Báo cáo Cơ sở dẫn liệu với việc thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán tài chính

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG 3

1.1. Khái niệm: 3

1.1.1. Cơ sở dẫn liệu: 3

1.1.2. Mục tiêu kiểm toán: 4

1.1.3. Bằng chứng kiểm toán: 4

1.2. Các tiêu chuẩn cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính: 4

1.3. Mối quan hệ cơ sở dẫn liệu với mục tiêu kiểm toán: 5

1.4. Thu thập bằng chứng kiểm toán 10

1.5. Các yếu tố quyết định tính thuyết phục của bằng chứng kiểm toán: 16

1.6. Mối quan hệ cơ sở dẫn liệu với việc thu thập bằng chứng: 20

1.6.1. Với phương pháp tuân thủ: 20

1.6.2. Phương pháp thử nghiệm cơ bản: 22

1.7. Vai trò của cơ sở dẫn liệu với việc thu thập bằng chứng kiểm toán: 26

1.7.1. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán: 26

1.7.2. Trong giai đoạn thực hiện kế hoạch: 28

1.7.3. Trong giai đoạn kết luận và lập báo cáo: 28

PHẦN 2: THỰC TRẠNG CƠ SỞ DẪN LIỆU VỚI VIỆC THU THẬP BẰNG CHỨNG TRONG KIỂM TOÁN MỘT SỐ KHOẢN MỤC 29

PHẦN 3: NHẬN XÉT VÀ GIẢI PHÁP 36

KẾT LUẬN 39

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 40

 

 

doc41 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 10498 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Cơ sở dẫn liệu với việc thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên vị về phía khách hàng. Do đó, khi kiểm toán viên có được bằng chứng nhờ điều tra anh ta thường vẫn tiếp tục thu thập thêm bằng chứng thực thông qua các thể thức khác. Chính xác về mặt kỹ thuật. Quá trình khảo sát tính chính xác về mặt kỹ thuật bao gồm quá trình kiểm tra lại mẫu gồm các quá trình tính toán và các sự chuyển nhượng thông tin do công ty thực hiện trong kỳ được kiểm toán. Việc kiểm tra lại các tính toán gồm việc khảo sát tính chính xác về mặt tính toán của công ty khách hàng. Công việc này gồm những thể thức như nhân các hoá đơn bán hàng và hàng tồn kho, cộng các sổ Nhật ký và các sổ phụ, và kiểm tra quá trình tính toán phí tồn khấu hao và chi phí trả trước. Công việc kiểm tra lại quá trình chuyển dịch thông tin gồm việc dò lại các số tiền để tin rằng khi cùng một thông tin đó được ghi vào nhiều nơi thì nó được ghi sổ với cùng một số tiền như nhau cho mỗi lần ghi. Thí dụ, kiểm toán viên thường làm các cuộc khảo sát có giới hạn để xác minh trong sổ phụ các thông tin trong sổ nhật ký bán hàng đã được ghi đúng cho khách mua hàng với số tiền chính xác trong sổ phụ Các khoản phải thu, và được tổng hợp chính xác vào Sổ cái. Các thể thức phân tích. Các thể thức phân tích sử dụng những quá trình so sánh và các mối quan hệ để xác định liệu các số dư tài khoản có hợp lý hay không. Thí dụ quá trình so sánh tỷ lệ tổng số dư trong năm hiện hành với năm trước đó. Đối với một số tài khoản không trọng yếu, các thể thức phân tích có thể là bằng chứng cần thiết duy nhất. Đối với các tài khoản khác, có thể giảm các kiểu mẫu bằng chứng khác khi các thể thức phân tích đã chỉ rõ là số dư tài khoản có vẻ hợp lý. Trong một số trường hợp, các thể thức phân tích cũng được dùng để tách riêng các tài khoản hoặc các nghiệp vụ kinh tế sẽ được điều tra rộng rãi hơn để giúp cho việc quyết đĩnh xem liệu có cần xác minh thêm hay không. Thí dụ quá trình so sánh tổng chi phí sửa chữa trong kỳ hiện hành với các kỳ trước đó và quá trình điều tra về sai biệt, nếu đáng kể, để xác định nguyên nhân của mức tăng hay mức giảm. Những quá trình tính toán của riêng kiểm toán viên thường cấu thành thông tin để sử dụng cho các thể thức phân tích. Các thể thức phân tích phải được hoàn thành sớm trong cuộc kiểm toán để giúp cho việc xác định những tài khoản không cần xác minh thêm, ở đâu có thể giảm bớt bằng chứng khác, và lĩnh vực kiểm toán nào phải được điều tra sâu sắc hơn nữa. (2, Tr131) Bảy loại kiểu mẫu bằng chứng trên có thể được dùng để hoàn thành các mục tiêu kiểm toán khác nhau, mỗi mục tiêu kiểm toán ứng với một cơ sở dẫn liệu cần xác định. Chính vì vậy mà kiểu mẫu bằng chứng có mối quan hệ mật thiết đối với cơ sở dẫn liệu. Mỗi kiểu bằng chứng kiểm toán được dùng để hình thành nên một nhận xét đánh giá về mức độ trung thực và hợp lý của một hay nhiều cơ sở dẫn liệu đã được thể hiện trên các báo cáo tài chính. Mối quan hệ giữa các kiểu mẫu bằng chứng và các mục tiêu kiểm toán được khái quát trong bảng sau: Bảng 1: Các kiểu mẫu bằng chứng và các mục tiêu kiểm toán: Kiểu mẫu bằng chứng Mục tiêu kiểm toán Sự hiện hữu phát sinh Tính trọn vẹn Quyền và nghĩa vụ Tính giá và đo lường Trình bày và khai báo Kiểm tra vật chất X X Xác nhận X X X X X Tài liệu chứng minh X X X X X Quan sát X X Điều tra khách hàng X X X X X Chính xác về mặt kỹ thuật X Thể thức phân tích X X X X Kết quả đầu ra quan trọng nhất của quá trình thu thập bằng chứng kiểm toán chính là tính thuyết phục của bằng chứng kiểm toán. Tính thuyết phục của bằng chứng kiểm toán là khái niệm dùng để chỉ độ tin cậy hay chất lượng của bằng chứng kiểm toán. Ba yếu tố quyết định tính thuyết phục của bằng chứng kiểm toán là có giá trị, đầy đủ và đúng lúc. 1.5. Các yếu tố quyết định tính thuyết phục của bằng chứng kiểm toán: Yếu tố thứ nhất là có giá trị: là mức độ đáng tin cậy của bằng chứng. Nếu bằng chứng được xem là có giá trị cao thì nó giúp rất nhiều trong việc thuyết phục kiểm toán viên là các cơ sở dẫn liệu đã được trình bày trên các báo cáo tài chính là trung thực. Tính có giá trị chỉ liên quan với các thể thức kiểm toán đã chọn. Tính có giá trị không thể được cải thiện bằng cách chọn một quy mẫu lớn hơn hoặc các khoản mục ở các tổng thể khác nhau. Nó chỉ có thể được cải thiện bằng cách lựa chọn những thể thức kiểm toán mà có một hoặc nhiều trong 6 đặc điểm dưới đây của chứng cứ có chất lượng cao. Thích đáng: Bằng chứng phải đi đôi hoặc phải thích hợp với mục tiêu mà kiểm toán viên đang khảo sát trước khi nó có thể đủ để thuyết phục. Thí dụ, giả sử kiểm toán viên đang lo ngại là khách hàng quên tính tiền khách về chi phí vận chuyển (liên quan đến cơ sở dẫn liệu trọn vẹn). Nếu kiểm toán viên đã chọn một mẫu gồm các bản sao hoá đơn bán hàng và truy từng cái theo chứng từ vận chuyển liên quan thì bằng chứng sẽ không thích đáng với mục tiêu về xác định tính trọn vẹn. Thể thức thích hợp sẽ là so sánh một mẫu gồm các chứng từ vận chuyển với các bản sao hoá đơn bán hàng liên quan đến xác định xem mỗi chứng từ được tính tiền chưa. Bằng chứng kiểm toán có thể thích đáng cho việc soát xét cơ sở dẫn liệu này song lại không đối với cơ sở dẫn liệu khác. Độc lập với người cung cấp: Bằng chứng có được từ một nguồn ở bên ngoài đơn vị thì đáng tin cậy hơn bằng chứng có từ bên trong. Hay nói cách khác, các cơ sở dẫn liệu được sự đồng thuận của bên thứ ba độc lập thì sẽ được đánh giá cao hơn về mức độ trung thực. Thí dụ, bằng chứng bên ngoài như những tin tức của ngân hàng, luật sư hoặc các khách mua hàng được xem là đáng tin cậy hơn những câu trả lời có được từ các cuộc thẩm vấn thực hiện trong nội bộ đơn vị, hay các chứng từ của đơn vị. Tính hiệu quả trong cơ cấu kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán: Khi một cơ cấu kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán có hiệu quả, bằng chứng thu được từ đó sẽ đáng tin cậy hơn so với từ một cơ cấu yếu kém. Thí dụ, nếu các quá trình kiểm soát nội bộ với hàng bán và đối với việc tính tiền có hiệu quả thì kiểm toán viên có thể thu thập được nhiều chứng cứ có giá trị từ các hoá đơn bán hàng và các chứng từ vận chuyển hơn là nếu các quá trình kiểm soát đó không được thực hiện đầy đủ (hoặc cá biệt hơn nữa là không thực hiện). Điều đó cũng có nghĩa là, trong một môi trường kiểm soát nội bộ có hiệu quả thì các cơ sở dẫn liệu đã được trình bày có mức độ trung thực cao hơn so với trong môi trường không có (hoặc có nhưng không đủ) các yếu tố kiểm soát nội bộ hiệu quả. Kiến thức trực tiếp của kiểm toán viên: Bằng chứng do kiểm toán viên thu được một cách trực tiếp thông qua quá trình xem xét thực tế, quan sát, tính toán và điều tra thì có giá trị hơn thông tin thu được một cách gián tiếp. Thí dụ, nếu kiểm toán viên tính tổng số dư như một tỷ lệ phần trăm của doanh thu và đem so sánh với các kỳ trước đó, bằng chứng đó sẽ đáng tin cậy hơn so với việc kiểm toán viên chỉ dựa trên tính toán của kế toán trưởng. Chính vì vậy mà các cơ sở dẫn liệu được xem xét, phân tích bởi kiến thức trực tiếp của kiểm toán viên thường sẽ được đánh giá khách quan và sát thực hơn so với trường hợp chỉ dựa vào sự trình bày của người khác. Trình độ chuyên môn của những cá nhân cung cấp thông tin: Mặc dù nguồn thông tin là độc lập, bằng chứng chỉ đáng tin cậy khi cá nhân cung cấp nó có đủ trình độ chuyên môn để làm điều đó. Vì lý do này, những xác nhận từ các luật sư và ngân hàng rõ ràng được đánh giá cao hơn những xác nhận về các khoản thu được từ người không quen thuộc với kinh doanh. Điều này cũng đúng đối với kiểm toán viên khi anh ta không đủ trình độ để đánh giá bằng chứng kiểm toán. Mức độ khách quan: Bằng chứng kiểm toán có tính khách quan đáng tin cậy hơn bằng chứng mà cần có sự phán xét đáng kể để đi đến quyết định là nó đúng hay không. Thí dụ về bằng chứng có tính khách quan bao gồm sự xác nhận về các khoản phải thu và các số dư ở ngân hàng, sự kiểm kê thực hiện chứng khoán và tiền mặt, và quá trình tổng cộng danh sách các khoản phải trả để xác định liệu nó có giống với số dư trong sổ Cái tổng hợp hay không. Yếu tố thứ hai là tính đầy đủ: Xét trên góc độ tổng thể thì Tính đầy đủ là khái niệm chỉ số lượng hay quy mô cần thiết của bằng chứng kiểm toán để đưa ra ý kiến kết luận cho cuộc kiểm toán. Xét ở phạm vi hẹp hơn thì tính đầy đủ là khái niệm chỉ số lượng hay quy mô cần thiết của bằng chứng kiểm toán để đưa ra nhận định xác đáng về mức độ trung thực của từng cơ sở dẫn liệu đã được trình bày trên các báo cáo tài chính. Đây là một thước đo mà không có thước đo nào định lượng được chính xác, không có bất cứ một chuẩn mực nào quy định một cách cụ thể bao nhiêu bằng chứng kiểm toán là đủ mà nó phụ thuộc vào sự phán quyết chủ quan của kiểm toán viên. Sự phán quyết đó tuỳ thuộc vào sự cân nhắc của kiểm toán viên khi xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán. Đó là các yếu tố sau: Tính hiệu lực của bằng chứng. Bằng chứng có độ tin cậy càng thấp thì càng cần thu thập nhiều. Một (hay một số ít) bằng chứng có độ tin cậy thấp chưa đủ đưa ra một nhận định xác đáng về đối tượng kiểm toán cụ thể. Một cơ sở dẫn liệu sẽ không được đánh giá một cách chính xác nếu chỉ dựa trên một (hay một ít) bằng chứng có độ tin cậy thấp. Tính trọng yếu. Đối tượng cụ thể của kiểm toán càng trọng yếu thì số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập càng nhiều. Đây là yêu cầu nằm trong tính thận trọng nghề nghiệp của kiểm toán viên. Mức độ rủi ro. Những đối tượng cụ thể được đánh giá là khả năng rủi ro lớn thì lượng bằng chứng kiểm toán phải thu thập càng nhiều và ngược lại. Ví dụ, khi kiểm toán khoản mục Hàng tồn kho trên Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, nếu Kiểm toán viên đánh giá rủi ro xảy ra sai phạm đối với cơ sở dẫn liệu quyền và nghĩa vụ là lớn thì lượng bằng chứng để xem xét, đánh giá cơ sở dẫn liệu này sẽ phải thu thập càng nhiều. Yếu tố thứ ba là tính đúng lúc: Tính đúng lúc của bằng chứng kiểm toán có thể dựa vào hoặc thời gian bằng chứng được thu thập hoặc thời kỳ được kiểm toán. Đối với các cơ sở dẫn liệu trên bảng cân đối tài sản, bằng chứng thường có tính thuyết phục hơn khi nó được thu thập càng gần ngày lập bảng cân đối tài sản. Đối với các cơ sở dẫn liệu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, bằng chứng có tính thuyết phục hơn nếu mẫu được lấy trong suốt thời kỳ kiểm toán so với mẫu được lấy từ một phần của cả kỳ. Thí dụ, mẫu ngẫu nhiên được lấy từ các nghiệp vụ bán hàng của cả năm sẽ có tính thuyết phục hơn mẫu chỉ lấy từ 6 tháng đầu năm. Sự thuyết phục của bằng chứng chỉ có thể được đánh giá sau khi xem xét tổng hợp tính có giá trị, tính đầy đủ và tính đúng lúc. Một mẫu gồm bằng chứng có giá trị cao chỉ có tính thuyết phục khi đồng thời nó cũng đúng lúc. Tương tự, một mẫu lớn gồm bằng chứng không đáng tin cậy thì không thể có sức thuyết phục. Để có thể có được những bằng chứng kiểm toán thuyết phục phụ thuộc rất nhiều vào bốn quyết định về thu thập bằng chứng kiểm toán đã nêu ở trên. Để làm rõ thêm mối liên hệ giữa Cơ sở dẫn liệu và việc thu thập bằng chứng kiểm toán, ta quay trở lại ví dụ trong mục 1, kiểm toán khoản mục Phải thu khách hàng trên Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. 1.6. Mối quan hệ cơ sở dẫn liệu với việc thu thập bằng chứng: 1.6.1. Với phương pháp tuân thủ: Phương pháp tuân thủ hay thử nghiệm tuân thủ là thử nghiệm dựa vào kết quả của hệ thống kiểm soát nội bộ khi hệ thống này tồn tại và hoạt động có hiệu lực, để khẳng định sự tồn tại và hiệu lực này cần khảo sát, thẩm tra và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Đặc biệt, thử nghiệm tuân thủ chỉ thực hiện khi hệ thống kiểm soát nội bộ tồn tại và được đánh giá là hoạt động có hiệu lực trong trường hợp hệ thống kiểm soát nội bộ không tồn tại và không hoạt động liên tục thì kiểm toán viên sẽ không tiến hành thử nghiệm tuân thủ. Thử nghiệm kiểm soát được thực hiện với những phương pháp khác nhau tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Phương pháp kiểm tra tài liệu hoặc thực hiện lại các thủ tục kiểm soát được áp dụng nếu các thủ tục để lại các dấu vết trực tiếp trên tài liệu như các chữ kí phê duyệt , hóa đơn lưu....Nếu các thủ tục kiểm soát không để lại dấu vết trong tài liệu , kiểm toán viên tiên hành quan sát các hoạt động liên quan đến kiểm soát nội bộ hoặc phỏng vấn nhân viên đơn vị về thủ tục kiểm soát. Ngoài ra kiểm toán viên cũng sử dụng các phương pháp bổ sung để xác minh kết quả thử nghiệm. Với phương pháp này kiểm toán viên có thể theo dõi từng bước thực hiện nghiệp vụ đó trên sổ sách hoặc trong thực tế để đánh giá về kiểm soát đối với nghiệp vụ này. Với phương pháp này cơ sở dẫn liệu được chia làm 3 loại: sự hiện diện, tính liên tục, tính hữu hiệu. Với sự hiện diện: Mục tiêu liên quan ở đây là xem xét qui chế kiểm soát có tồn tại hay không, cụ thể là hệ thống kiểm soát nội bộ có thực sự tồn tại trong doanh nghiệp hay không. Trong bất kì một cuộc kiểm toán tài chính nào, kiểm toán viên cần sử dụng các phương pháp thử nghiệm kiểm soát để đánh giá và xem xét xem liệu hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp có thực sự tồn tại hay không từ đó xác định các phương pháp kiểm toán tiếp theo. Tùy vào trường hợp, tùy vào phần hành cụ thể mà phương pháp kiểm toán được sử dụng tương ứng. Chẳng hạn để đảm bảo việc phân cách nhiệm vụ giữa người giữ tiền và người giữ sổ kiểm toán viên có thể thẩm tra việc phân cách nhiệm vụ, phỏng vấn ban quản lí và nhân viên, điều tra xem liệu có sự phân cách thực sự trong đơn vị hay không. Trong trường hợp đơn vị thiết kế thủ tục kiểm soát sử dụng các phiếu xin lĩnh vật tư, đơn đặt hàng, các bảng tập hợp chi phí và báo cáo kiểm định sản phẩm có đánh số trước trong phần hành hàng tồn kho. Lúc này kiểm toán viên điều tra và quan sát việc sử dụng các tài liệu có đánh số trước này, và kiểm tra tính liên tục của chúng cũng như kiểm tra các chữ kí phê duyệt liên quan. Với cơ sở dẫn liệu tính liên tục: Mục tiêu kiểm toán là các qui chế kiểm soát hoạt động liên tục trong kì báo cáo tài chính đã lập. Để đảm bảo mục tiêu kiểm toán viên cần tiến hành theo dõi, phỏng vấn bản quản lí cũng như nhân viên để nhận thức rõ xem liệu thủ tục kiểm soát mà doanh nghiệp thiết kế có được vận hành một cách liên tục không. Phương pháp chủ yếu ở đây được sử dụng là điều tra, phỏng vấn kết hợp với một số phương pháp kiểm soát khác. Với thủ tục kiểm soát là các chứng từ vận chuyển và hóa đơn bán hàng được đánh số trước trong phần hành bán hàng, khi đó thủ tục kiểm toán ở đây là kiểm toán viên sẽ tiến hành chọn dãy hóa đơn chứng từ để kiểm tra việc đánh số có được thực hiện một cách liên tục không. Ngoài ra, có thể kết hợp phỏng vấn những người liên quan trong quá trình để xác minh việc thực hiện. Với cơ sở dẫn liệu là tính hữu hiệu: Tương ứng với cơ sở dẫn liệu này là mục tiêu là qui chế kiểm soát đang hoạt động có hiệu lực không. Với cơ sở dẫn liệu và mục tiêu tương ứng này kiểm toán viên sẽ tiến hành các phương pháp kiểm toán như điều tra, xác minh tài liệu, phỏng vấn, quan sát....để xem hệ thống kiểm soát nội bộ mà doanh nghiệp thiết kế, vận hành có thực sự đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp và thỏa mãn mục tiêu đã đưa ra hay không. Với mỗi thủ tục kiểm soát khác nhau, mỗi phần hành khác nhau thì phương pháp thu thập bằng chứng cũng khác nhau, dó đó kiểm toán viên cần xác định được được cơ sở dẫn liệu cũng như các mục tiêu tương ứng để tiến hành thiết kế các thủ nghiệm đạt hiệu quả cao nhất. 1.6.2. Phương pháp thử nghiệm cơ bản: Thử nghiệm cơ bản là thử nghiệm dùng để thu thập bằng chứng về những sia lệch trọng yếu trong báo cáo tài chính. Bao gồm hai loại thử nghiệm là thủ tục phân tích và thử nghiệm chi tiết. Với phương pháp thu thập bằng chứng theo phương pháp thử nghiệm cơ bản cơ sở dẫn liệu được phân ra làm 6 nhóm: sự hiện hữu, tính trọn vẹn, quyền và nghĩa vụ, tính giá và đo lường, trình bày và công bố, chính xác. Thứ nhất với cơ sở dẫn liệu: Sự hiện hữu (phát sinh) Mục tiêu kiểm toán liên quan tới cơ sở dẫn liệu về sự hiện hữu hoặc phát sinh là nhằm thu thập các bằng chứng để khẳng định rằng các tài sản công nợ và vốn chủ thực sự tồn tại và các nghiệp vụ doanh thu, chi phí đã thực sự phát sinh. Do đó kiểm toán viên có thể sử dụng một số các phương pháp thu thập bằng chứng như phỏng vấn, quan sát, gửi thư xác nhận, kiểm kê.... để đảm bảo cơ sở dẫn liệu được thực hiện cũng như mục tiêu kiểm toán tương ứng. Với cơ sở dẫn liệu này kiểm toán viên có thể kiểm kê tiền và hàng tồn kho hoặc các tài sản khác, lấy hoặc theo dõi xác nhận của người mua về các khoản phải thu có quy mô lớn kết hợp với các khoản có quy mô nhỏ điển hình để xác định rằng tiền cũng như hàng tồn kho có thực sự tồn tại hay không. Với nghiệp vụ bán hàng kiểm toán viên có tể chọn dãy liên tục hóa đơn bán hàng, đối chiếu khoản bán hàng đã ghi sổ với từng hóa đơn và xem xét các chứng từ về bán hàng. Hay với nghiệp vụ thu tiền có thể đối chiếu các khoản thu tiền đã ghi sổ với phiếu thu hoặc giấy báo có của ngân hàng. Như vậy, với cơ sở dẫn liệu và mục tiêu tương ứng với mỗi phần hành, chu trình khác nhau kiểm toán viên cần thiết kế các thử nghiệm cơ bản để đảm bảo nghiệp vụ thực sự xảy ra hay khoản mục thực sự tồn tại. Thứ hai là cơ sở dẫn liệu tính trọn vẹn hay tính đầy đủ: Kiểm toán viên cần thu thập bằng chứng để chứng minh là mội nghiệp vụ, tài sản, nợ phải trả đều được ghi chép và phản ánh đầy đủ trong báo cáo tài chính. Vấn đề này khá phức tạp, và đòi hỏi kiểm toán viên phải sử dụng phối hợp nhiều kĩ thuật kiểm tra chẳng hạn như: - Kiểm tra gián tiếp ở những khoản mục có liên quan. - Dựa vào sự quan sát và kết quả kiểm kê để phát hiện những tài sản nằm ngoài sổ sách. - Sử dụng thủ tục phân tích để phát hiện những trường hợp bất thường và hoạch định chiều hướng kiểm tra. - Kiểm tra các nghiệp vụ xảy ra một thời gian ngắn quanh thời điểm khóa sổ, thủ tục này có thể giúp phát hiện những nghiệp vụ, tài sản hay công nợ không được ghi chép đầy đủ hay không ghi chép đúng niên độ. Chẳng hạn như trong khoản phải thu của khách hàng kiểm toán viên tiến hành cộng lại bảng kê hoặc bảng cân đối các khoản phải thu và đối chiếu với sổ cái, đối chiếu hóa đơn bán hàng và vận chuyển với sổ thu tiền và sổ theo dõi khoản phải thu để đảm bảo các khoản phải thu đã phát sinh đều ghi sổ đầy đủ. Với các khoản phải trả kiểm toán viên thực hiện kiểm tra việc khóa sổ với các nghiệp vụ mua hàng, đối chiếu các hóa đơn của từng người bán với sổ hạch toán chi tiết, các sổ tổng hợp khác. Với nghiệp vụ bán hàng đối chiếu vận đơn với hóa đơn, hóa đơn với các bút toán bán hàng trong nhật kí tiêu thụ và sổ thu tiền để xác minh mọi chứng từ đều đã ghi sổ. Thứ ba là quyền và nghĩa vụ: Kiểm toán viên tiến hành thu thập bằng chứng để khẳng định số liệu được báo cáo là tài sản của công ty phải thực sự phản ánh quyền sở hữu của công ty và những công nợ của công ty thì thực sự phản ánh nghĩa vụ của công ty Chẳng hạn khi kiểm toán khoản mục TSCĐ kiểm toán viên xem xét các hợp đồng, biên bản bàn giao TSCĐ hay khi kiểm toán các khoản phải thu tiến hành kiểm tra dấu hiệu đã ghi sổ các bản lưu hóa đơn liên quan đến khoản phải thu có chú ý khoản chiết khấu, hồi khấu, có thể tiến hành điều tra qua tiếp xúc với nhà quản lý có liên quan về sự đầy đủ cả trong cơ cấu và trong thủ tục với các khoản thu tiền được ghi sổ. Riêng đối với các khoản nợ phải trả, kiểm toán viên cũng phải xem chúng có thực sự là nghĩa vụ của đơn vị hay không? Trong một số trường hợp đặc biệt, tuy các khoản phải trả hiện hữu nhưng có thể không còn là nghĩa vụ của đơn vị. Thứ tư tính giá và đo lường: Kiểm toán viên cần thu thập bằng chứng để xác định liệu các tài sản, công nợ, vốn chủ sở hữu, doanh thu và chi phí có được tập hợp, cộng dồn và ghi sổ đúng số tiền hợp lí không. Để đạt được, kiểm toán viên sẽ: - Xem xét chính sách kế toán mà đơn vị đang áp dụng có phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán hay không. - Tìm hiểu xem việc áp dụng chúng có nhất quán hay không. - Lấy mẫu kiểm tra xem việc tính toán có chính xác hay không. Thí dụ xem xét phương pháp khấu hao, hoặc phân bổ và kiểm tra giá trị còn lại của tài sản có liên quan. Với nghiệp vụ bán hàng kiểm toán viên có thể tính lại các con số trên hóa đơn bán hàng, đối chiếu các bút toán trên nhật kí bán hàng theo hóa đơn bán hàng, đối chiếu chi tiết trên hóa đơn bán hàng với chứng từ vận chuyển bảng giá, đơn đặt hàng hoặc hợp đồng của người mua. Với các khoản phải thu lấy theo dõi xác nhận của người mua về các khoản phải thu, trao đổi với các nhà quản lí bán chịu về khả năng thu tiền ở các khoản quá hạn và đánh giá khả năng thu tiền. Thứ năm là trình bày và công bố: Các nhà quản lí có trách nhiệm phản ánh trung thực về tình hình tài chính, kết quả hoạt động và trình bày đầy đủ các vấn đề trọng yếu trên báo cáo tài chính theo đúng chuẩn mực và chế độ kế toán. Vì thế, kiểm toán viên phải áp dụng các thủ tục kiểm toán thích hợp để đảm bảo cho việc thực thi những vấn đề trên. Kiểm toán viên cần xác định xem liệu các chính sách tài chính kế toán, các nguyên tắc kế toán có được lựa chọn và áp dụng một các hợp lí không và liệu các thông tin cần khai báo có đầy đủ thích đáng không. Cụ thể hơn nữa đối với cơ sở dẫn liệu này là việc sắp xếp, phân loại, tổng hợp và trình bày các khoản mục trên báo cáo tài chính có phù hợp với chuẩn mực, nguyên tắc kế toán hay không. Đối với nghiệp vụ bán hàng có thể xem xét các chứng từ quan hệ giữa nội dung kinh tế cụ thể của nghiệp vụ bán hàng với xử lý phân loại định khoản tương ứng. Đối với khoản phải thu đối chiếu bảng cân đối về khoản phải thu với phân loại các khoản mục trên bảng cân đối kế tài sản và bản tường trình. Kiểm tra hóa đơn thu tiền, các biên bản họp giao ban có liên quan và trao đổi với nhà quản lí về các khoản phải thu không rõ ràng và xác minh lại các giải trình của ban giám đốc. Và cuối cùng là chính xác: Với cơ sở này thì kiểm toán viên thu thập bằng chứng để khẳng định một hoạt động hay một sự kiện được ghi chép theo đúng giá trị, đúng toán học, các phép tính cộng dồn và chuyển sổ là đúng. Ví dụ như đối với các khoản phải thu phương pháp thu thập bằng chứng úng với cơ sở này là chọn ra một số tài khoản phải thu đối chiếu với số thu tiền và sổ cái, cộng lại các trang và cộng dồn bảng kê hoặc bảng cân đối thu tiền và đối chiếu các tài khoản liên quan trên sổ cái. Với nghiệp vụ thu tiền thủ tục kiểm toán đối chiếu các bút toán ở sổ quỹ với sổ theo dõi thanh toán tiền hàng, các báo cáo thu tiền hoặc các bảng kê thu tiền, cộng lại các khoản thu của sổ quỹ và đối chiếu với sổ cái. Như vậy với một thủ tục kiểm toán có thể cung cấp bằng chứng cho nhiều hơn một cơ sở dẫn liệu với mỗi cơ sở dẫn liệu lại bao gồm nhiều những thủ tục kiểm toán khác nhau. 1.7. Vai trò của cơ sở dẫn liệu với việc thu thập bằng chứng kiểm toán: Cơ sở dẫn liệu là những cam kết của nhà quản lí về việc trình bày các thông tin tài chính trên bảng khai tài chính do đó nó có vai trò quan trọng trong công tác kiểm toán của kiểm toán viên. Vai trò đó được cụ thể hóa qua ba giai đoạn của quá trình kiểm toán. 1.7.1. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán: Giai đoạn lập kế hoạch là giai đoạn đầu tiên mà các kiểm toán viên cần thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như những điều kiện cấn thiết khác cho kiểm toán. Giai đoạn này có vai trò quan trọng chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Căn cứ vào các cơ sở dẫn liệu mà ban giám đốc sẽ đưa ra các giải trình hay xác nhận hoặc báo cáo trách nhiệm của nhà quản lí về từng mặt, từng yếu tố cấu thành sự trung thực và hợp lí. Chuẩn mực kiểm toán của các nước thường phân chia 5 loại xác nhận của nhà quản lí chung cho bộ phận hợp thành của bảng khai tài chính, tương ứng với 5 cơ sở dẫn liệu: xác nhận về sự tồn tại hoặc phát sinh, xác nhận về sự trọn vẹn, xác nhận về quyền và nghĩa vụ, xác nhận về định giá hoặc phân bổ, xác nhận về phân loại và trình bày. Trong trường hợp nhà quản lí từ chối cung cấp cam kết này kiểm toán viên có thể nghi ngờ về tính liêm chính của nhà quản lí để từ đó có thể đi đến từ chối hay ý kiến chấp nhận từng phần. Như vậy, cơ sở dẫn liệu giúp cho đoàn kiểm toán có thể hiểu được những cam kết của nhà quản lí, xem xét tính liêm chính từ đó để đánh giá về khă năng chấp nhận kiểm toán và cũng là căn cứ để hình thành mục tiêu kiểm toán. Ngoài vai trò trên, cơ sở dẫn liệu giúp kiểm toán viên xác định các mục tiêu kiểm toán trong cuộc kiểm toán. Với cơ sở dẫn liệu đã xác định sẽ hình thành nên các mục tiêu tướng ứng khi đó để đảm bảo chất lượng kiểm toán. kiểm toán viên sẽ tiến hành thu thập những bằng chứng để kiểm tra xem các thông tin trình bày đã được trình bày có đúng như cở sở dẫn liệu, đúng mục tiêu hay không. Cuối cùng cơ sở dẫn liệu sẽ giúp kiểm toán viên đánh giá khả năng rủi ro cần lường trước khi tiến hành kiểm toán thông qua việc xem xét những khoản mục, những thông tin nào vi phạm cơ sở dẫn liệu được coi là trọng yếu. Như vậy cơ sở dẫn liệu trong giai đoạn này có vai trò đánh giá xem liệu cuộc kiểm toán này có nên thực hiện hay không, giúp kiểm toán viên xác định được mục tiêu từ đó lựa chọn phương pháp kiểm toán tương ứng. 1.7.2. Trong giai đoạn thực hiện kế hoạch: Cơ sở dẫn liệu trong giai đoạn này có vai trò giúp kiểm toán viên thu thập bằng chứng thích hợp và đầy đủ. Trong giai đoạn lập kế hoạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCơ sở dẫn liệu với việc thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính.doc
Tài liệu liên quan