Hướng dẫn việc lựa chọn cơ cấu cây trồng cho mỗi vùng để đạt sản lượng và hiệu quả kinh tế, đảm bảo tiêu chuẩn nguyên liệu việc sản xuất và chế biến gỗ; và cung lúc đưa ra biện pháp đầy đủ cây con (bao gồm cây nghiên cứu, cây trồng trong nước và nhập khẩu) để trồng rừng nguyên liệu; thực hiện nhiệm vụ thúc đẩy trồng rừng, chuyển giao tiến bộ công nghệ về sản xuất cây giống, trồng rừng, các kỹ thuật chăm sóc và bảo vệ.
Trên cơ sở quy hoạch trồng rừng, xem xét và bổ sung các chính sách để khuyến khích các thành phần kinh tế khác đầu tư trồng rừng, hưởng lợi từ rừng nguyên liệu đặc biệt là từ các chính sách ưu đãi về đất, tín dụng và các hỗ trợ về giống, cơ sở hạ tầng về vùng nguyên liệ và bán sản phẩm.
Nhanh chóng triển khai nghiên cứu sơ bộ về đầu tư thử nghiệm vào việc sản xuất ván nhân tạo trong nước và đánh giá đầy đủ về hiệu quả đầu tư, đầu ra sản phẩm để định hướng phát triển trong thời gian tới; dựa trên cơ sở đó, đưa ra giải pháp đáp ứng nhu cầu tiêu thụ gỗ ván nhân tạo trong nước và nguyên liệu để sản xuất đồ gỗ xuất khẩu.
69 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2052 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Chiến lược xuất khẩu quốc gia ngành công nghiệp chế biến gỗ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
con đường hình thành những nhóm doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và phát triển chuỗi cung cấp sỉ trong ngành. Hiện nay giá lao động ở Đài Loan đang khá cao và họ có xu hướng chuyển sản xuất sang các nước như Trung Quốc và gần đây là Việt Nam.
Tuy nhiên trong những năm mới bắt đầu kể từ khi tham gia vào thị trường đồ gỗ những năm 70, Đài Loan đã phát triển một ngành công nghiệp phụ trợ khổng lồ cung cấp phụ kiện hoàn thiện, phần cứng, máy móc, vv và ngay nay họ đã trở thành nhà cung cấp chính không chỉ cho đồ gỗ mà còn cung cấp phụ kiện và nguyên liệu phụ cho việc sản xuất đồ gỗ. Vì vậy, sản phẩm đồ gỗ mang thương hiệu Đài Loan có chất lượng tuyệt vời xét cả về góc độ giá trị, được làm với các thiết bị tốt, trình độ cao và sử dụng các nguyên liệu hoàn thiện cao cấp. Ngoài ra, các biện pháp quản lý chất lượng tuyệt với đang được áp dụng để đảm bảo hình thức và công dụng thoả mãn hoặc vượt yêu cầu, mong đợi của khách hàng.
2.4.2.8 Sở hữu trí tuệ và kiểu dáng.
Việt Nam vẫn thiếu các chính sách để bảo hộ thương hiệu và nhãn hiệu. Chính sách như vậy thực sự cần phải được áp dụng. Tuy nhiên để bảo hộ cho thiết kế đồ gỗ là vô cùng khó. Chủ chương ngắn hạn là khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các thiết kế tốt và đưa các thiết kế đó ra thị trường với một chất lượng mà khó có thể sao chép được một cách chính xác. Quá trình này chỉ có thể được thực hiện bằng các nỗ lực cải tiến sản xuất và một chính sách “không thoả hiệp” về chất lượng.
2.4.2.9 Khả năng cung cấp số lượng lớn hơn
Ở đây vấn đề lớn của việc “toàn cầu hóa” nảy sinh. Khối lượng xuất khẩu hàng ngoại thất lớn từ Việt Nam được nhiều tập đoàn đa quốc gia lớn theo đuổi, những tập đoàn này có yêu cầu chứng nhận chất lượng gỗ (FSC hoặc tương tự) và chính sách mua hàng của họ để lại rất ít lợi nhuận cho nhà sản xuất. Các nhà cung cấp thường bận rộn với áp lực hàng ngày. Các nhà quản lý không giành thời gian suy nghĩ về định hướng chiến lược đến khi đã quá muộn. Và cần phải nhấn mạnh một lần nữa rằng gia tăng giá trị là điều mà hoạt động sản xuất cần phải đạt được bằng cách tập trung vào marketing và cơ sở sản xuất tốt.
Theo một khách hàng quốc tế lớn “chúng tôi có từ 10 – 12 nhà cung cấp có tại Việt Nam về lĩnh vực đồ gỗ. Hầu hết cung cấp đồ gỗ keo, đồ dùng trong vườn xuất xứ hoàn toàn từ gỗ trồng. Chúng tôi lựa chọn Việt Nam vì ở đây nhân công rẻ nhưng nếu năng suất không được cải thiện thì giá nhân công cũng không còn rẻ nữa và chúng tôi sẽ ra đi.”
Theo một nhà nhập khẩu đa quốc gia lớn khác “Đúng là giá cả của chúng tôi rất chặc chẽ nhưng chúng tôi mang đến cho các nhà máy những đơn đặt hàng rất lớn. Nếu họ không thể đạt đựơc khối lượng đó trong thực tế chúng tôi không thể làm ăn với họ được. Chúng tôi bỏ Indonesia để tới Việt Nam vì họ không thể đáp ứng số lượng chúng tôi yêu cầu.
Điều này có thể được mô tả như là “sự bá chủ” của các tập đoàn thương mại đa quốc gia lớn như Walmart, Sears, IKEA, Carrefours, Mitsui, Isetan, METRO, GB, B&Q v.v… kết quả của quá trình toàn cầu hoá. Những “ông lớn” này hiện nay đang chiếm lĩnh thị trường các nước phát triển. Họ mua số lượng lớn với giá cả hà khắc. Họ làm các nhà sản xuất bị “giam cầm” trong số lượng và không còn lợi nhuận, thường thì họ “khoá” các nhà sản xuất trong “mô hình” buôn bán của mình và không để lại chỗ trống nào để có thể tìm hiểu những đầu ra khác cho sản phẩm.
Kiểu kinh doanh như vậy có thể có lợi trong ngắn hạn những cho nhà sản xuất đang tìm kiếm cơ hội ổn định sản xuất. Nhưng nhìn chung, những công ty chỉ cung cấp cho những công ty này có nguy cơ bị phá sản trừ khi họ dành thời gian xây dựng và cải tiến mô hình kinh doanh và xây dựng thị trường riêng cho mình thông qua việc thiết kế, làm thương hiệu và các dịch vụ.
2.4.2.10 Thiết kế và cải tiến sản phẩm
Theo ước tính khoảng 90% sản phẩm của Việt Nam dựa vào nhu cầu của người tiêu dùng. Rất ít sản phẩm được xây dựng và cải tiến theo sáng tạo của chính ngành đó, các nhà xuất khẩu thiếu khả năng cạnh tranh trong thiết kế. Đây là một trong những điểm yếu cần được nêu ra trong chiến lược.
Các sản phẩm của Việt Nam có mẫu mã giống nhau, đặc biệt là các sản phẩm ngoại thất. Việt Nam thiếu những nghiên cứu đầy đủ và hỗ trợ phát triển đối với việc sản xuất sản phẩm đồ gỗ.
Các thị trường tiềm năng tại Mĩ, Châu Âu và Nhật bản với chi phí thấp, thị trường đa dạng và nguồn cung cấp lớn, tuy nhiên, khi toàn bộ chuỗi phân phối đã nâng cấp lên mức chất lượng cao hơn, mẫu mã sản phẩm tốt hơn, thì vẫn đòi hỏi giá phải giữ ở mức thấp và tất nhiên buộc các nhà sản xuất phải đáp ứng mức giá thấp nhất. Hiện nay, các nhà cung cấp của Việt Nam đang hoàn toàn dựa vào lợi thế giá rẻ để cạnh tranh và vẫn bị đánh bại bởi các nhà máy của Trung Quốc. Đây không phải là một thị trường lý tưởng để kinh doanh.
Để cung cấp cho một thị trường cao hơn, các nhà sản xuất cần cải tiến mẫu mã, chất lượng và công nghệ của họ cũng như giữ được bản sắc mẫu mã hiện tại và theo xu thế của người tiêu dùng. Họ cũng cần phải bắt đầu xây dựng “thương hiệu” sản phẩm nói riêng của mình và phải gắn xuất sứ “VIETNAM” hàng chất lượng cao và giá cả phù hợp. Mục tiêu này cần phải đạt được để tiến gần tới thị trường và có càng ít “sự hiểu lầm” giữa nhà sản xuất với người tiêu dùng cuối cùng càng tốt. Có tiềm năng xuất khẩu lâu dài cho các công ty hạng trung bình với mục tiêu cung cấp cung cấp sản phẩm tốt hơn cho thị quốc tế tầm trung.
Hiện nay, một số công ty lớn đã thành lập phòng thiết kế riêng và có xu hướng hướng tới
việc thuê các nhà thiết kế nước ngoài để phát triển sản phẩm cho mình. Việc thiết kế mẫu là bắt buộc và đào tạo thiết kế phải là một phần của bất kỳ chiến lược nâng cấp và phát triển nào cho ngành.
2.4.2.11 Tiếp cận nguồn tài chính
Việc tiếp cận với nguồn tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong ngành công nghiệp. Các nhà sản chế biến gỗ và sản xuất đồ gỗ cũng không phải là ngoại lệ. Họ cần nguồn hỗ trợ tài chính để nâng cấp máy móc, tích trữ đủ lượng nguyên liệu để đảm bảo ổn định sản xuất và bán hàng. Có nhiều nguồn cung cấp tài chính mà các nhà sản xuất đồ gỗ có thể tiếp cận từ các ngân hàng thương mại, các ngân hàng phát triển đến các quỹ đầu tư tư bản. Nói chung, thủ tục vay vốn khá mất thời gian mặc dù đã được cải tiến rất nhiều so với trước đây. Bên cạnh đó, lãi suất ngân hàng cao (12 đến 15% một nămm) là vấn đề lớn nhất khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tăng khả năng cạnh tranh của ngàn. Những hỗ trợ xa hơn nữa trong việc giảm gánh nặng lãi suất cần được thực hiện để thúc đẩy ngàng công nghiệp gỗ. Nhiều năm trước Chính phủ Trung Quốc đã yêu cầu các ngân hàng phải đưa ra mức lãi suất thấp nhất cho các doanh nghiệp gỗ.
Trong bối cảnh của khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiên nay, các nhà nhập khẩu nước ngoài cũng rơi vào tình trạng rất khó đạt được những khoản vay từ ngân hàng để hỗ trợ cho các hoạt động nhập khẩu của họ, cũng vì vậy, các nhà xuất khẩu hàng đồ gỗ của Việt Nam cũng đứng trước nguy cơ thiếu vốn ứng trước để hỗ trợ việc sản xuất.
2.4.2.12 Xúc tiến thương mại
Các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam từ các nước Châu Á khác và các nước Châu âu đã có hệ thống xúc tiến thương mại rất tiên tiến. Họ có những hội chợ thương mại quốc tế quan trọng tổ chức trong nước và họ tham dự các cuộc triển lãm quốc tế hàng đầu cùng nhau. Hệ thống thông tin tuyệt vời thu hút ngày càng nhiều đối tác kinh doanh. Sự tham dự các triển lãm thương mại một cách thường xuyên cũng là yếu tố sống còn cho sự phát triển của ngành.
Nhiều nhà nhập khẩu nước ngoài nói rằng họ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhà cung cấp thích hợp ở Việt Nam trong khi các nhà xuất khẩu cũng nói rằng họ rất khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường liên quan vì có ít kiến thức về cấu trúc thị trường quốc tế.
2.4.2.13 Các kỹ năng kinh doanh
Ngành công nghiệp gỗ Việt Nam là một ngành công nghiệp còn rất non trẻ với một số doanh nghiệp chỉ mới nổi lên trong vòng 2 đến 5 năm trở lại đây. Do vậy, các kỹ năng kinh doanh, kiến thức thị trường, kế hoạch tài chính, cơ cấu tổ chức công ty, khả năng giao tiếp bằng tiếng nước ngoài còn rất yếu. Những nhà quản lý điều hành mọi việc từ phát triển sản phẩm, marketing, quản lý chất lượng đến quản lý tài chính. Không có sự phân cấp tổ chức với những phòng chức năng chuyên nghiệp trong các doanh nghiệp đồ gỗ, do đó, kết cấu của doanh nghiệp rất yếu và khi người lãnh đạo vắng mặt thì hoạt động kinh doanh cũng ngưng trệ
2.4.2.14 Cơ sở hạ tầng
Việc vận chuyển hàng từ Việt Nam tới các thị trường tại Mĩ hay Châu Âu nhìn chung không có vấn đề gì về vận tải nhưng chi phí vận chuyển thì đắt hơn. So với Trung Quốc, các nhà xuất khẩu Việt Nam phải chịu chi phí vận chuyển ra nước ngoài cao hơn kể cả vận chuyển đường biển và đường hàng không. Mới đây, một số báo cáo của Đại học Georgetown, Mĩ về chi phí vận chuyển hàng trên biển từ Trung Quốc và Việt Nam tới các bang của Mĩ chỉ ra rằng “thời gian vận chuyển đường biển và giao hàng từ Việt Nam tới Mĩ cho 50 containers là 322.000 đô la Mĩ và mất 17-35 ngày, trong khi đó vận chuyển từ Trung Quốc là 136.000 đô la Mĩ và mất 11 ngày với số lượng tương tự”. Các nhà nhập khẩu quốc tế ám chỉ rằng các nhà xuất khẩu Trung Quốc đã được trợ cấp khoảng 10-30% chi phí vận chuyển đường biển.
Cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các cảng biển thích hợp đã trở thành mối quan tâm chính cho việc phát triển công nghiệp đồ gỗ tại một số tỉnh. Trong thời gian hiện tại, có một xu hướng tiến tới chuyển các nhà máy sản xuất từ các tỉnh Trung bộ đến các trung tâm chế biến gỗ như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương và Bình Định. Việc làm này nhằm giảm chi phí vận chuyển tới cảng và tăng nguồn cung các phụ liệu (vải sợi, bộ phận kim loại, vật liệu hoàn thiện v.v…) Các nhà máy chế biến tại các tỉnh sau đó chỉ chuyên sản xuất các bộ phận và phụ kiện cho các nhà máy lắp ráp tại khu vực trọng điểm về gỗ. (Nhà máy sản xuất đồ gỗ ở Gia Lai là một ví dụ, họ phải trả từ 300 đến 650 đô la Mĩ cho một container 40’ tới cảng Qui Nhơn và Sài Gòn, trong khi chi phí từ Bình Dương tới Sài Gòn chỉ khoảng 100 đô la Mĩ)
Điều kiện đường xá ở các tỉnh phía Nam cũng là một vấn đề. Hầu hết đường xá ở khu vực này chỉ đảm bảo cho xe tải ít hơn 25 tấn; nhưng container chứa gỗ nhập khẩu thường hơn 30 tấn. Để vận chuyển gỗ vào nhà máy, các công ty chế biến gỗ phải chia số lượng gỗ ra các phần nhỏ hơn điều này sẽ làm tăng thêm chi phí sản xuất.
2.4.2.15 Các vấn đề thủ tục khác
Các vấn đề thủ tục và thưong mại khác của hoạt động xuất khẩu đồ gỗ bao gồm thanh toán qua ngân hàng, nhà kho, thủ tục hải quan và các dịch vụ liên quan. Tất cả những vấn đề này đều chấp nhận được ngoại trừ hạ tầng kho bãi rất tồi tệ. Trong nhiều năm, Bộ Thưong mại (nay là Bộ Công thương) đã yêu cầu Hiệp hội kêu gọi các công ty thành viên xây dựng các trung tâm nhập khẩu và kho bãi tại 3 miền trên cả nước nhưng nỗ lực đó vẫn chưa có kết quả và các doanh nghiệp vẫn phải xây dựng kế hoạch riêng cho việc nhập khẩu, điều này khiến cho giá nguyên liệu đầu vào bị đẩy lên cao.
2.4.2.16 Tóm lược một số nhân tố thiết yếu đảm bảo sự thành công
Chính phủ phải năng động trong việc tạo ra môi trường thuận lợi cho ngành công nghiệp phát triển. An ninh nguyên liêu, cơ sở đào tạo, tài chính và cơ sở hạ tầng là những vấn đề thết yếu.
Công nghiệp phải được quản lý một cách hiệu quả để dảm bảo cung cấp nguồn vốn đầy đủ cho phát triển nguồn nguyên liệu và thu hút lượng đầu tư cần thiết. Giá trị sản phẩm chứ không phải là số lượng mới là nhân tố quyết định.
Hoạt động phát triển thương hiệu sản phẩm phải được thiết lập và thúc đẩy để đảm bảo sự hài lòng của khách hàng và sự trung thành của họ với sản phẩm.
Marketing, thiết kế, cải tiến và phát triển sản phẩm phải được thực hiện một cách tích cực để đảm bảo gia tăng giá trị cho sản phẩm và chiếm lĩnh thị trường.
Phải không ngừng theo đuổi mục tiêu chất lượng và giá trị thành tiền của sản phẩm.
Thu hút và giữ chân người lao động là yếu tố sống còn cho sự thành công lâu dài của công ty. Trách nhiệm xã hội ở mọi cấp của doanh nghiệp cũng là một yếu tố cần thiết.
2.5 Môi trường cạnh tranh quốc tế
Đặt dấu ấn trong môi trường kinh doanh của ngành là một bước chính để đạt được lợi thế cạnh tranh. Lợi nhuận trung bình của các doanh nghiệp Việt Nam giao động từ 10 đến 12% đối với đồ ngoại thất, thậm chí còn có trường hợp thấp hơn 10%. Các nhà sản xuất đồ nội thât thu được lợi nhuậnc cao hơn nhưng cũng chỉ giao động từ 12 đến 20%. Đồ trạm khảm và đồ gỗ đại trà thu được lợi nhuận cao nhất đặc biệt là tiêu thụ trong nước (25 đến 40%).
Trong các thị trường mà các doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động, những đối thủ cạnh tranh chính là Indonesia, Malaysia và Trung Quốc đối với đồ ngoại thất và Trung Quốc, Malaysia, và Đài Loan đối với đồ nội thất
Bảng 8: Lợi thế cạnh tranh của đồ gỗ Việt Nam với một số nước khác trong khu vực
Ngoại thất
Indonesia
Việt Nam
Ưu điểm
Nguồn cung cấp gỗ nội địa phong phú đặc biệt là gỗ Tếch và các loại gỗ cứng khác. Một số loại gỗ Tếch được chứng nhận FSC.
Giá nhân công rẻ
Quan hệ thương mại tốt với người Hà Lan trong việc tiếp cận thị trường
Quan hệ làm ăn lâu dài với người Mỹ
Ưu thế cạnh tranh của Việt Nam đối với Indonesia là: chất lượng đồng đều, giao hàng đúng hẹn, chất lượng quan trọng hơn giá cả. Việt Nam nên tận dụng những lợi thế này vì:
Giá lao động rẻ với năng suất khá cao
Cơ sở hạ tầng kinh doanh tốt hơn
Môi trường ổn định
Giá rẻ
Chất lượng đồng đều với mức giá thoả thuận
Nhược điểm
Chất lượng không đồng đều
Giao hàng không đúng hạn
Môi trường tài chính khó khăn với nhiều quy tắc
Malaysia
Việt Nam
Ưu điểm
Nguồn cung cấp gỗ nội địa phong phú với giá cả được trợ cấp.
Cơ sở hạ tầng xuất khẩu tốt.
Giá container rẻ
Các mối quan hệ làm ăn lâu đời
Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam đối với Malaysia hiện nay chủ yếu là giá rẻ và có khả năng sản xuất số lượng lớn.
Nhược điểm
Giá nhân công cao với năng suất thấp khiến cho giá sản phẩm của Malaysia đắt đỏ.
Trung Quốc
Việt Nam
Ưu điểm
Được hỗ trợ về nguồn lực và vận tải nội địa.
Cơ sở hạ tầng xuất khẩu tốt.
Chất lượng đồng đều
Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam so với Trung Quốc hầu hết là nhờ giá nhân công thấp nhưng đó còn là rào cản chống lại sự bành trướng của thị trường Trung Quốc.
Nội thất
Indonesia.
Việt Nam.
Ưu điểm.
Ưu điểm.
Nguồn cung cấp gỗ đỏ dồi dào đặc biệt là gỗ gụ gỗ gụ.
Có các sản phẩm trạm khảm gỗ gụ theo kiểu cổ điển tuyệt vời
Nguồn cung cấp mây và gỗ cao su dồi dào
Kinh nghiệm buôn bán với người Hà Lan
Quan hệ làm ăn lâu dài với các công ty Mỹ
Kinh nghiệm ngày càng tăng nhờ các doanh nghiệp FDI đã vào do có nguồn lao động giá rẻ và đóng góp những mẫu thiết kế tốt và nhiều chuyên gia sản xuất.
Tiềm năng về trạm khảm đồ gỗ theo trường phái cổ điển của thế giới.
Giá cả
Có thể ứng dụng rộng rãi các sản phẩm thủ công mỹ nghệ vào cuộc sống.
Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam là với các doanh nghiệp FDI, chỉ có họ mới có thể sử dụng kinh nghiệm và thương hiệu của mình để tận dụng lợi thế giá lao động rẻ và chi phí sản xuất thấp.
Nhược điểm.
Chất lượng không đồng đều vì kỹ thuật chế tác kém.
Nổi tiếng vì khai thác rừng bừa bãi nên khách hàng phương tây rất e ngại
Không giao hàng đúng hẹn
Malaysia
Việt Nam
Ưu điểm
Nguồn cung cấp gỗ cao su dồi dào với giá trợ cấp.
Cơ sở hạ tầng tuyệt vời
Điều kiện cung cấp phần cứng và các phụ kiện rất tốt
Hạ tầng triển lãm tốt
Các dịch vụ hỗ trợ công nghiệp của chính phủ tuyệt vời( MTIB )
Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam là với các doanh nghiệp FDI, chỉ có họ mới có thể sử dụng kinh nghiệm và thương hiệu của mình để tận dụng lợi thế giá lao động rẻ và chi phí sản xuất thấp. Sự cạnh tranh trong ngành ở trong nước chưa lớn ngoại trừ một số sản phẩm cơ bản.
Nhược điểm
Giá nhân công cao
Năng suất thấp hơn cả Việt Nam và Trung Quốc
Trung Quốc
Việt Nam
Ưu điểm.
Nguồn lực được hỗ trợ
Ván gỗ nhân tạo chất lượng tốt với giá ưu đãi so với thị trường thế giới.
Cơ sở hạ tầng tuyệt vời
Điều kiện cung cấp phần cứng và các phụ kiện rất tốt
Năng lực thiết kế phát triển nhanh
Cở sở hạ tầng triển lãm tốt
Việt Nam có rất ít lợi thế so với Trung Quốc về cả đồ gỗ phổ thông và đồ gỗ gia đình. Chỉ có một số ưu điểm nổi bật sau:
Đồ gỗ trạm khảm thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam có giá rẻ hơn điều này làm nên sức cạnh tranh nhưng khi Trung Quốc đưa sản phẩm này vào sản xuất công nghiệp thì ưu thế đó sẽ mất đi.
Giá đồ gỗ rẻ do giá nhân công rẻ là một tiềm năng lợi thế cho các công ty Việt Nam.
Nhược điểm.
Có nhiều công ty ở Trung quốc không đủ khả năng xuất khẩu nhưng vẫn cố gắng xuất khẩu. Đây là một cạm bẫy mà nhiều khách hàng phương tây không nhận ra và vì vậy không đạt được những điều mà họ đã ký kết.
3 Khung pháp lý
3.1 Chính sách về ngành của Chính phủ
Quyết định 08/ 2001/ QD-TTg ngày 11/01/2001 của Thủ tướng chính phủ về ban hành quy định về việc sử dụng và bảo vệ rừng tái sinh tự nhiên.
Quyết định 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng chính phủ về quyền và
nghĩa vụ của những cá nhân và hộ gia đình được giao quản lý rừng.
Hướng dẫn 12/2003/CT-TTG ngày 16/5/2003 của Thủ tướng chính phủ về việc củng có các biện pháp khẩn cấp bảo vệ và phát triển rừng.
Chỉ thị 19/2004/CT-TTG ngày 1/6/2004 của Thủ tướng chính phủ về phát triển tài nguyên gỗ và công nghiệp chế biến lâm sản.
Nghị định 200/2004/ND-CP ngày 3/12/2004 của chính phủ về việc sắp xếp và cải cách các doanh nghiệp nhà nước về rừng.
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng do Quốc hội thông qua ngày 3/12/2004.
Bộ NN & PTNT ban hành Quyết định số 3/2005/QĐ-BNN ngày 5/1/2005 liên quan đến các quy định về khai thác gỗ để làm nhà cho người dân tộc thiểu số đang có cuộc sống khó khăn dựa trên Quyết định số 134/2004/QĐ – TTg, do Thủ Tướng ban hành ngày 20/7/2004.
Tiêu chuẩn về công nghệ và kinh tế trong việc trồng rừng, tái trồng rừng và bảo vệ rừng do Bộ NN & PTNT ban hành ngày 6/7/ 2005.
Bộ NN & PTNT ban hành Quyết định về quy định về quản lý và nhận trồng rừng, tái trồng rừng, bảo vệ rừng và khoanh vùng khu vực tái định cư trồng rừng ngày 24/1/2005.
Danh mục những giống cây được trồng tại 9 khu vực rừng sinh thái ban hành bởi Bộ NN &PTNT ngày 15/3/2005
Quy định về khai thác gỗ và các loại lâm sản do Bộ NN & PTNT ban hành ngày 7/7/2005
Quy định về tiêu chuẩn phân loại rừng cho các mục đích sử dụng đặc biệt ban hành bởi Bộ NN&PTNT ngày 12/10/2005
Quy địn về quản lý cây và hạt giống trồng rừng do Bộ NN&PTNT ban hành
Quyết định số 279/2005/QD-TTg ngày 3/11/2005 và Quyết định số 80/2009/QĐ- TTg ngày 21 tháng 5, 2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế soạn thảo và triển khai chương trình xúc tiến thương mại quốc gia 2006-2010.
Nghị định số 23/2006/ND-CP ngày 3/3/2006 về việc thực hiện luật bảo vệ và phát triển rừng.
Quyết định số186/2006/QĐ-TTg về ban hành quy chế quản lý rừng của Thủ tướng chính phủ, ngày 14/8/2006
Quyết định số 142/2006/QĐ-TTg thông qua dự án sắp xếp và cải cách các doanh nghiệp nhà nước về rừng thuộc Bộ NN & PTNT, ban hành bởi Thủ tướng chính phủ, ngày 19/6/2006
Quyết định số 62/2006/QĐ-BNN thông qua chiến lược tái tạo tài nguyên rừng giai đoạn 2006 – 2020, do Bộ NN & PTNT ban hành ngày 16/8/2006
Quyết định số 2366/QĐ/BNN-LN thông qua chiến lược bảo tồn và phát triển lâm sản không phải gỗ rừng giai đoạn 2006-2020, do Bộ NN & PTNT ban hành 17/8/2006
Nghị quyết về mục tiêu điều chỉnh dự án 5 triệu hec ta rừng tái sinh giai đoạn 2006-2010, thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá XI ngày 29/11/2006.
Quyết định Số. 106/2006/QĐ-BNN, về quản lý cộng đồng làng bản trồng rừng ban hành bởi Bộ NN & PTNT ngày 27/1/2007
Quyết định số18/2007/QD-TTg, ngày 5/2/2007 của Thủ tướng chính phủ về chiến lược phát triển rừng Việt Nam 2006-2020
Chiến lược phát triển rừng Việt Nam 2006 - 2020
Nghị định số 38/2007/TT-BNN về khai thác rừng, giao rừng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng (Bộ NN & PTNT ban hành ngày 25/4/2007)
Nghị định số 48/2007/NDD-CP về nguyên tắc và phương pháp đánh giá giá trị của rừng do chính phủ ban hành ngày 28/3/2007
Thông tư liên tịch số 15/2007/TTLT-BTC-BNN&PTNT, hướng dẫn sử dụng và quản lý ngân sách nhà nước về hạt giống, vật nuôi trồng rừng do Bộ NN&PTNT và Bộ Tài chíh ban hành ngày 8/3/2007
Mục đích chung của các chinh sách trên là để phát triển rừng một cách bền vững để phục vụ nhu cầu chế biến và bảo vệ môi trường (Mục đích chung của việc phát triển rừng ở Việt Nam là thiết lập một diện tích rừng bao phủ 43-44% điện tích đất nước vào năm 2010). Khuyến khích ngành chế biến gỗ, xuất khẩu và trồng rừng lấy gỗ.
Sự khích lệ cũng được giành cho việc trồng rừng, đặc biệt là xúc tiến phát triển kinh tế trồng rừng. Một số thông tin cơ bản về ưu đãi tài chính là :
Giảm lãi suất cho hoạt động đầu tư vào trồng rừng (từ 0 đến 5% của chu kỳ trồng rừng đầu tiên);
Miễn thuế đất trong hai chu kỳ đầu cho mỗi loài và tăng hợp đồng bảo vệ rừng (cả với người bản địa và các công ty/doanh nghiệp về rừng) thông qua một cơ chế chia lợi nhuận phù hợp;
Cung cấp hạt giống cho nông dân và
Khuyến khích thành lập các liên doanh trồng rừng, chế biến gỗ và sản xuất xuất khẩu.
Có một số ưu đãi đằng sau việc trồng rừng sản xuất tại Việt Nam bao gồm:
Cho thuê đất thời gian dài hơn đối với hoạt động trồng rừng so với hoạt động khác;
Miễn thuế đất trong năm năm đầu; và
Giảm 50% tiền thuê đất trong năm năm sau khi trồng rừng.
Để khuyến khích các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu, từ năm 1998, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp quy liên quan đến xuất khẩu đồ gỗ và nhập khẩu nguyên liệu gỗ thô (Nghị định sô 57/1998/ND-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ; Quyết định số 65/1998/QD-TTg ngày 24/3/1998 của Thủ tướng chính phủ Thông tư số.122/1999/TT-BNN-PTLN ngày 27/3/1998 của Bộ NN & PTNT) để quản lý xuất khẩu đồ gỗ sản xuất từ gỗ tự nhiên và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu nguyên liệu cũng như sử dụng tối ưu nguồn gỗ trồng. Thuế nhập khẩu đối với gỗ nguyên liệu là 0% (gỗ khúc, gỗ xẻ và gỗ ván)
Trong năm 2004, để khuyến khích chế biến gỗ xuất khẩu, Thủ tướng đã chỉ đạo các bộ ban
ngành và uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện các nhiệm vụ sau:
Tổ chức sản xuất trong nước và nhập khẩu, thoả mãn nhu cầu hiện tại về nguyên liệu thô cho ngành công nghiệp gỗ, sản xuất đồ gỗ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Xem xét, chỉnh sửa và bổ sung các chính sách để hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế tham gia vào đầu tư trong lĩnh vực chế biến gỗ, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Tiếp tục xem xét, chỉnh sửa và bổ sung các chính sách hiện thời, các thủ tục hành chính để tháo gỡ những khó khăn cho các nhà sản xuất đồ gỗ; cung cấp những hướng dẫn và hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm và từng bước xuất khẩu sản phẩm gỗ.
Đối với các hoạt động xúc tiến thương mại, chính phủ hỗ trợ các nhà xuất khẩu nói chung và các nhà xuất khẩu gỗ nói riêng tại các hội chợ thương mại quốc tế (100% phí đăng ký gian hàng), đoàn marketing (vé máy bay, đi lại…). Trong thời gian tới, chính phủ còn hỗ trợ một phần các khoá đào tạo, và xuất bản các ẩn phẩm xúc tiến thương mại.
3.2 Các cơ quan
Bộ NN & PTNT sẽ chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề liên quan đến rừng, từ trồng rừng, bảo vệ rừng đến khai thác chế biến lâm sản. Có 3 Vụ liên quan đến công việc này: Vụ trồng rừng, Vụ bảo vệ rừng và Vụ Nông nghiệp và quản lý chế biến lâm sản. Nhiệm vụ cụ thể của Bộ NN & PTNT như sau:
Nhanh chóng xem xét, hoàn thiện và thông qua kế hoạch trồng rừng nguyên liệu để đảm bảo nguồn cung ổn định về nguyên liệu thô cho ngành công nghiệp chế biến gỗ; đánh dấu diện tích với nhiều cây gỗ lớn, quý hiếm để đảm bảo nguồn gỗ ổn định để duy trì sự phát triển và sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Hướng dẫn việc lựa chọn cơ cấu cây trồng cho mỗi vùng để đạt sản lượng và hiệu quả kinh tế, đảm bảo tiêu chuẩn nguyên liệu việc sản xuất và chế biến gỗ; và cung lúc đưa ra biện pháp đầy đủ cây con (bao gồm cây nghiên cứu, cây trồng trong nước và nhập khẩu) để trồng rừng nguyên liệu; thực hiện nhiệm vụ thúc đẩy trồng rừng, chuyển giao tiến bộ công nghệ về sản xuất cây giống, trồng rừng, các kỹ thuật chăm sóc và bảo vệ.
Trên cơ sở quy hoạch trồng rừng, xem xét và bổ sung các chính sách để khuyến khích các thành phần kinh tế khác đầu tư trồng rừng, hưởng lợi từ rừng nguyên liệu đặc biệt là từ các chính sách ưu đãi về đất, tín dụng và các hỗ trợ về giống, cơ sở hạ tầng về vùng nguyên liệ và bán sản phẩm.
Nhanh chóng triển khai nghiên cứu sơ bộ về đầu tư thử nghiệm vào việc sản xuất ván nhân tạo trong nước và đánh giá đầy đủ về hiệu quả đầu tư, đầu ra sản phẩm để định hướng phát triển trong thời gian tới; dựa trên cơ sở đó, đưa ra giải pháp đáp ứng nhu cầu tiêu thụ gỗ ván nhân tạo trong nước và nguyên liệu để sản xuất đồ gỗ xuất khẩu.
Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tài chính phối hợp với Bộ NN & PTNT, cân đối và phân bổ ngân sách bằng cách tính toán nguồn thu nhập từ ngân sách nhà nước và các nguồn khác để triển khai các chương trình phát triển trồng rừng khác nhau. Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam sẽ căn cứ vào chức năng và nhiệm vụ của mình chỉ đạo việc thực hiện chính sách tài chính để hỗ trợ xuất khẩu và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU QUỐC GIA Ngành công nghiệp chế biến gỗ tại Việt Nam.doc