MỤC LỤC
DANH SÁCH CÁC BIỂU iv
DANH SÁCH CÁC ĐỒ THỊ v
DANH SÁCH CÁC BẢN ĐỒ v
DANH SÁCH CÁC HÌNH v
GIỚI THIỆU 1
1.1 Đặt vấn đề 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 4
1.3. Kết cấu của đề tài 4
CHƯƠNG MỘT 7
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NHIỆM QUỐC TẾ VỀ VẤN ĐỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG NÔNG THÔN 7
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH CÁC YẾU TỐ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐÔNG Ở NÔNG THÔN 7
1.1. Một số khái niệm 7
1.2. Các mối liên kết giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp 10
1.3. Các yếu tố “kéo” và đẩy” việc tham gia hoạt động phi nông nghiệp nông thôn của nông dân 12
1.4. Mô hình kinh tế hộ nông dân với hoạt động phi nông nghiệp 14
1.5. Tóm tắt về khung lý thuyết 21
II. KINH NGHIỆM VÀ THỰC TẾ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 21
2.1. Hàn Quốc 21
2.1.1.Rút dần lao động trẻ ra khỏi nông nghiệp 22
2.1.2. Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn 22
2.1.3. Phát triển công nghiệp hóa nông thôn 23
2.1.4. Hỗ trợ xây dựng nhà máy ở nông thôn trong những năm 70s 23
2.1.5. Phát triển cụm công nghiệp nông thôn những năm 80s 23
2.2. Trung Quốc 24
2.2.1. Phát triển các họat động phi nông nghiệp ở nông thôn: 24
2.2.2 Sản nghiệp hóa nông nghiệp: 25
2.3. Thái Lan 26
2.3.1. Đa dạng hóa họat động nông nghiệp gia tăng việc làm thông qua các họat động thương mại 27
2.3.2. Gia tăng các nhân tố ảnh hưởng tích cực tới việc làm 28
2.4. Mông Cổ 28
2.5.1. Thất nghiệp tăng cao do cơ cấu lại nền kinh tế 29
2.5.2.Tạo việc làm nhờ phát triển chăn nuôi và các ngành phụ trợ 29
2.5.3.Chương trình xúc tiến việc làm quốc gia. 29
2.5. Quản lý di cư ở Hàn Quốc 30
2.6. Quản lý di cư ở Malaysia 30
2.7. Quản lý di cư ở Trung Quốc 31
2.8. Một số bài học rút ra 33
2.8.1. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và tạo việc làm 33
2.8.2. Về di chuyển lao động và quản lý lao động di cư 36
CHƯƠNG HAI 38
THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG CỦA QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM 38
I. MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CÓ MỤC TIÊU TÁC ĐỘNG TỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG NÔNG THÔN 38
1.1. Chính sách đất đai 38
1.2. Các chính sách tài chính tín dụng 41
1.3 Chính sách đầu tư 42
1.4 Các chính sách về công nghiệp hóa, đô thị hóa 42
1.5. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nông thôn 43
1.6. Các chính sách phát triển hạ tầng cơ sở nông thôn 45
1.7. Các chính sách về di cư 47
II. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN TRONG 10 NĂM TRỞ LẠI ĐÂY 48
2.1. Thực trạng nguồn lao động nông thôn 48
2.1.1 Tình hình về số lượng lao động và việc làm ở nông thôn 48
2.1.2 Chất lượng lao động nông thôn 51
2.2. Thực trạng về cơ cấu lao động, việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn trong thời gian qua 53
2.2.1 Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động cả nước 53
2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo các vùng 54
2.2.3.Chuyển dịch cơ cấu lao động của lao động làm thuê và tự làm 59
2.3. Thực trạng của quá trình di cư nông thôn-thành thị 61
2.3.1 Di cư lao động giữa các vùng trong cả nước 61
2.3.2 Di cư lao động từ nông thôn ra thành thị 63
2.4 Đặc điểm của một số hình thức chuyển dịch cơ cấu lao động hiện nay ở các địa phương khảo sát 69
2.5. Một số nhận định về thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam trong 10 năm qua 82
CHƯƠNG BA 85
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG NÔNG THÔN 85
I. SỐ LIỆU DÙNG CHO PHÂN TÍCH 85
II. MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG XÁC ĐỊNH YẾU TỐ CHUYỂN DỊCH 87
III. KẾT QUẢ CỦA MÔ HÌNH VÀ Ý NGHĨA PHÂN TÍCH 98
3.1. Nhóm yếu tố về đặc điểm của cá nhân người chuyển dịch 99
3.1.1. Giáo dục và đào tạo: 99
3.1.2. Giới tính của người lao động 104
3.2. Các yếu tố về hộ gia đình 105
3.2.1.Đất sản xuất của hộ gia đình 106
3.2.2. Tỷ lệ đất nông nghiệp có sổ đỏ 108
3.2.3.Yếu tố về nhân khẩu học của hộ gia đình: 112
3.2.4.Sức ép về chi tiêu: 112
3.2.5.Tiềm lực kinh tế của hộ gia đình: 114
3.3. Các yếu tố thuộc về cộng đồng 117
3.3.1. Cơ sở hạ tầng: 120
3.3.2. Chương trình mục tiêu 121
3.3.3. Công nghiệp hóa nông thôn 123
IV. TỔNG KẾT VỀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM 125
CHƯƠNG BỐN 131
KẾT LUẬN VÀ CÁC ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY TÍCH CỰC QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG NÔNG THÔN VIỆT NAM 131
I. CÁC KẾT LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU 131
1.1. Về thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn 132
1.2. Về các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn: 134
II. CÁC ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY TÍCH CỰC CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG NÔNG THÔN 137
TÀI LIỆU THAM KHẢO 141
156 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2395 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cũng chỉ ở nhà phụ giúp cho anh và làm công việc nội trợ. Thu nhập chính của vợ chồng anh từ việc làm tượng đủ để nuôi sống cả nhà với 5 nhân khẩu với 3 cháu còn đang độ tuổi đi học.
Hộ gia đình anh có 4, 5 sào ruộng đất nông nghiệp, đã được cấp sổ đỏ nhưng để tập trung cho làm nghề, toàn bộ đất nông nghiệp anh để cho một người bà con trồng cấy và tự nộp sản lượng và các khoản khác cho chính quyền địa phương. Bản thân gia đình anh không lấy bất cứ khoản tiền nào từ việc cho “mượn ruộng” cả. Nguyên nhân anh giải thích là do sản xuất nông nghiệp có lãi rất thấp nên không đáng để lấy tiền thuê. Có người làm trên ruộng của mình nên anh vẫn giữ được phần đất nông nghiệp để đề phòng trường hợp khi nghề truyền thống bị “thất bát” thì vẫn có thể quay lại với sản xuất nông nghiệp. Mặc dù có một mảnh đất thổ cư diện tích 400m2, anh vẫn có nhu cầu mở rộng mặt bằng cho sản xuất và làm nhà xưởng. Vì vậy, cách đây không lâu, anh đã mua thêm 1 sào đất nhưng có một khó khăn rất lớn là mảnh đất của anh đã mua hiện nay chưa chuyển được mục đích xử dụng từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp. Vì lý do này, anh vẫn chưa thể mở rộng nhà xưởng.
Khi bắt đầu làm nghề, số vốn anh cần không đáng là bao nhưng với qui mô sản xuất tăng lên, số vốn tự có của bản thân anh không đủ đáp ứng. Anh hiện đang vay Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Hoài đức hơn 150 triệu với lãi suất 1,15%/tháng. Trong nhà anh luôn luôn có 2 nhân công làm thuê phụ giúp anh trong công việc tạc và làm tượng gỗ. Vấn đề thuê nhân công của anh cũng rất đơn giản, chủ yếu là những người quen biết, anh em họ hàng, các cháu v.v... tự đến hỏi đề nghị anh cho vào làm việc. Thu nhập của gia đình anh hiện nay khoảng 5 triệu đồng /tháng, tất cả đều từ việc làm tượng này. Theo anh do những năm gần đây, đời sống của người dân được nâng lên, các nhu cầu về việc làm các loại tượng gỗ ở các đình, chùa của ở các làng quê tăng lên, ngoài ra là các nhu cầu làm tượng thờ cúng của các gia đình cũng tăng lên đáng kể. Điều đó đang đảm bảo một thị trường và thu nhập khá ổn định cho gia đình anh và những người làm nghề truyền thống làm tượng ở đây. Tuy vậy, cũng do ảnh hưởng của làm nghề nhiều năm, anh mới chớm bị thoái hoá cột sống mặc dù tuổi còn tương đối trẻ, mỗi tháng phải chữa trị hết khoảng 200-300.000 đ. Khi được hỏi tại sao gắn bó với nghề, anh trả lời rằng nguyên nhân đơn giản là đã có nghề của làng và cứ làm từ khi còn trẻ, không nghĩ đến những khả năng về chuyển đổi công việc.
Một điều không tốt đối với lớp trẻ ở làng nghề, theo anh Dũng là, do từ rất nhỏ (đang trong độ tuổi đi học) các em đã được huy động vào các công việc của làng nghề và có thu nhập, các em có tâm lý ngại học và ỷ vào làm nghề. Vì vậy, số học sinh học được lên cao ở các làng nghề rất ít, ngoài ra do suốt ngày bận trong làng nghề, điều kiện tiếp xúc với thế giới bên ngoài ít hơn và vì thế khả năng thích ứng với các công việc khác hoặc các môi trường khác là khá thấp.
Nguồn: Thông tin từ khảo sát thực địa của nhóm nghiên cứu
2.4.2 Chuyển dịch lao động ở các vùng khu công nghiệp ở Hưng Yên
Hưng Yên là một tỉnh mới tái lập năm 1997 với diện tích tự nhiên khá nhỏ, chỉ 923,09 km2, dân số 1, 113 triệu người, mật độ dân số khá cao với 1206 người /km2. Toàn tỉnh có 10 huyện /thị xã. Tuy là một tỉnh có diện tích nhỏ nhưng do vị trí địa lý thuận lợi, tỉnh đã thu hút được nhiều đầu tư cho phát triển công nghiệp. Cho đến hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh đã thu hút được 394 dự án đầu tư trong đó có 54 dự án nước ngoài, tổng số vốn đăng ký lên tới 13.600 tỷ đồng và 226 triệu USD. Trong số này đã có 160 dự án đi vào sản xuất. Các dự án này đã thu hút và tạo việc làm mới cho khoảng 9 vạn lao động, trong đó lao động Hưng Yên được thu hút là 5, 5 vạn chiếm trên 60% trong tổng số.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế từ những năm 1997 đến nay luôn ở mức 11-13%, trong đó giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 3-5%. Phương hướng phát triển chung của tỉnh là đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, kinh tế trang trại và thực tế tốc độ chuyển dịch này cũng khá nhanh. Năm 2000 mới có khoảng 40 doanh nghiệp vừa và nhỏ thì đến cuối năm 2004, con số này đã lên tới 802 doanh nghiệp, thu hút khoảng 30 ngàn lao động có việc làm mới. Tốc độ tăng GDP ngành công nghiệp của tỉnh từ năm 1997 đến nay đều ở mức khoảng từ 20% trở lên. Chỉ tiêu này đối với ngành dịch vụ trong thời kỳ 2000-2004 tính trung bình khoảng 15%. Trong nội bộ sản xuất nông nghiệp, tỷ trọng chăn nuôi ngày càng tăng. Mặc dù tổng diện tích gieo trồng tăng nhưng sản lượng và giá trị cây trồng tăng chậm hơn giá trị sản xuất ngành chăn nuôi. Diện tích cây ăn quả tăng nhanh theo hướng chuyên canh.
Tốc độ đô thị hóa trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là ở các khu công nghiệp như: Như Quỳnh, Phố Nối A, Phố Nối B, Khu công nghiệp Minh Đức và khu công nghiệp thị xã Hưng Yên diễn ra khá nhanh. Thu nhập đầu người cũng tăng khá nhanh từ khoảng 3, 4 triệu đồng/người năm 1999 lên 5, 1 triệu đồng/người năm 2003. Thu ngân sách nhà nước đạt khá cao, ước tính năm 2005 có thể đạt 1187 tỷ đồng.
Tuy nhiên, việc phát triển các khu công nghiệp ở Hưng Yên cũng đặt ra một số vấn đề như sau:
- nH
Ai là người hưởng lợi từ phát triển khu công nghiệp ở Hưng Yên: mặc dù số doanh nghiệp tăng 200 lần (2000-2004) với 5 khu công nghiệp lớn nhưng hơn một nửa số lao động ở khu công nghiệp là người ngoại tỉnh. Như vậy, về mặt tạo việc làm, lực lượng lao động của tỉnh chưa được hưởng lợi nhiều. Tuy nhiên, xét trên lợi ích quốc gia, đây vẫn là một tác động tốt.
- Chính sách về đền bù giải phóng mặt bằng cần được cụ thể hóa hơn sao cho đảm bảo tính công khai, minh bạch và xử lý được hết các trường hợp phát sinh cụ thể trong thực tế.
- Vấn đề giải quyết lao động nông nghiệp: Các hình thức dịch vụ cho khu công nghiệp chưa phát triển. Lao động nông nghiệp dôi dư chưa thích ứng được với thị trường lao động mới khi không còn đất đai sản xuất nông nghiệp. Các hình thức đào tạo, hướng nghiệp không chỉ cho các lao động trẻ mà cho tất cả các lứa tuổi là rất cần thiết.
- Do ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa: tỷ lệ lao động di cư đi và đến đều cao. Lao động di cư đến Hưng Yên chủ yếu làm trong các khu công nghiệp. Lao động di cư đi chủ yếu làm các dịch vụ ở Hà nội và các đô thị, trong đó kể cả vùng đô thị của tỉnh. Do trình độ văn hóa thấp, các lao động này không có đủ điều kiện để làm tại các cơ sở sản xuất công nghiệp ở tại địa phương. Đô thị hóa là một trong những yếu tố thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn ở Hưng Yên bên cạnh yếu tố công nghiệp hóa. Tuy vậy, dân số và lực lượng lao động ở vùng đô thị của Hưng yên còn thấp so với toàn tỉnh nên tác động của yếu tố này về mặt qui mô còn chưa lớn trong thời gian vừa qua, mặc dù tốc độ đô thị hóa của tỉnh diễn ra khá nhanh chóng.
- Một câu hỏi đặt ra là vấn đề cân đối giữa đầu tư cho cơ sở hạ tầng hay đầu tư cho giáo dục để nâng cao năng lực của người lao động ?. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế phát triển. Tuy vậy, nếu chất lượng lao động không được nâng lên, người lao động sẽ không tận dụng được các cơ hội kinh tế mở ra do hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Do đó, đầu tư cho giáo dục là vấn đề rất cốt lõi.
Hộp 3. Thu nhập từ nông nghiệp quá thấp nên phải giữ việc làm ở nhà máy
Anh Lâm Văn Phán, 41 tuổi, trình độ văn hoá lớp 7/10, ở Đường Tô Hiệu, thị xã Hưng Yên, đã từng làm thợ xây nhưng việc làm chủ yếu của anh lại là ở nhà chăm sóc mẹ già và hai con, một công việc anh gần như đảm nhiệm hoàn toàn để vợ anh có đủ sức khoẻ và thời gian làm công nhân tại nhà máy may xuất khẩu ở thị xã.
Hộ nhà anh cũng có được 1500m2 đất nông nghiệp và một năm trồng được hai vụ lúa. Tuy vậy, thu nhập từ việc trồng lúa chỉ khoảng 450.000-500.000 đồng /năm (30kg thóc /sào x 2 vụ x 3 sào x 2500 đ/kg). Thu nhập thêm từ chăn nuôi của gia đình anh trong một năm khoảng 1, 5 triệu đồng, nên tổng cộng thu nhập từ SXNN chỉ vẻn vẹn 2 triệu đồng /năm. Thực chất rất nhiều phần công việc đồng áng như cấy, cày bừa, gặt anh đều đi thuê do vợ anh đi làm và anh ngoài công việc nhà còn làm công tác xã hội nên không còn thời gian. Hiện tại anh là tổ phó khu phố, phụ trách an ninh và phó bí thư chi bộ nên bận họp hành liên miên. Hàng tháng anh nhận được phụ cấp 150.000 đ cho các công tác này.
Do thu nhập nông nghiệp và tất cả các thu nhập của anh đều quá thấp, nguồn thu nhập chính của gia đình anh là do vợ anh làm ở nhà máy may Hưng Yên mang lại. Chị đi làm từ năm 1985 và cho đến hiện nay chị luôn luôn phải đi làm từ 6h sáng đến khoảng 8-10 giờ khuya mới về nhà. Chị gần như không có ngày nghỉ vì phải làm việc cả hai ngày cuối tuần, chỉ thỉnh thoảng lắm mới được nghỉ. Đổi lại thời gian làm việc quá căng thẳng này, mức lương của chị hiện nay khoảng 1, 2 triệu đ/tháng – một mức không cao so với cường độ làm việc nhưng lại quá cao so với thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của gia đình anh chị và điều quan trọng đó là nguồn tài chính sống còn cho cả gia đình. Chính vì vậy, mặc dù công việc trong nhà máy được anh Phán đánh giá là vất vả hơn làm sản xuất nông nghiệp, chị Đức – vợ anh vẫn quyết tâm “bám trụ” để đảm bảo cuộc sống gia đình. Một lý do khác thôi thúc chị làm lâu dài cho nhà máy là với tuổi càng cao, để tìm một công việc tương tự như hiện nay quả là một điều rất khó. Chi tiêu của gia đình anh tằn tiện cũng hết khoảng 1-1, 1 triệu đ/tháng, chưa kể những khi ốm đau thì tiền thuốc có khi lên đến hàng triệu đồng. Những lúc như vậy thì quả thực anh cảm thấy rất khó khăn. Mới năm ngoái anh bị ốm, vỡ mạch máu ở phổi phải tiêu hết 6 triệu đồng. Thương vợ vất vả nhưng không còn cách nào khác ngoài việc làm ở nhà máy để có thu nhập.
“Những khi vợ tôi ốm nhẹ đều không dám nghỉ làm vì sợ ảnh hưởng đến thu nhập”. Anh Phán tâm sự.
Nguồn: Thông tin từ khảo sát thực địa của nhóm nghiên cứu
2.4.3 Chuyển dịch lao động ở vùng có đa dạng nguồn lực Quảng Nam
Quảng Nam có diện tích tự nhiên là 10.408,78 km2, bao gồm 17 huyện và thị xã. Tổng dân số toàn tỉnh tính đến năm 2004 là 1, 449 triệu người. Dân số khu vực nông thôn chiếm đa số với 1, 244 triệu người, chiếm 85% trong tổng số. Tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp 110.000 ha, trong đó diện tích sản xuất lúa 42.000 ha, còn lại là diện tích màu và cây công nghiệp. Sản lượng cây có hạt hàng năm khoảng trên 400.000 tấn.
Trong thời kỳ 2001-2004, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh khá ổn định với mức tăng bình quân 9,84%. Cơ cấu kinh tế nông thôn cũng có nhưng bước chuyển biến mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa nông thôn. Tỷ trọng tổng giá trị sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ tăng và cùng với quá trình này là tỷ trọng giá trị sản phẩm nông, lâm nghiệp thủy sản giảm. Giá trị tổng sản phẩm xã hội (GDP) của các ngành sản xuất năm 2004 đạt 7096, 77 tỷ đồng với tỷ trọng 3 nhóm ngành chủ yếu tương đối đồng đều nhau.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu kinh tế chưa có sự thay đổi lớn trong khoảng 4-5 năm gần đây. Tỷ trọng ngành trồng trọt trong khoảng thời gian này luôn luôn đạt mức kh?ang 70% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp, ngành chăn nuôi chiếm khoảng 27-28% , trong khi dịch vụ nông nghiệp vẫn duy trì ở mức khá nhỏ bé với khoảng 3%.
Cơ cấu lực lượng lao động của Quảng Nam cũng có sự biến đổi theo hướng giảm tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp nhưng tỷ lệ giảm chưa nhiều. Trong vòng khoảng 9-10 năm tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp mới giảm khoảng gần 6% (so sánh giữa năm 1996 và 2004). Tỷ trọng lao động trong công nghiệp và xây dựng tăng lên khá nhanh trong cùng thời kỳ nhưng tỷ lệ lao động trong ngành dịch vụ lại giảm một cách tương đối, hiện chỉ chiếm 20% lực lượng lao động có việc làm trong toàn tỉnh.
Một số nét chính có thể sơ bộ rút ra từ chuyển dịch lao động tại Quảng Nam như sau:
Trên phạm vi toàn tỉnh, có khá nhiều lựa chọn để phát triển kinh tế như phát triển làng nghề, các khu du lịch, khu công nghiệp, phát triển chăn nuôi hoặc thâm canh cây trồng trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Tỷ lệ lao động di cư đi các địa phương khác khá cao trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, trong tương lại có thể có dòng “di cư ngược” lớn. Lao động gốc Quảng Nam ở các địa phương khác (lớn nhất là ở Đông Nam Bộ) có thể trở về địa phương làm việc do xu hướng công nghiệp hoá hiện nay của tỉnh tương đối nhanh.
Chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp khó khăn hơn sang khu vực dịch vụ do chất lượng lao động nhìn chung vẫn còn thấp. Những lao động này chưa có đủ trình độ chuyên môn và khả năng nắm bắt nghề nghiệp nên chưa đáp ứng được yêu cầu của khu vực công nghiệp đang phát triển ngay tại địa phương.
Cũng do trình độ văn hoá và chuyên môn thấp, nhiều lao động trong các khu tái định cư không thể tìm được việc làm. Chất lượng các khoá đào tạo nghề cho lao động ở khu vực tái định cư không đáp ứng được yêu cầu của khu công nghiệp. Vấn đề đặt ra là cần xác định rõ đối với mỗi loại đối tượng dạy nghề cần có một chương trình riêng phù hợp. Tương ứng với mỗi khoá đào tạo này, cũng cần có số lượng và chất lượng giáo viên cho phù hợp. Nói một cách khác, việc đào tạo và hướng nghiệp ở các khu vực tái định cư cần đi vào thực chất.
Một vấn đề đáng quan tâm về phát triển các khu công nghiệp ở Quảng Nam là vấn đề ô nhiễm môi trường cao, đặc biệt là ô nhiễm không khí và ô nhiễm nguồn nước. Qui hoạch một số khu tái định cư không được chú ý (quá gần cơ sở sản xuất công nghiệp) đã làm cho chất lượng cuộc sống ở các khu vực này rất thấp, thậm chí có nhiều khu sẽ phải “tái định cư lần thứ hai” và điều này sẽ gây nên tốn kém cho xã hội.
Hộp 4: Tôi không có việc gì làm sau khi tái định cư
Anh Nguyễn Ngọc Bích, 46 tuổi, trình độ văn hoá hết lớp 9/12 ở thôn 3, xã Tam Hiệp, Huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam từng là nông dân nhưng hiện nay anh không còn là nông dân nữa. Không phải là anh đã trở thành công nhân hay làm một nghề gì khác, mà đơn giản là hiện nay anh đang không thể có việc gì làm, anh đang thất nghiệp!
Anh từng có 1500m2 đất nông nghiệp trong đó trồng đậu phộng 522m2, diện tích còn lại anh trồng lúa. Đất thổ cư anh có 412m2 gần đường quốc lộ 1. Ngoài ra, được phép của HTX nông nghiệp trước đây, anh đã khai hoang thêm 1000m2 đất để trồng hoa màu. Tuy vậy toàn bộ diện tích đất nông nghiệp và đất thổ cư của nhà anh đều nằm trong diện giải toả cho khu công nghiệp và thực tế anh đã được nhận tiền đền bù theo đúng chính sách của nhà nước. Diện tích khai hoang thêm cũng nằm trong qui hoạch, đã được kiểm kê và đối với diện tích này anh được đền bù giá trị hoa màu trên đất. Điều đáng chú ý là anh là một nông dân khá năng động nên trước đây thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của anh cũng khá cao, tổng thu nhập từ trồng trọt và chăn nuôi (nuôi trâu) của gia đình anh khoảng 14 triệu đồng. Trước đây, vợ anh – chị ẩn cũng buôn bán gà vịt tại chợ do có lợi thế gần đường quốc lộ 1 từ năm 1989 đến gần đây. Thu nhập trước đây của chị từ việc buôn bán này cũng khoảng 1 triệu đồng /tháng.
Tuy vậy, hiện nay hai anh chị đều không có việc làm khi chuyển sang khu tái định cư mới. Cũng như tất cả các gia đình được nhận tiền đền bù, anh chị dùng phần nhiều của khoản tiền đền bù để xây nhà mới to và đẹp hơn ngôi nhà trước kia. Anh chị chỉ còn lại từ tiền đền bù 60 triệu để gửi tiết kiệm và điều đáng nói là hiện nay đây là nguồn thu nhập duy nhất của gia đình. Anh chị đang ở tình trạng rất bí bách trong ngôi nhà “to đẹp hơn” này do chưa tìm được và cũng chưa nghĩ được việc gì để làm: không còn một chút đất nông nghiệp, trâu bò cũng đã bán hết, diện tích đất tái định cư hiện nay chỉ có 200m2 nên chỉ đủ để ở mà không đủ để tiến hành chăn nuôi.
Một vấn đề khác nan giải theo anh Bích, chị ẩn cũng như những cư dân của khu tái định cư này là do khu dân cư tái định cư quá gần nhà máy, ô nhiễm không khí đặc biệt là từ nhà máy thức ăn gia súc Hoa -Chen và các nhà máy khác đã đến mức không thể chịu nổi. Vào buổi chiều khi các nhà máy xả khí ra bên ngoài là tất cả các nhà dân phải đóng kín cửa mà vẫn bị ảnh hưởng rất lớn. Sức khoẻ người dân sút kém và tình trạng thiếu nước sạch đều là những vấn đề khó giải quyết ở đây. Tuy vậy, vấn đề này vẫn còn dễ giải quyết hơn so với vấn đề việc làm, chẳng hạn bằng việc di dời tiếp chỗ ở hay các nhà máy có các biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường, mặc dù giải pháp này là tốn kém. Cái khó đối với vấn đề việc làm là ở chỗ anh chị đã quen với nghề nông và ở tuổi của anh chị không thể bắt đầu lại từ đầu để làm cho các nhà máy và khu công nghiệp khi ruộng đất đã được trưng dụng. Mà một thực tế theo lời anh chị là toàn bộ các nhà máy ở đây đều không bao giờ tuyển người quá 35 tuổi.
“Chúng tôi cũng chưa biết làm cách gì bây giờ cả” Anh Bích nói.
Nguồn: Thông tin từ khảo sát thực địa của nhóm nghiên cứu
Hộp 5: “Tốt nhất là làm phi nông nghiệp ở tại địa phương”
Anh Phạm Miên, 37 tuổi, trình độ văn hoá lớp 12/12, ở thôn 5, xã Tam Thành, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam đã có gia đình và hai con còn trong độ tuổi đi học. Bản thân anh hiện nay làm thợ mộc mỹ nghệ ở làng. Ngoài ra anh vẫn còn 1000m2 đất để trồng lúa. Anh tự làm 500m2, nửa diện tích còn lại anh cho người khác thuê.
Vợ anh – chị Huỳnh Thị Hường là công nhân trong một xí nghiệp giày da ở tận Đà nẵng. Anh Miên nhận thức rằng chị Hường đi làm công nhân thì thu nhập cải thiện được nhiều, mức lương của công nhân ở Đà nẵng cao và ổn định hơn so với làm sản xuất nông nghiệp ở quê anh. Ngoài tiền lương anh chị cũng hiểu rõ lợi ích của bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế mà chị có được.
Riêng đối với anh Miên, từ năm 1998-2000 thực tế anh đã lên thành phố (TP.HCM) làm thợ mộc – là nghề chính của anh. Nhưng khách hàng của anh ở đó cũng thất thường nên thu nhập cũng không đáng kể nhất là sau khi đã trừ đi hàng loạt các chi phí phát sinh của cuộc sống nơi thị thành. Anh quyết định làm nghề tại địa phương và dần dần khách hàng và thu nhập của anh đã ổn định. Trong khi thu nhập từ việc trồng lúa của gia đình anh không đáng kể do diện tích đất nông nghiệp của nhà anh thấp (một năm chỉ khoảng 300-400.000 đồng), thu nhập từ nghề mộc của anh trung bình từ 1,2-1, 3 triệu đồng/tháng. Anh cảm thấy rất hài lòng vì mình đã có một công việc ổn định ở ngay tại địa phương. Thu nhập của chị Hường ở Đà nẵng khoảng 700.000 đ/tháng nhưng cũng phải tốn kém vì “một chốn đôi nơi”.
Anh Miên ước mong công nghiệp được mở mang đến gần quê hương anh để vợ anh có thể làm việc mà vẫn không phải xa gia đình.
Nguồn: Thông tin từ khảo sát thực địa của nhóm nghiên cứu
2.4.4 Chuyển dịch lao động ở vùng thuần nông ở An giang
An giang nằm ở đầu nguồn sông Cửu long, là tỉnh vừa có một vùng đồng bằng rộng lớn vừa có núi non. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 3.424 km2. An giang là tỉnh có dân số lớn nhất trong số 13 tỉnh của đồng bằng sông Cửu long với 2,170 triệu người, chủ yếu sống ở vùng nông thôn. Số người trong độ tuổi lao động chiếm 60,58% dân số toàn tỉnh. Hàng năm có khoảng 30.000 người bước vào độ tuổi lao động.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của thời kỳ 2001-2005 ước đạt khoảng 9,2%, trong đó nông nghiệp tăng trưởng trong cùng thời kỳ ở mức 4,6%, công nghiệp & xây dung 12,7% và dịch vụ ở mức 12%. GDP bình quân đầu người theo giá thực tế năm 2004 của An giang đạt mức 7, 19 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch đáng kể trong những năm vừa qua với tỷ trọng ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 53,59% năm 1995 xuống 41,6% năm 2000 và 35,2% năm 2004. Ngành công nghiệp và xây dựng gần như không có sự thay đổi lớn về tỷ trọng trong tổng GDP của tỉnh. Riêng ngành dịch vụ có bước tăng trưởng rất đáng kể. Năm 1995, tổng giá trị dịch vụ mới chiếm 33,1% trong tổng GDP, thì đến năm 2000 tỷ lệ này đã là 44,45% và năm 2004 đã đạt mức 50,1%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu kinh tế không có sự biến đổi lớn trong khoảng 10 năm trở lại đây. Tỷ trọng ngành trồng trọt chiếm khoảng 78-80%. Nhóm ngành chăn nuôi có tỷ trọng tăng lên trong những năm gần đây nhưng không lớn. Dịch vụ nông nghiệp mới chiếm khoảng trên dưới 10% tổng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản.
Cơ cấu lao động lao động của An giang cũng chuyển dịch theo hướng giảm lao động ở khu vực nông nghiệp. Lao động đã giảm ở các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản từ 74,54% năm 2001 xuống còn 70,74% năm 2004. Tuy nhiên tỷ lệ giảm này không lớn. Chất lượng lao động của An giang thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước, trình độ văn hóa không cao. Hiện tại, tỷ lệ lao động không có chuyên môn kỹ thuật của An Giang chiếm tới 89% năm 2004. Tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ từ THPT trở lên chỉ chiếm 9,47%. Theo số liệu điều tra về lao động và việc làm năm 2004, ở An giang có tới 77,03% trong tổng số người tham gia trong các ngành kinh tế quốc dân là lao động ở khu vực nông thôn, số còn lại 22,97% là lao động ở khu vực thành thị. Tuy vậy, thực tế số người làm việc ở khu vực nông thôn còn ít hơn do có một số lượng lớn lao động nông thôn của An giang ra làm việc ở các thành phố và đô thị. Khoảng 15,1% số lao động ở nông thôn thường xuyên không có mặt tại xã mà tham gia hoạt động kinh tế ở nơi khác, chủ yếu là ở thành phố, thị xã. Điều đó đã làm giảm thời gian nông nhàn ở khu vực nông thôn và tăng thời gian sử dụng lao động lên tương ứng.
Một số đặc điểm có thể rút ra từ chuyển dịch lao động tại An Giang như sau:
- Sản xuất nông nghiệp ở An giang khá tốt. Nếu người nông dân có đủ ruộng đất, họ hoàn toàn có thể đủ sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, quá trình tích tụ ruộng đất trong thập kỷ vừa qua cũng lớn, nhiều nông dân không còn đất đai là đi làm thuê (làm mướn) nông nghiệp nhiều. Đây cũng là một đặc điểm về tập quán khác với vùng đồng bằng sông Hồng, nơi người dân thường có tâm lý giữ lại một mảnh ruộng dù nhỏ cho gia đình mình.
- Lao động di cư từ An giang chủ yếu đến vùng Đông Nam Bộ. Chủ yếu những lao động này là lao động trẻ, lương còn khá thấp nên gần như không có tích lũy, điều kiện sinh họat khó khăn. Nhiều lao động đứng trước hai lựa chọn: xuất khẩu lao động hay di cư trong nước?
- Ở một số vùng của tỉnh, do số lượng lao động di cư cao làm giá lao động nông nghiệp cao lên. Vì vậy, có hiện tượng công nhân gốc An giang bỏ nhà máy về quê khi thời vụ đến.
- Nhìn chung, các hình thức dịch vụ ở nông thôn An giang đã phát triển nhưng tiểu thủ công nghiệp còn kém phát triển. Vì vậy, lao động phi nông nghiệp ở nông thôn An giang chủ yếu là các lao động dịch vụ.
- Chất lượng lao động, đặc biệt là trình độ văn hóa của lao động thấp. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng chuyển dịch của lao động. Hạ tầng kém phát triển nên các doanh nghiệp không muốn đầu tư vào địa phương. Vì vậy, dẫn đến cầu về lao động phi nông nghiệp cũng không lớn ở tại địa bàn.
- Một trong những hướng phát triển là công nghiệp chế biến nông sản, vừa giúp tiêu thụ nông sản cho nông dân tốt hơn, đồng thời tạo ra việc làm công nghiệp ngay tại địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn.
Hộp 6: Hết đất chúng tôi buộc phải làm nghề khác
Gia đình ông Văng Hiếu Nghĩa (59 tuổi) và bà Lê Thị Cam (57 tuổi) ở ấp Hoà Phú, thị trấn An Châu, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang là một đại gia đình với 3 thế hệ cùng sinh hoạt trong một hộ. Ngoài hai vợ chồng ông, còn có hai vợ chồng anh con cả và cháu nội và 3 người con của ông bà đã trưởng thành.
Mới cách đây 4 năm gia đình ông bà có tới 12 công đất (12000m2) và khoảng 100m2 đất thổ cư, tất cả diện tích này đều do các cụ để lại. Ông bà đã từng là những nông dân thực sự, trồng lúa trên 12 công đất ấy và đảm bảo cuộc sống gia đình. Nhưng rồi gia đình ông gặp khó khăn, cả hai vợ chồng ông bà ốm đau bệnh tật. Tiền thuốc thang quá tốn kém mà gia đình ông bà lại không có dự trữ nên buộc phải vay nợ theo hình thức “cố đất” để trang trải. Tiếp sau đó một điều xảy ra như là tất yếu do gia đình không có nguồn thu nhập đáng kể để bù đắp khoản vay: ông bà Nghĩa đã phải bán đất để trả nợ và chi tiêu cho các con học hành. Đến nay đất đã bán hết mà nợ vẫn chưa trả xong, vẫn còn thiếu đến hai cây vàng. May mắn là ông bà vay của các anh em trong nhà nên không bị thúc giục trả nợ ráo riết.
Sau khi bán đất không còn cách nào khác là ông bà phải chuyển nghề hoặc đi làm thuê. Ông Nghĩa đi làm thợ hồ, nhưng vì chỉ là thợ phụ nên mỗi ngày làm việc chỉ được 25.000 đồng. Cũng có khi ông đi làm mướn, tức là người ta thuê làm gì ông làm nấy. Bà Cam mở hàng bán cà phê, nhưng vì quán nhỏ, vốn ít nên mỗi ngày bà chỉ được lãi khoảng 50.000 đ (1, 5 triệu đồng/tháng). Tuy vậy, đây cũng trở thành một trong những nguồn thu nhập chính của gia đình. Anh con cả Văng Hoàn Khải hùn với người khác để chở đất thuê bằng xuồng. Hai người con khác của ông bà là chị Hợp (30 tuổi, văn hoá lớp 6/12) và anh Giang (28 tuổi, văn hoá lớp 4/12) lên Tp. HCM làm công nhân cho một nhà máy đóng thùng của tư nhân ở Quận 11. Thu nhập của anh Giang 1,1 triệu đồng/tháng, còn chị Hợp là 900.000 đồng. Tuy vậy, sinh hoạt ở thành phố đắt đỏ và tiền đi về An giang tốn kém nên chị Hợp và anh Giang cũng không có nhiều dịp về nhà, mà ở luôn ở nhà chủ thuê làm việc. Anh con trai út Văng Như Khánh có trình độ văn hoá cao nhất, làm ở xã đội nhưng lương cũng chỉ 400.000 đ/tháng.
Với thu nhập như trên, gia đình ông bà Nghĩa có thể tạm đủ cho sinh hoạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn việt nam.doc