồi liên tục. Sự trao đổi nước ngọt trong sông hồ diễn ra mạnh mẽ hơn nhiều so với nước mặn và nước băng hà. - Tài nguyên nước trên thế giới theo tính toán hiện nay là 1,39 tỷ km3, tập trung trong thủy quyển 97,2% (1,35 tỷ km3), phần còn lại chứa trong khí quyển và thạch quyển. 97% lượng nước của Trái Đất là nước mặn, 3% là nước ngọt, trong đó có khoảng hơn 3/4 lượng nước con người không thể sử dụng được vì nó nằm quá sâu trong lòng đất, bị đóng băng, ở dạng hơi trong khí quyển và ở dạng tuyết trong lục địa.Chỉ có khoảng 0,5% nước ngọt hiện diện trong sông, suối, ao, hồ mà con người đã và đang sử dụng. Lượng nước trong khí quyển chiếm khoảng 0,001%, trong sinh quyển 0,002%, trong sông suối 0,00007% tổng lượng nước trên Trái Đất. Lượng nước ngọt con người sử dụng thường có nguồn gốc ban đầu là nước mưa với tổng khối lượng mưa trên toàn bộ diện tích Trái Đất là 105.000km3/năm. Lượng nước con người sử dụng trong một năm khoảng 35.000km3, trong đó 8% cho các hoạt động sinh hoạt, 23% cho công nghiệp và 63% cho hoạt động nông nghiệp. - Tài nguyên nước của Việt Nam nhìn chung khá phong phú. Việt Nam là nước có lượng mưa trung bình vào loại cao, khoảng 2000m3/năm, gấp 2,6 lần lượng mưa trung bình của vùng lục địa trên thế giới. Tổng lượng mưa trên toàn bộ lãnh thổ là 650km3/năm, tạo ra dòng chảy mặt trong vùng nội địa là 324km3/năm. Ngoài dòng chảy phát sinh trong vùng nội địa hàng năm lãnh thổ Việt Nam nhận nguồn nước ngoại lai từ Trung Quốc, Lào và Campuchia là 132,8 tỷ m3/năm . So với nhiều nước, Việt Nam có nguồn nước khá dồi dào. Lượng nước bình quân đầu người đạt tới 17.000m3/năm. Hệ số bảo đảm nước là 68, lớn gấp 3 lần hệ số bảo đảm nước trung bình trên thế giới. Do nền kinh tế chưa phát triển nên nhu cầu dùng nước hiện nay chưa cao, khai thác chủ yếu nước các dòng sông chính để phục vụ cho nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt. II. Sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước: 1. Tình hình khai thác tài nguyên nước: Việt Nam có 708 đô thị bao gồm 5 thành phố trực thuộc Trung ương, 86 thành phố và thị xã thuộc tỉnh, 617 thị trấn với 21,59 triệu người (chiếm 26,3% dân số toàn quốc). Hiện có trên 240 nhà máy cấp nước đô thị với tổng công suất thiết kế là 3,42 triệu m3/ngày. Trong đó 92 nhà máy sử dụng nguồn nước mặt với tổng công suất khoảng 1,95 triệu m3/ngày và 148 nhà máy sử dụng nguồn nước dưới đất với tổng công suất khoảng 1,47 triệu m3/ ngày. Một số địa phương khai thác 100% nước dưới đất để cung cấp cho sinh hoạt sản xuất như Hà Nội, Hà Tây, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Quảng Ngãi, Bình Định, Sóc Trăng, Phú Yên, Bạch Liêu...; các tỉnh thành Hải Phòng, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hà Tĩnh, Quảng Bình, KonTum, Gia Lai... khai thác 100% từ nguồn nước mặt; nhiều địa phương sử dụng cả 2 nguồn nước mặt và nước dưới đất. Tổng công suất hiện có của các nhà máy cấp nước đảm bảo cho mỗi người dân đô thị khoảng 150 lít nước sạch mỗi ngày. Tuy nhiên do cơ sở hạ tầng hệ thống cấp nước tại nhiều khu đô thị lạc hậu, thiếu đồng bộ nên hệ thống cấp nước khu đô thị chưa phát huy hết công suất, tỉ lệ thất thoát nước sạch khá cao (có nơi tỉ lệ thất thoát tới 40%). Chính vì vậy trên thực tế nhiều đô thị cung cấp nước chỉ đạt khoảng 40-50 lít/người/ngày . Đối với khu vực nông thôn Việt Nam có khoảng 36,7 triệu người dân được cấp nước sạch (trên tổng số người dân 60,44 triệu). Có 7.257 công trình cấp nước tập trung cấp nước sinh hoạt cho 6,13 triệu người và trên 2,6 triệu công trình cấp nước nhỏ lẻ khác. Tỉ lệ dân số nông thôn được cấp nước sinh hoạt lớn nhất ở vùng Nam Bộ chiếm 66,7%; đồng bằng sông Hồng 65,1%; đồng bằng sông Cửu Long 62,1%Năm, nguồn??? . Hiện nay, nông nghiệp vẫn là ngành dùng nước nhiều nhất, chiếm 75-80% tổng lượng nước sử dụng hàng năm, kế theo là nước dùng cho công nghiệp, dịch vụ và sinh hoạt. Lượng nước dùng cho sinh hoạt tuy có nhu cầu về tổng lượng ít nhưng chất lượng cao. Ngoài những ngành trên, còn có một số ngành sử dụng không tiêu hao hay tiêu hao không đáng kể như thuỷ sản, thuỷ điện, giao thông thuỷ. Theo tính toán, tổng nhu cầu sử dụng nước của nước ta vào năm 2010 là 122 tỷ m3, trong đó có ngành nông nghiệp dùng 92 tỷ m3, công nghiệp dùng 17 tỷ m3, dịch vụ dùng 11 tỷ m3. Đến năm 2040, tổng lượng nước cần dùng tăng lên 260 tỷ m3. Tỷ trọng của các ngành cũng có những thay đổi đáng kể: nông nghiệp và dịch vụ dùng 134 tỷ m3, công ngiệp 40 tỷ m3. Đối với nước dưới đất, hình thức sử dụng phổ biến hiện nay là cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu. Khoảng 40% lượng nước cấp cho thành phố, thị xã ở nước ta là nước dưới đất. Theo thống kê đến năm 2005 cho thấy, nhiều tỉnh thành trong cả nước đang khai thác nước dưới đất với lưu lượng khá lớn sử dụng cho sinh hoạt và sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ như: Hà Nội: 750.000 m3/ngày, Thành phố Hồ Chí Minh: 1.600.000 m3/ngày, Tây Nguyên: 500.000 m3/ngày. Các tỉnh ven biển miền Tây Nam Bộ như Kiên Giang, Trà Vinh, Bến Tre, Long An do nguồn nước ngọt trên các sông rạch, ao hồ không đủ phục vụ cho nhu cầu của đời sống và sản xuất vì vậy nguồn nước cung cấp chủ yếu được khai thác từ nguồn nước dưới đất. Khoảng 80% dân số ở 4 tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau đang sử dụng nước ngầm mỗi ngày. Tại tỉnh Trà Vinh hiện có khoảng 41.512 giếng khoan; Thành phố Cà Mau hơn 90% người dân trong xã đã khoan và sử dụng nước ngầm. Việc khai thác nước ngầm qúa mức đã làm tầng nước ngầm tụt giảm từ 12m đến 15m ở khu vực này; “giúp” cho tỉnh Trà Vinh gần hơn với mặt nước biển khoảng 2-2,5m . Ngoài ra, hiện nay khoảng 70- 80% nguồn nước sinh hoạt cấp cho nông thôn là từ nước dưới đất bằng các loại công trình giếng đào, giếng khoan và mạch lộ. Tổng lượng nước dưới đất cung cấp cho nông thôn ước tính khoảng 540 triệu m3/ năm . Khả năng khai thác nước dưới đất để phục vụ cho tưới là khá lớn, chủ yếu tập trung cho một số cây trồng có giá trị kinh tế như: cà phê ở Tây Nguyên, vải ở Bắc Giang... theo thống kê sơ bộ, lượng nước dưới đất sử dụng cho tưới khoảng 425 triệu m3/năm . Việc sử dụng nước ngầm để tưới mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng do việc khai thác ồ ạt vào mùa khô ở một số nơi đã vượt quá khả năng cung cấp của tầng chứa nước dẫn đến làm giảm mực nước ngầm. Mực nước ngầm hạ thấp nhanh, có nguy cơ cạn kiệt 2. Nguyên nhân gây suy giảm tài nguyên nước: Ø Sự gia tăng dân số:Nếu bổ sung được số liệu dân số qua các năm và việc mỗi người sử dụng bao nhiêu/thải bao nhiêu nước, rác… rồi từ đó tính toán nguồn nước cần khai thác để cung cấp cho dân số tăng lên đó. Làm như vậy thì sẽ thuyết phục hơn. Sự gia tăng dân số và các hoạt động của con người sẽ ngày càng tác động mạnh mẽ đến môi trường tự nhiên nói chung và môi trường nước nói riêng. Sự gia tăng dân số sẽ kéo theo sự gia tăng về nhu cầu nước sạch cho ăn uống và lượng nước cần dùng cho sản xuất. Đồng thời, tác động của con người đến môi trường tự nhiên nói chung và tài nguyên nước nói riêng sẽ ngày càng mạnh mẽ. Những hoạt động tự phát, không có quy hoạch của con người như chặt phá rừng bừa bãi, canh tác nông lâm nghiệp không hợp lý và thải chất thải bừa bãi vào các thuỷ vực... đã và sẽ gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng, làm cho nguồn nước bị cạn kiệt, bị ô nhiễm, hạn hán có khả năng càng khốc liệt. Nguy cơ thiếu nước sạch càng trầm trọng, nhất là vào mùa cạn ở các vùng mưa ít. Ø Kết cấu hạ tầng khai thác, sử dụng nước xuống cấp và tình trạng sử dụng nước lãng phí, thiếu hiệu quả: Kết cấu hạ tầng đã và đang bị xuống cấp nghiêm trọng cùng với những yếu kém trong quản lý dẫn đến tình trạng khai thác, sử dụng nước không hiệu quả, lãng phí. Ở nhiều hệ thống cấp nước đô thị, lượng nước thất thoát lên đến 40-50%, khả năng cấp nước theo thiết kế của các hệ thống thuỷ lợi đang suy giảm. Nhiều công trình trên sông (hồ chứa và đập tràn), do khi thiết kế hệ thống không chú ý đầy đủ đến nhu cầu bảo đảm dòng chảy cho hạ lưu đã dẫn đến tình trạng suy thoái dòng chảy nghiêm trọng ở hạ lưu sông, tăng xâm nhập mặn và ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nguồn nước của người dân sống ở vùng hạ lưu sông. Ø Sự phát triển kinh tế:Có số liệu để chứng minh thì tốt. Ngoài ra, có thể đưa ra ví dụ trường hợp để chứng minh Ở nước ta, tài nguyên nước đang chịu những áp lực ngày càng lớn bởi quá trình phát triển kinh tế xã hội, nhất là trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay làm phát sinh những mâu thuẫn trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Việc gia tăng nhiều nhà máy, xí nghiệp từ quy mô nhỏ hộ gia đình đến quy mô lớn dẫn đến nhu cầu về nguồn nước tăng, không những nước phục vụ cho sản xuất mà còn phục vụ sinh hoạt cho một số lượng lớn công nhân từ nhiều vùng khác nhau tập trung về. Đặc biệt ở các khu vực chưa có hệ thống cấp nước, mật độ khai thác nước dưới đất sẽ gia tăng nhanh, từ đó dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn nước và sụp lún đất. Bên cạnh đó, do khai thác quá mức các tài nguyên liên quan như đất và rừng phục vụ cho sản xuất công nghiệp đã dẫn đến những tác động tiêu cực đến tài nguyên nước, thay đổi chế độ dòng chảy tự nhiên vốn có, tăng dòng chảy lũ, giảm dòng chảy cạn, tăng mức độ xói mòn lưu vực, gây bồi lắng,v.v… Thêm vào đó là sự khai thác, sử dụng thiếu ý thức và thiếu sự kiểm soát tài nguyên nước mặt và nước dưới đất đã làm cạn kiệt, khan hiếm nguồn nước. Sự thiếu hiểu biết và thiếu những biện pháp phòng chống ô nhiễm cần thiết cũng làm cho tài nguyên nước suy thoái thêm về chất. Việc xả nước thải sản xuất từ các nhà máy, khu chế xuất khu công nghiệp chưa được xử lý vào sông rạch, ao hồ gây ô nhiễm nước mặt, nước dưới đất. Thậm chí có nơi còn cho nước thải chảy tràn trên mặt đất để tự thấm xuống đất hoặc đào các hố dưới đất để xả nước thải làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các tầng nước dưới đất. Hố xả nước thải để tự thấm Xả nước thải chưa xử lí Trong lĩnh vực nông nghiệp cũng gây ra những ô nhiễm đáng kể. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm ở hộ gia đình vùng nông thôn còn chưa có ý thức tiết kiệm nguồn nước trong việc vệ sinh, vệ sinh chuồng trại, chưa có hệ thống xử lý chất thải nước thải, phần lớn cho vào ao hồ, bể tự hoại để thấm vào đất dễ gây ô nhiệm môi trường đặt biệt là nguồn nước ngầm. Nhiều giếng khoan ngoài ruộng vườn để tưới tiêu không đảm bảo kỹ thuật gây nhiễm bẫn, nhiễm các hóa chất và thuốc trừ sâu … Hệ thống tưới tiêu và hình thức tưới tiêu không hợp lý là nguyên nhân gây thất thoát lưu lượng nước lớn trong ngành trồng trọt. Ø Tác động của biến đổi khí hậu:            Sự biến đổi của khí hậu toàn cầu đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến tài nguyên nước. Theo đánh giá bước đầu, vào khoảng năm 2070, với kịch bản nhiệt độ không khí tăng thêm 2,5 - 4,50C, lượng dòng chảy sông ngòi cũng sẽ biến đổi tuỳ theo mức độ biến đổi của lượng mưa, nếu lượng mưa giảm 10% thì dòng chảy năm có thể giảm 17 - 53% đối với kịch bản nhiệt độ không khí tăng 2,50C và giảm 26 - 90% với kịch bản nhiệt độ không khí tăng 4,50C. Mức độ biến đổi mạnh nhất xảy ra ở Nam Trung Bộ và Đông Nam BộNguồn .            Ngoài ra, trái đất nóng lên sẽ làm cho nước biển có thể dâng cao thêm 0,3 - 1,0 m và do đó nhiều vùng thấp ở đồng bằng sông Cửu Long, vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ và ven biển Trung Bộ sẽ bị ngập chìm trong nước biển. Nếu nước biển dâng 1m, diện tích ngập lụt là 40.000 km2, chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long, 1700 km2 vùng đất ngập nước cũng bị đe doạ và 17 triệu người sẽ chịu hậu quả của lũ lụt .            Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc công bố ngày 5/3/2003 được thảo luận tại diễn đàn thế giới lần thứ 3 về nước, tổ chức tại Kyoto (Nhật Bản) từ ngày 16-23/3/2003 cho thấy, nguồn nước sạch toàn cầu đang cạn kiệt một cách đáng lo ngại do sự bùng nổ dân số, tình trạng ô nhiễm môi trường cùng với nhiệt độ trái đất nóng lên sẽ làm mất đi khoảng 1/3 nguồn nước sử dụng trong 20 năm tới. III. Phân tích tài nguyên nước dưới góc độ kinh tế: 1. Giá trị kinh tế của tài nguyên nước: Tài ở Việt Nam đều có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hầu hết các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội: cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ; tưới cho các vùng đất canh tác nông nghiệp; phát triển thủy điện; nuôi trồng và đánh bắt thủy sản; giao thông vận tải thủy; du lịch sinh thái; chuyển tải nước sang các khu vực thiếu nước. Ngoài ra, các dòng sông còn đảm nhận vai trò tiêu thoát nước cho các khu đô thị, khu công nghiệp; là nguồn cung cấp cát xây dựng; giữ vai trò đặc biệt quan trọng về mặt môi trường và sinh thái. Do đặc điểm là một nước nông nghiệp, nguồn nước ở Việt Nam chủ yếu phục vụ cho nông nghiệp. Theo tính toán, năm 1985 đã sử dụng 41 tỷ m3, chiếm 89,9% tổng lượng nước tiêu thụ toàn quốc, năm 1990 đã sử dụng 46,9 tỷ m3, chiếm 90% và năm 2000 sử dụng khoảng trên 60 tỷ m3. Đến nay, cả nước đã có 75 hệ thống thủy lợi vừa và lớn, rất nhiều hệ thống thủy lợi nhỏ với tổng giá trị tài sản cố định khoảng 60.000 tỷ đồng (chưa kể giá trị đất đai và công sức nhân dân đóng góp). Các hệ thống thủy lợi năm 2000 đã đảm bảo tưới cho 3 triệu héc-ta đất canh tác, tiêu thoát nước cho 1,4 triệu héc-ta đất tự nhiên ở các tỉnh Bắc bộ, ngăn mặn 70 vạn héc-ta, cải tạo 1,6 triệu héc-ta đất chua phèn ở Đồng bằng sông Cửu Long. Trong năm 2000, diện tích lúa được tưới cả năm gần 7 triệu héc-ta, trong đó có 2,86 triệu héc-ta lúa Đông - Xuân, 2,19 triệu héc-ta lúa Hè - Thu và 1,64 triệu héc-ta lúa mùa. Ngoài ra, các công trình thủy lợi còn tưới trên 1 triệu héc-ta màu, cây công nghiệp và cây ăn quả . Nguồn thủy điện với tổng công suất lắp máy chiếm 75% tổng công suất ngành điện toàn quốc , đang và sẽ là nguồn năng lượng chủ chốt của quốc gia. Ngoài ra, các ngành công nghiệp, nhiệt điện (sử dụng nước để giải nhiệt), vận tải thủy, nuôi trồng thủy sản đều cần đến nước. Nước sạch cho sinh hoạt và xử lý nước thải là những điều kiện tối quan trọng để bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Kinh phí đầu tư cho ngành nước chiếm 25% tổng kinh phí đầu tư vào các lĩnh vực công cộng của quốc gia. Điều đó cho thấy là chính sách về tài nguyên nước có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với nền kinh tế vĩ mô. Các khía cạnh kinh tế trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn nước ở các sông lớn chủ yếu liên quan đến: - Tiềm năng kinh tế của nguồn nước được khai thác, sử dụng cho dân sinh và các ngành kinh tế; - Các vấn đề về cơ chế đầu tư vào lĩnh vực khai thác và phát triển tài nguyên nước; - Các vấn đề về cơ chế quản lý và các chính sách về giá và thuế đối với tài nguyên nước; - Hiệu quả kinh tế của việc khai thác và vận hành các công trình về nước; - Chi phí sử dụng nước trong cơ cấu giá thành của một đơn vị sản phẩm; - Các tổn thất về mặt kinh tế và xã hội do ô nhiễm, suy thoái tài nguyên nước và do lũ lụt gây nên, v.v... Ví dụ trường hợp cụ thể sông Đồng Nai Sông Đồng Nai là một trong những con sông lớn ở Việt Nam và là sông nội địa lớn nhất nước ta với tổng diện tích tự nhiên của lưu vực trên 42,6 km2 trải ra trên phần lớn diện tích của 9 tỉnh miền Đông Nam bộ và một phần của Nam Đắc Lắc và Long An. Nguồn nước ở lưu vực sông Đồng Nai (LVSĐN) có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hầu hết các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội trên lưu vực: Cấp nước sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ; thủy điện - thủy lợi; nuôi trồng thủy sản; giao thông vận tải thủy. Tiềm năng kinh tế của nguồn nước sông Đồng Nai có thể nói là rất lớn, đặc biệt đối với một số lĩnh vực, ngành nghề kinh tế quan trọng như sau: - Khai thác sử dụng nguồn nước trên các sông Đồng Nai, La Ngà và sông Bé để phát điện cho 5 nhà máy thủy điện trên lưu vực (Đa Nhim, Trị An, Hàm Thuận, Đa Mi, Thác Mơ) với tổng công suất lắp máy là 1.185 MW, cung cấp sản lượng điện trung bình hàng năm khoảng 4.941 GWh (năm 2000). Dự kiến tiềm năng này còn sẽ được phát triển mạnh hơn trong tương lai đến năm 2025 với tổng số 11 nhà máy thủy điện có tổng công suất lắp máy 2.287 MW, cung cấp sản lượng điện trung bình hàng năm khoảng 8.972 GWh ; - Cung cấp nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp với 1.842.576 ha đất canh tác trên toàn lưu vực, trong đó tưới trực tiếp cho 205.000 ha diện tích cây trồng với lượng nước tưới hàng năm lên đến 2.878 triệu m3 (năm 2000). Dự báo đến năm 2025, diện tích cây trồng được tưới bằng nguồn nước sông Đồng Nai lên đến 324.000 ha với lượng nước tưới hàng năm lên đến 4.823 triệu m3 ; - Cung cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ tại các khu đô thị, khu công nghiệp tập trung trên lưu vực với lượng nước cấp ước tính khoảng 1.400.000 m3/ngày và cấp nước cho sinh hoạt ở khu vực nông thôn khoảng 260.000 m3/ngày (năm 2000). Dự báo các con số tương ứng đến năm 2025 là 4.390.000 m3/ngày và 654.000 m3/ngày ; - Khai thác mặt nước cho giao thông vận tải thủy, đặc biệt là trên tuyến luồng hàng hải Sài Gòn - Vũng Tàu với tổng lượng hàng hóa khô thông qua cụm cảng Sài Gòn lên đến 21,5 triệu tấn/năm (năm 2000) và dự báo sẽ tăng lên 30,5 triệu tấn/năm đến năm 2010. Nếu xét trên toàn vùng Đông Nam bộ, khối lượng vận tải hàng hóa bằng đường thủy dự báo sẽ đạt mức 90 triệu tấn/năm vào năm 2010. Các con số này cho thấy rằng, nguồn nước ở vùng hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai - Sài Gòn có tiềm năng kinh tế rất lớn ; Tiềm năng kinh tế của nguồn nước LVSĐN còn được thể hiện qua việc khai thác sử dụng mặt nước để nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, năm 1997, tổng diện tích nuôi cá nước ngọt của 4 tỉnh vùng hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai (TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương) là 27.349 ha với sản lượng cá nước ngọt nuôi đạt 12.997 tấn/năm; diện tích nuôi tôm là 2.828 ha với sản lượng tôm nuôi đạt 1.079 tấn/năm. Trong đó, nổi bật nhất là việc sử dụng mặt nước để nuôi cá bè (hiện nay ở hồ Trị An có 867 bè, hồ Dầu Tiếng - 20 bè, hồ Thác Mơ - 50 bè, trên kênh Tây có 150 bè, khu Bến Gỗ - Biên Hòa có 50 bè) . 2. Một số công cụ dùng phân tích kinh tế tài nguyên nước Phân tích kinh tế nhằm mục đích tránh được sự đầu tư không hiệu quả và lãng phí vào các dự án được xây dựng. Nhiệm vụ của việc phân tích kinh tế tài nguyên nước là đánh giá hiệu quả của việc sử dụng khai thác nguồn nước và hiệu quả của việc đầu tư phát triển nguồn nước. Trên cơ sở đó có quyết sách hợp lí cho chiến lược phát triển nguồn nước. Nội dung cơ bản của phân tích kinh tế trong tài nguyên nước bao gồm: - Phân tích chính xác giá trị của nước đối với các ngành sử dụng tổng hợp nguồn nước - Phân tích chi phí và lợi ích đối với quy hoạch phát triển nguồn nước - Đánh giá hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư phát triển nguồn nước - Hoạch toán kinh tế trong quá trình quản lí khai thác tổng hợp nguồn nước, trên cơ sở định giá nước một cách hợp lí. - Hoạch định các chính sách kinh tế trong quản lý nguồn nước a) Phân tích tài chính và phân tích kinh tế: Ø Phân tích tài chính: Phân tích tài chính đơn giản chỉ là sự phân tích lợi ích giữa người đầu tư và người sử dụng trong mối quan hệ về mặt tài chính. Ví dụ: Một công ty đầu tư xây dựng một nhà máy thuỷ điện. Nhà đầu tư cần phải đánh giá được lợi ích mà họ nhận được khi đầu tư vào dự án. Lợi ích mang lại cho nhà đầu tư là số tiền thu được từ bán điện trong thời gian khai thác công trình sau khi đã trừ đi các khoản chi phí (xây dựng, quản lý, thuế nước, đền bù...). Nhà đầu tư cần làm rõ hai khía cạnh: - Lợi ích mang lại cho công ty và khả năng thu hồi vốn khi đầu tư vào dự án này. - Khả năng chi trả vốn vay nếu công ty phải vay vốn theo hạn định của ngân hàng. Thông qua phân tích tài chính, nếu sự đầu tư mang lại lợi ích không lớn hoặc nhà đầu tư không có khả năng chi trả vốn vay theo hạn định thì dự án có thể không được đầu tư xây dựng. Ø Phân tích kinh tế: Sự phân tích hiệu quả của dự án theo quan điểm kinh tế gọi là phân tích về mặt kinh tế. Phân tích về mặt kinh tế sẽ xem xét một dự án quy hoạch ở một góc độ rộng lớn hơn. Ví dụ: Một công ty đầu tư xây dựng một nhà máy thuỷ điện. Theo quan điểm kinh tế, Nhà nước cần phải đánh giá được lợi ích mang lại cho nền kinh tế quốc dân khi đầu tư vào dự án. Lợi ích mang lại không phải chỉ là tiền thu được từ bán điện mà còn bao gồm các lợi ích kinh tế khác: tạo điều kiện phát triển các lĩnh vực kinh tế khác, tạo công việc làm,... Như vậy, lợi ích kinh tế mang lại được xem xét trong sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân. b) Phân tích chi phí và lợi ích: Theo quan điểm kinh tế, bất cứ những gì làm giảm thu nhập quốc dân gọi là chi phí, những gì làm tăng thu nhập nền kinh tế quốc dân gọi là lợi ích. Ví dụ: Giả sử có dự án xây dựng một hồ chứa cấp nước tưới cho nông nghiệp - Chi phí gồm: + Vốn đầu tư xây dựng + Chi phí vận hành, sữa chữa + Tiền giải phóng mặt bằng và đền bù + Các loại thuế + Thiệt hại kinh tế do mất mát khả năng sản xuất ở phần diện tích dành cho làm công trình và phần diện tích dành cho giải phóng mặt bằng - Lợi ích mang lại gồm: + Sản lượng lúa gạo tăng lên do công trình cấp nước tưới và làm tăng thu nhập quốc dân. + Lợi ích từ khai thác lòng hồ cho nuôi trồng thuỷ sản và du lịch. + Làm tăng sản phẩm cho xã hội do sự thay đổi tập quán canh tác và thay đổi ngành nghề sản xuất của khu vực di dân. + Lợi ích mang lại do giảm sức lao động cho người trồng lúa ở vùng được cấp nước. + Làm tăng sức sản xuất của các lĩnh vực có liên quan: sản xuất xi măng, sắt thép, công nghiệp chế biến,... + Ngoài ra còn có những lợi ích khác như: cải thiện điều kiện môi trường, các lợi ích xã hội khác mang lại. IV. Bảo vệ tài nguyên nước: Bảo vệ tài nguyên nước Sử dụng tiết kiệm, đúng mục đích Không gây thất thoát nước Không làm ô nhiễm nguồn nước Tạo điều kiện tích luỹ nguồn nước Việc bảo vệ nguồn tài nguyên nước có thể nói là không khó khăn, tuy nhiên việc này đòi hỏi sự thống nhất đồng lòng của tất cả mọi người trong xã hội. Tóm tắt các biện pháp bảo vệ tài nguyên nước Các biện pháp bảo vệ tài nguyên nước: - Nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân về thực trạng, đặc điểm tài nguyên và môi trường nước ở nước ta. - Thực hiện đầy đủ Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường cùng các luật, pháp lệnh, quy định liên quan tới khai thác, bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên và môi trường nước bao gồm cả nước mặt và nước dưới đất. - Hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng quy hoạch lưu vực các sông; nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước và của các ban quản lý lưu vực các sông. - Nâng cao hiệu quả, tiết kiệm dùng nước trong tất cả các ngành sản xuất và sinh hoạt bằng các biện pháp khoa học, công nghệ và phương thức quản lý tiên tiến. + Về nông nghiệp, cần thực hiện các biện pháp tưới tiết kiệm nước; giảm tổn thất nước bằng cách kiên cố hóa hệ thống kênh mương, nâng cấp công trình đầu mối, nâng cao hiệu quả quản lý; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ưu tiên phát triển các cây con có nhu cầu sử dụng nước thấp, hiệu quả kinh tế cao; tích cực phòng chống ô nhiễm nước; sử dụng các hóa chất nông nghiệp theo đúng các quy định và hướng dẫn kỹ thuật. + Về công nghiệp và thủ công nghiệp kiểu làng nghề, cần nâng cao hiệu quả sử dụng nước; tái sử dụng nước; xây dựng và hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải; tích cực phòng chống ô nhiễm nước; thực hiện nghiêm túc các luật pháp, quy định về quản lý nước thải. + Về sinh hoạt và các hoạt động du lịch, dịch vụ, cần thực hiện các mục tiêu cấp nước cho đô thị và nông thôn đã được xác định trong các quyết định của Nhà nước; sử dụng nước một cách tiết kiệm nhất; cải tiến thiết bị sử dụng nước; tích cực phòng chống ô nhiễm nước. - Xây dựng các hồ chứa nước sử dụng tổng hợp, khai thác nhiều bậc thang trên một dòng sông khi có điều kiện thuận lợi, nhằm mục đích cấp nước, chống hạn, ngăn ngừa ô nhiễm mặn, cung cấp năng lượng tái tạo được; hết sức chú ý giảm thiểu và phòng tránh tối đa các tác động môi trường tự nhiên và xã hội của các hồ, đập, đặc biệt là của các hồ đập lớn. - Gắn liền việc quản lý tài nguyên nước mặt và nước dưới đất với quản lý các tài nguyên thiên nhiên khác như: đất, rừng, khoáng sản, năng lượng trong các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các lưu vực theo hướng bền vững. - Hợp tác chặt chẽ, có hiệu quả với các nước láng giềng cùng chia sẻ tài nguyên nước trên các hệ thống sông xuyên biên giới để xây dựng và thực hiện các quy hoạch phát triển chung và quy hoạch sử dụng nước, bảo vệ chất lượng nước trên các sông này. - Đối với tài nguyên nước dưới đất, cùng với các phương hướng nói trên, cần chú ý: tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới trong điều tra, thăm dò, khai thác, sử dụng và bảo vệ nước ngầm, áp dụng các phương thức mới, như sử dụng hành lang thu nước, giếng tia, bổ sung nhân tạo để tăng cường khai thác các nguồn nước; cấm tuyệt đối việc xây dựng các công trình chôn lấp chất thải trên phạm vi nguồn; bảo vệ và phát triển các công trình có khả năng làm tăng nguồn nước ngầm. V. Kết luận - Kiến nghị: Tài nguyên nước là thành phần chủ yếu của môi trườn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBảo vệ, sử dụng hợp lí tài nguyên nước.doc
Tài liệu liên quan