Báo cáo Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên và nghệ thuật quân sự của người Nhật Bản

Năm 1268, lần đầu tiên một phái đoàn ngoại giao của Mông Cổ

đã tới được Nhật Bản dưới sự dẫn đạo của người Triều Tiên, phái đoàn này

cập cảng Daizafu ở Kyùshù, mang theo bức thư của Hoàng đế Đại Nguyên

gửi cho vua Nhật Bản. Thư được trao cho đại diện của chính quyền Bakufu

ở đây có chức danh là “ tướng phòng vệ miền Tây ”, với tư cách một quốc

thư yêu cầu Nhật Bản phải mở cửa giao dịch với Trung Quốc. Thực tế, đó

là một bản yêu sách mượn cớ giao lưu hữu hảo giữa hai nước để đe dọa

chính quyền Nhật Bản, buộc họ phải khuất phục trở thành chư hầu của đế

quốc MôngưNguyên. Bản yêu sách chỉ ra rằng, Đại Nguyên là một đế chế

bất khả chiến bại và nếu Nhật Bản không biết cư xửcho phải đạo thì chiến

tranh tất yếu sẽ xảy ra. Sự khủng bố này còn tiếp tục kéo dài bằng những lá

thư tiếp theo với đầy đủ những lời lẽ hăm doạ về sức mạnh vô địch của các

binh đoàn Mông Cổ. Chính quyền Kamakura, nhận được thư ngay sau đó,

họ tiếp tục chuyển lá thư về triều đình Kyoto mặc dù thừa biết rằng hoàng

gia sẽ chẳng thể đề ra chủ trương gì đáng kể. Quả thật như vậy, cả hoàng

cung vô cùng hoang mang sau khi nhận được bản tối hậu thư, lễ kỷ niệm

sinh nhật Thái Thượng Hoàng bị huỷ bỏ, triều đình họp đi họp lại để tìm ra

quyết sách nhưng chung quy họ chỉ biết cầu ThầnưPhật phù trợ cho chính

khí quốc gia

pdf73 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3532 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên và nghệ thuật quân sự của người Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n lan rộng khắp các tầng lớp quần chúng nhân dân trên toàn quốc. Một đất n−ớc nh− vậy, một dân tộc nh− vậy quyết không thể đầu hàng cho dù kẻ thù của họ có hùng mạnh đến nh− thế nào chăng nữa. II. Hai cuộc kháng chiến chống quân xâm l−ợc Mông-Nguyên. 1. âm m−u xâm l−ợc Nhật Bản của đế quốc Mông Cổ. Cuối thời Tống ( 960-1120 ) n−ớc Trung Hoa rơi vào tình trạng suy yếu trầm trọng, họ liên tiếp bị các tộc du mục ở ph−ơng Bắc tấn công xâm chiếm lãnh thổ. Cuối cùng năm 1230, ng−ời Mông Cổ sau khi diệt các tộc du mục đã chiếm đ−ợc miền Bắc Trung Hoa và thành lập quốc gia của riêng mình gọi là nhà Nguyên. Tranh: Nguyên Thế Tổ -Hốt Tất Liệt. Năm 1259, một thủ lĩnh Mông Cổ là Hốt Tất Liệt忽必烈 ( 1215-1294 ) chính thức lên ngôi hoàng đế ở Trung Quốc. Đến năm 1264 ông ta cho rời đô tới Trung Kinh ( sau đổi tên là Đại Đô 大都, ngày nay là thành phố Bắc Kinh ) và nhà Tống chỉ còn cai trị vùng nam Trung Hoa tới bờ sông D−ơng Tử. Nh− vậy trong vòng 6 thập kỷ kể từ khi Thiết Mộc Chân ( Temujin ) lên ngôi Thành Cát T− Hãn成吉思汗 ( Genghis Khan ) năm 1206, dân tộc Mông Cổ từ trong mông muội của xã hội thị tộc đã v−ơn lên 32 trở thành một đế chế hùng mạnh và hung bạo nhất trên thế giới. Chẳng những ng−ời Mông Cổ đã nô dịch đ−ợc một đế quốc x−a nay vẫn tự cho là vô địch ở ph−ơng Đông nh− Trung Hoa mà ngay cả nhiều quốc gia ở tận châu Âu xa xôi cũng lần l−ợt khuất phục tr−ớc vó ngựa xâm lăng của họ. Đế quốc Mông-Nguyên liên tục mở những cuộc tấn công chiếm đóng khắp vùng Tây á, rồi lan sang cả Đông Âu, các công quốc của ng−ời Xlavơ ( Slav ) nh− Muscovy, Vladimir ( Nga ), Kiev ( Ucraina ), Livonia ( Litva, Latvia ), Lithuania ( Belarus, Tiệp Khắc )… hay các n−ớc Ba Lan, Hungary... đều không phải là đối thủ của đội kỵ binh Mông Cổ bách chiến bách thắng. Lãnh thổ Mông Cổ mở rộng ch−a từng có từ vùng Địa Trung Hải tới tận bờ Thái Bình D−ơng, và nhanh chóng trở thành một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới. Sức mạnh ấy cùng với sự tàn bạo của các binh sĩ khiến cho nhiều quốc gia khác hoang mang, sợ hãi không tin rằng mình có khả năng chống lại quân Mông Cổ; đồng thời cũng tạo nên tâm lý kiêu căng, ngạo mạn, tự cho mình là bất khả chiến bại trong bản thân mỗi chiến binh Mông Cổ. Những thắng lợi dồn dập làm họ càng đánh càng hăng và say s−a trong mỗi chiến thắng. Tr−ớc bất kỳ sự kháng cự nào dù là nhỏ nhất họ đều quyết tâm đè bẹp bằng mọi giá để khẳng định sức mạnh v−ợt trội của dân tộc mình. Đó một phần cũng là do ảnh h−ởng của t− t−ởng Đại Hán từ Trung Hoa, ng−ời Mông Cổ tự cho rằng họ là dân tộc th−ợng đẳng và sớm mang trong mình dã tâm muốn thôn tính các dân tộc khác. Khi đã hoàn tất việc xâm l−ợc Nam Tống ( 1279 ) đặt ách thống trị lên toàn cõi Trung Hoa, t− t−ởng ấy lại càng trở nên bức thiết, ng−ời Mông Cổ muốn dẫm đạp lên mọi vật cản trên con đ−ờng bá chủ thiên hạ của mình. Tr−ớc hết họ muốn chinh phục những n−ớc lân bang vốn nằm trong vùng ảnh h−ởng truyền thống của các đế chế Trung Hoa, mà một trong những mục tiêu hàng đầu là Nhật Bản, tuy n−ớc này không đóng vai trò quan trọng 33 trong chiến l−ợc bành tr−ớng của họ. Đó là vì Nhật Bản nằm ngoài khơi Thái Bình D−ơng là điểm tận cùng có thể mở rộng c−ơng thổ về phía Đông của đế quốc Mông-Nguyên, chiếm đ−ợc Nhật Bản có thể làm chủ nhiều hòn đảo khác ở vùng biển phía Đông Bắc và hơn thế nữa sẽ thể hiện đ−ợc uy quyền tuyệt đối của Nguyên triều trên toàn cõi ph−ơng Đông. V−ơng quốc Triều Tiên và vùng Mãn Châu của ng−ời Kim nhanh chóng bị đặt d−ới ách đô hộ của đế quốc Mông-Nguyên, điều này có ảnh h−ởng nguy hại trực tiếp tới an ninh của Nhật Bản. Vùng phía nam quần đảo Nhật Bản, khoảng cách với Triều Tiên chỉ −ớc độ 100 hải lý, tuy th−ờng xuyên có bão và những lòng hải l−u hung dữ nh−ng việc đi lại giữa hai vùng không phải là không thực hiện đ−ợc. Ngày nay, khi Mông Cổ chiếm đ−ợc Triều Tiên, chắc chắn d−ới sức ép không thể c−ỡng lại, chiến thuyền và thuỷ thủ Triều Tiên sẽ đ−ợc sử dụng vào mục đích xâm l−ợc Nhật Bản. Và một khi ng−ời Triều Tiên vốn thiện nghề đi biển đã vào cuộc thì sự đe doạ đối với Nhật Bản không còn là nguy cơ mà đã trở thành mối nguy hiểm thực sự. 2. Nguy cơ chiến tranh cận kề, ng−ời Nhật Bản tích cực chuẩn bị kháng chiến. Năm 1268, lần đầu tiên một phái đoàn ngoại giao của Mông Cổ đã tới đ−ợc Nhật Bản d−ới sự dẫn đạo của ng−ời Triều Tiên, phái đoàn này cập cảng Daizafu ở Kyùshù, mang theo bức th− của Hoàng đế Đại Nguyên gửi cho vua Nhật Bản. Th− đ−ợc trao cho đại diện của chính quyền Bakufu ở đây có chức danh là “ t−ớng phòng vệ miền Tây ”, với t− cách một quốc th− yêu cầu Nhật Bản phải mở cửa giao dịch với Trung Quốc. Thực tế, đó là một bản yêu sách m−ợn cớ giao l−u hữu hảo giữa hai n−ớc để đe dọa chính quyền Nhật Bản, buộc họ phải khuất phục trở thành ch− hầu của đế quốc Mông-Nguyên. Bản yêu sách chỉ ra rằng, Đại Nguyên là một đế chế bất khả chiến bại và nếu Nhật Bản không biết c− xử cho phải đạo thì chiến tranh tất yếu sẽ xảy ra. Sự khủng bố này còn tiếp tục kéo dài bằng những lá 34 th− tiếp theo với đầy đủ những lời lẽ hăm doạ về sức mạnh vô địch của các binh đoàn Mông Cổ. Chính quyền Kamakura, nhận đ−ợc th− ngay sau đó, họ tiếp tục chuyển lá th− về triều đình Kyoto mặc dù thừa biết rằng hoàng gia sẽ chẳng thể đề ra chủ tr−ơng gì đáng kể. Quả thật nh− vậy, cả hoàng cung vô cùng hoang mang sau khi nhận đ−ợc bản tối hậu th−, lễ kỷ niệm sinh nhật Thái Th−ợng Hoàng bị huỷ bỏ, triều đình họp đi họp lại để tìm ra quyết sách nh−ng chung quy họ chỉ biết cầu Thần-Phật phù trợ cho chính khí quốc gia. Thậm chí, Th−ợng Hoàng Go Saga còn gửi th− trả lời chấp nhận yêu sách của quân Mông Cổ. Lá th− này lại đ−ợc gửi qua chính quyền Kamakura và tất nhiên nó bị huỷ bỏ, một chính quyền điều hành bởi toàn những chiến binh rõ ràng không thể khuất phục kẻ thù khi ch−a dùng tới bất kỳ một mũi tên, hòn đạn nào nh− vậy cả. Những ng−ời nắm quyền ở Kamakura đều tỏ ra bình tĩnh, mặc dù họ rất hiểu tình hình là vô cùng nghiêm trọng, và nguy cơ chiến tranh đang cận kề nh−ng vẫn cho đuổi phái bộ Mông Cổ về n−ớc, không hồi âm gì hết. Bakufu một mặt thông tri cho triều đình rõ quyết định của mình đồng thời cũng tích cực chuẩn bị cho kháng chiến. Tr−ớc hết, cố nhiên họ phải kêu gọi sự trung thành của các lãnh chúa địa ph−ơng, đặc biệt là những ng−ời cầm quân ở miền Tây-nơi chắc chắn phải đ−ơng đầu với quân xâm l−ợc tr−ớc tiên. Đó cũng là cách họ tập trung mọi nguồn nhân tài, vật lực toàn quốc gia vào một cuộc chiến mang tính chất sinh tử tồn vong của cả dân tộc. Cụ thể hơn, lực l−ợng quân sự phòng thủ miền Tây đ−ợc tăng c−ờng, các quan chức miền Tây đang l−u trú tại kinh đô đ−ợc lệnh trở về địa ph−ơng, chuẩn bị chiến đấu. Quan nhiếp chính vừa mới lên kế vị Hòjò Tokimune 北条 時宗( 1251- 1284 ) con trai cả của Tokiyori đứng ra đảm nhận trọng trách tổng chỉ huy quân đội Nhật Bản. Cựu nhiếp chính Masamura, một chiến t−ớng tuổi 60 dạn 35 dày kinh nghiệm trận mạc làm cố vấn trong việc hoạch định các chiến l−ợc phòng thủ. Về phía ng−ời Mông Cổ, họ cũng không phải không biết gì về Nhật Bản. Từ thời Thành Cát T− Hãn ( Genghis Khan ), các thủ lĩnh Mông Cổ đã có ý định xâm chiếm Nhật Bản, họ đã tích cực thu thập các tài liệu có liên quan đặc biệt là về địa hình Nhật Bản. Đó là lý do giải thích tại sao đ−ờng tiến công của quân Mông-Nguyên trong cả hai cuộc xâm l−ợc đều là con đ−ờng thuận lợi nhất cả về hải trình trên biển lẫn địa điểm đổ bộ. Nh−ng rõ ràng, những thông tin mà họ có đ−ợc không nhiều và đôi khi thiếu chính xác. Một mặt là do thông tin chủ yếu lấy từ phía ng−ời Cao Ly ( Koryo ) vốn không mặn mà gì với cuộc chiến tranh, mặt khác do Nhật Bản là một đảo quốc cách xa lục địa nên việc đi lại thông th−ơng x−a nay cũng không nhiều. Mặc dù bản thân ng−ời Mông Cổ biết rằng đánh Nhật Bản là đem cái sở đoản của mình đấu với cái sở tr−ờng của ng−ời khác nh−ng ỷ vào các binh sỹ thiện chiến và đã có các chiến thuyền Triều Tiên hỗ trợ nên Hốt Tất Liệt vẫn quyết tâm xâm l−ợc Nhật Bản. Trong đợt xâm l−ợc lần thứ nhất, vai trò của các thuỷ thủ và chiến thuyền Triều Tiên đã tỏ ra hết sức quan trọng. Trong tổng số lực l−ợng tham chiến phía Mông- Nguyên là 40.000 ng−ời thì có tới 5000 binh lính, 6700 thuỷ thủ và hơn 900 chiến thuyền Triều Tiên. Nh− vậy lực l−ợng Triều Tiên chiếm tỷ lệ không nhỏ trong đoàn quân này, nh−ng họ lại giữ vai trò đội quân đánh thuê cho chính kẻ thù của mình. V−ơng triều Kyoro của ng−ời Triều Tiên vốn từng kháng chiến chống quân Mông-Nguyên, thậm chí nhà vua Kojong còn cho rời cả chính quyền ra đảo Giang Hoa ( Cheju ) để tiếp tục chống giặc ngoại xâm. Nh−ng khi vua Kojong chết ( năm 1274 ), ng−ời con trai làm con tin ở Mông Cổ là Chung-ryol trở về kế vị đã đảo ng−ợc hoàn toàn và Triều Tiên trở thành thuộc quốc, tay sai đắc lực cho Mông Cổ. Hốt Tất Liệt có ý định gấp rút xâm l−ợc Nhật Bản cũng bởi vì một danh kỹ 36 Koryo có tên là Cho Yi nói với ông ta rằng Nhật Bản là một quốc gia nhỏ yếu và sẽ dễ dàng bị chinh phục, theo nhà sử học Hàn Quốc Lee Wha Rang thì sự việc này xảy ra vào năm 1265. Năm sau, Hốt Tất Liệt cử hai sứ giả là Hede và Yin Hong sang Triều Tiên yêu cầu vua Koryo-Kojong đ−a họ tới Nhật Bản. Hai ng−ời này đã thất bại khi không thể gặp bất kỳ một chỉ huy nào bên phía Nhật Bản và phải trở về tay không. Cho tới lúc này Hốt Tất Liệt vẫn có ý định sử dụng các biện pháp ngoại giao để khuất phục Nhật Bản-một quốc gia mà ông ta cho là vô cùng nhỏ yếu. Nh−ng bản thân những ng−ời Triều Tiên lại vốn không hề có oán thù gì với dân Nhật, có chăng chỉ là những vụ rắc rối liên qua đến c−ớp biển Wakò. Chính quyền Koryo ( Cao Ly ) cũng có nhiều lần than phiền về các sự vụ này nh−ng phần lớn đều đ−ợc phía Nhật Bản giải quyết êm đẹp bằng cách bồi th−ờng hoặc trả lại hàng bị c−ớp ( chủ yếu là da thú và thóc lúa ). Điều đáng chú ý là tuy ng−ời Nhật rất dễ tức giận trong quan hệ của họ với các triều đình n−ớc ngoài, và dễ tự ái tr−ớc những ngôn từ họ cho là thiếu lễ độ nh−ng chính quyền Kamakura vẫn thừa nhận là ng−ời của mình có lỗi và khiển trách những ch− hầu đã có hành động nh− vậy. Bên cạnh đó, những ng−ời yêu n−ớc Triều Tiên càng ý thức đ−ợc rằng kẻ thù thực sự của họ chính là quân Mông Cổ và việc tấn công Nhật Bản thực chẳng có lợi ích gì. Cái mà họ mong muốn là độc lập dân tộc và hoà bình lâu dài chứ không phải một cuộc chiến vô nghĩa phục vụ cho tham vọng điên cuồng những kẻ xâm l−ợc ngoại bang. Nh−ng d−ới sức mạnh không thể c−ỡng lại của đế quốc Mông- Nguyên , họ buộc phải tham chiến cho dù có muốn hay không... Một mặt ng−ời Triều Tiên vẫn phải chuẩn bị cho cuộc tấn công , mặt khác họ cũng bí mật thông báo kế hoạch tấn công cho ng−ời Nhật. Tháng 9 năm 1271 bức tối hậu th− thứ ba của Hốt Tất Liệt đã đ−ợc đem tới Nhật Bản. Bức th− do một sứ thần Mông Cổ v−ợt biển sang Amazu thuộc tỉnh Chikuzen yêu cầu chính quyền ở cảng Dazaifu cho ông ta đ−ợc yết kiến vua Nhật Bản. ý 37 đồ đó không thực hiện đ−ợc, ông ta gửi th− cho nhà vua và hẹn chậm nhất hai tháng phải trả lời. Cũng giống nh− năm 1268 bức th− lần này cũng đ−ợc chuyển đến tay Thiên Hoàng Kameyama sau khi đã thông qua chính quyền quân sự ở Kamakura. Một lần nữa triều đình lại trả lời nh−ợng bộ quân Mông Cổ. Nh−ng Bakufu đã bác bỏ th− của triều đình, họ ra lệnh đuổi sứ thần Mông Cổ về n−ớc. Việc đó chẳng khác nào cử chỉ tuyên chiến của Nhật Bản và cũng vì thế Th−ợng Hoàng Go Saga-một ng−ời bạn tận tâm của chính quyền Bakufu đã lo nghĩ tới mức lâm trọng bệnh và qua đời năm tháng sau đó ( ngày 18-3-1272 ). 3. Cuộc xâm l−ợc lần thứ nhất ( 1274 ). Thông qua các hoạt động ngoại giao, Hốt Tất Liệt muốn cho Nhật Bản thấy đ−ợc sức mạnh vô địch của đế quốc Mông-Nguyên mà tự động đầu hàng. Nh−ng sau khi sứ thần bị đuổi về n−ớc ông ta đã quyết định dùng vũ lực để khuất phục Nhật Bản. Hốt Tất Liệt ra lệnh cho vua Koryo đóng chiến thuyền và tập hợp binh mã song Triều Tiên thiếu thốn đủ đ−ờng nên ch−a thể đáp ứng yêu cầu đó. Họ đã phải huy động tới một lực l−ợng 30.000 thợ mộc để đóng 300 chiến thuyền lớn, đó là ch−a kể tới việc phải chuẩn bị một khối l−ợng l−ơng thảo và quân nhu khổng lồ. Tháng 10 năm 1274, hơn 25.000 quân Mông Cổ d−ới sự chỉ huy của t−ớng Hốt... ( 忽敦 Holdon ) đã tới Koryo, đạo quân này hợp với đội quân 5000 binh sỹ Cao Ly do Kim Bang-gyong ( 金方慶 ) chỉ huy trở thành một lực l−ợng khá hùng hậu. Ngày 3 tháng 10 năm 1274 đội quân xâm l−ợc rời cảng Masan ( nay thuộc Hàn Quốc ) tiến về h−ớng vịnh Hakata ( 博多灣 ) Nhật Bản trên 900 chiến 38 thuyền điều khiển bởi 6700 thuỷ thủ Triều Tiên. Tranh: Đô đốc Kim Bang-gyong, ng−ời chỉ huy các lực l−ợng Triều Tiên trong cả hai đợt xâm l−ợc Nhật Bản. Đối với Nhật Bản, đó cũng không phải là một đội quân quá đông đảo, nh−ng họ lại gặp một vấn đề muôn thuở trong quân sự đó là sự khó khăn trong việc tập trung quân lực do địa hình bị chia cắt trầm trọng bởi biển, các dãy núi và những dòng sông chảy xiết. Chính vì thế, vào lúc này cả n−ớc Nhật có tới 400.000 chiến binh nh−ng lực l−ợng tham chiến ở Kyùshù chỉ vào khoảng 10.000 ng−ời. Một mặt đó là do địa điểm đổ bộ của quân địch thuộc vùng miền Tây xa xôi, x−a nay vốn ít ảnh h−ởng đến đời sống chính trị Nhật Bản, mặt khác là do lực l−ợng quân sự chủ yếu của chính quyền Bakufu tập trung ở Kamakura thuộc miền Đông. Khi quân Mông Cổ tiến đánh các đảo Iki ( 壹岐島 ) và Tsushima, quân phòng vệ Nhật Bản vừa ít hơn vừa kém phần thiện chiến đã dễ dàng bị thất thủ. Các binh sỹ Nhật Bản đã dũng cảm chống cự tới ng−ời cuối cùng, dân chúng trên đảo bị quân Mông Cổ tàn sát rất dã man. Thuỷ binh Mông Cổ tiếp tục vòng đ−ờng biển tấn công vào vịnh Hakozaki, một bộ phận nhỏ tiến đánh đảo Hirado. Hôm sau, quân địch đổ bộ lên bờ biển Hakata ( 博多), chúng nhanh chóng chiếm một số thị trấn và làng mạc trên đ−ờng tiến về Dazaifu- nơi có bộ chỉ huy quân miền Tây. Đây là cơ quan đầu não chỉ huy các lực l−ợng phòng thủ ở miền Tây. Tin Tsushima thất thủ nhanh chóng đến Dazaifu, bộ chỉ huy quân sự ở đây lập tức báo động cho các tỉnh miền Kyùshù, và họ tập trung binh lực tiến về các tỉnh phía Nam nh− Satsuma, Osumi, Hyùga... rồi tiến về Hakata. Quân Nhật bắc cầu phao qua sông Chikugo nên tiến rất nhanh tới Hakata-thủ phủ của Kyùshù, đại quân của họ đặt d−ới quyền chỉ huy của Shimazu Hisatsune. Ông là một dũng t−ớng thuộc dòng dõi Shimazu nhiều đời làm thủ lĩnh quân sự ở miền Satsuma, 39 gia tộc này vốn rất nổi tiếng bởi lòng dũng cảm và sự thiện chiến. Ngày 19 tháng 10 quân địch đổ bộ lên Imazu và đến rạng sáng thì mở cuộc tấn công vào quân Nhật, quân Mông Cổ với sự yểm trợ của chiến thuyền và vũ khí hiện đại tiếp tục tiến vào Hakata ( một phần của thành phố Fukuoka ngày nay ). Tới sẩm tối họ gặp đội quân do Tsunetsugu chỉ huy, cuộc chiến đấu diễn ra rất quyết liệt và đ−ơng nhiên phần th−ơng vong trầm trọng thuộc về phía Nhật Bản. Các chiến binh miền Tây chẳng có gì ngoài lòng dũng cảm để đ−ơng đầu với giặc ngoại xâm, họ kém hơn quân địch cả về số l−ợng và trang bị. Một đoạn trên cuộn tranh Moko Shurai Ekotoba ( 蒙古襲来絵詞 ) do Samurai Takezaki Suenaga vẽ năm 1293 tự kể về cảnh anh ta chiến đấu. Quân Mông-Nguyên có lợi thế vì họ tiến công ồ ạt và tổng lực trong khi quân Nhật Bản vốn chỉ quen chiến đấu với đội hình nhỏ ở nơi địa thế hiểm yếu. Quân Mông Cổ cũng cớ −u thế về vũ khí, họ có những cây cung rất khoẻ có thể bắn chết ng−ời ở xa chừng 200m trong khi các cung thủ Nhật Bản chỉ có tầm bắn khoảng 100m, thêm vào đó họ lại có một số loại pháo thô sơ có thể bắn ra đạn lửa... những thứ tr−ớc đây ch−a từng xuất hiện ở Nhật Bản. Rõ ràng quân Nhật đã choáng váng tr−ớc đội hình kỷ luật và đông đảo của quân Mông Cổ cũng nh− sửng sốt tr−ớc những hoả khí của 40 ng−ời Trung Quốc. Vậy quân Nhật dựa vào cái gì để cầm cự với kẻ thù, đó thuần tuý chỉ là khả năng chiến đấu dũng mãnh của mỗi chiến binh. Quân Nhật có khả năng cận chiến bằng kiếm rất tốt, họ cũng đ−ợc trang bị áo giáp chắc chắn có thể giảm bớt lực đạo của các mũi tên và sự ảnh h−ởng từ các máy bắn đạn lửa. Trong cuộc chiến đấu không cân sức, các chiến binh Nhật Bản chỉ cầm cự đ−ợc đến khi trời tối, họ tổn thất nặng nề nh−ng cũng gây cho kẻ thù nhiều thiệt hại đáng kể. Cuối cùng họ buộc phải rút lui về miền núi Mizuki ở sâu trong lục địa hay về các cánh rừng gần Dazaifu-nơi có trọng điểm phòng ngự của quân Nhật Bản. Quân Nhật vẫn lẻ tẻ tấn công cầm chân quân Mông Cổ và để chờ viện binh từ các tỉnh miền Đông. Thời tiết dần xấu đi và dấu hiệu cho thấy một cơn bão lớn sắp tới, các thuỷ thủ Triều Tiên giàu kinh nghiệm kêu gọi quân Mông Cổ rút lui xuống thuyền tìm vùng biển có vách núi cao, kín gió ẩn náu. Các binh sỹ Mông Cổ cũng đã mỏi mệt sau một ngày chinh chiến vất vả nên đồng ý, họ không tiếp tục đuổi theo quân Nhật mà rút về các chiến thuyền nghỉ ngơi chuẩn bị cho cuộc tấn công mới vào ngày hôm sau. Có thể quân Mông-Nguyên cảm thấy an toàn hơn khi ở trên thuyền nh−ng đó lại chính là quyết định sai lầm lớn nhất của họ, cơn bão đang tới quá mạnh làm cho họ không kịp trở tay. Suốt đêm hôm đó m−a to gió lớn, quân Nhật cũng không lợi dụng cơ hội này để phản công đ−ợc. Sáng hôm sau họ thấy hạm đội địch bị bão đánh tơi tả ngoài vịnh, −ớc tính có hơn 200 chiến thuyền bị đắm và số quân địch th−ơng vong có thể lên tới hơn 13.000 ng−ời. Lực l−ợng bị tổn thất nặng nề, quân Mông-Nguyên buộc phải rút về Triều Tiên trong khi ch−a thu đ−ợc một kết quả gì đáng kể trong lần xâm l−ợc Nhật Bản. 41 Nhật Bản đ−ợc cứu thoát khỏi cuộc xâm l−ợc một cách thần kỳ nh− vậy, nh−ng Hoàng đế Hốt Tất Liệt hiểu rất rõ thực lực của quân Nhật. Ông ta cho rằng Mông Cổ thất bại là do bão chứ không phải là lỗi của t−ớng sỹ. Hốt Tất Liệt cử một phái bộ khác sang Triều Tiên yêu cầu vua Koryo chuyển th− của họ tới chính quyền Nhật Bản. Nhà vua cử Suh Chan mang th− của Hốt Tất Liệt sang Nhật Bản, lá th− ra lệnh cho vua Nhật Bản phải thân hành sang Đại Đô ( Bắc Kinh ) triều kiến. Chính quyền Bakufu cảm thấy bị lăng nhục, họ ra lệnh sử trảm viên sứ thần Cao Ly bất hạnh rồi gửi trả thủ cấp về Triều Tiên thay cho câu trả lời. Nhật Bản tỏ rõ quyết tâm chuẩn bị giáng trả những cuộc xâm l−ợc mới. 4. Cuộc xâm l−ợc lần thứ hai ( 1281 ). Những hành động cứng rắn từ phía Nhật Bản rõ ràng làm Hốt Tất Liệt vô cùng tức giận và một cuộc chiến mới là điều không thể tránh khỏi. Phía quân Mông-Nguyên cần tích cực chuẩn bị cho cuộc xâm l−ợc mới, họ cũng cần thời gian và chính nhờ đó mà Nhật Bản đ−ợc rảnh tay tổ chức kháng chiến. Hoàng đế Hốt Tất Liệt có ý định lôi kéo vua Nam Tống vào các cuộc viễn chinh của nhà Nguyên. Ông ta cũng biết Triều Tiên đã kiệt quệ sau thất bại năm 1274, mùa màng thất bát, nạn đói khắp nơi, nhiều ruộng đồng bỏ hoang không ng−ời cày cấy, ở nông thôn chỉ còn ng−ời già, phụ nữ, trẻ em, hầu hết thanh niên trai tráng bị xung vào các đội thuỷ binh L−ợc đồ: Đ−ờng tiến công và rút chạy của quân Mông-Nguyên trong cuộc xâm l−ợc năm 1274. 42 hay x−ởng đóng tàu, trong cuộc xâm l−ợc lần tr−ớc nhiều thuỷ thủ và binh sỹ Triều Tiên đã bị thiệt mạng. Vua Koryo đứng tr−ớc tình hình nh− vậy đã kêu gọi Hốt Tất Liệt huỷ bỏ cuộc xâm lăng nh−ng không thể lay chuyển đ−ợc ý chí của ông ta. Hốt Tất Liệt cho xây dựng một căn cứ gần cảng Masan và tập trung một l−ợng lớn binh lực cùng các loại vũ khí quân trang, quân dụng ở đây. Đảo Cheju thì bị biến thành bãi chăn thả chiến mã của quân Mông-Nguyên. Bên cạnh đó Hốt Tất Liệt vẫn tiếp tục cử phái bộ mới mang tối hậu th− sang Nhật Bản, có thể ông ta nghĩ rằng chính quyền Nhật Bản đã có sự hoang mang khi thấy Mông Cổ tập trung một lực l−ợng binh mã khổng lồ cho cuộc tấn công. Vào tháng 5 năm 1275, sứ thần Mông Cổ lại đến Murotsu thuộc tỉnh Nagato, họ lập tức bị bắt giải tới Kamakura và bị chém đầu mấy tháng sau đó. Ng−ời Nhật Bản không muốn tỏ ra có bất kỳ dấu hiệu yếu đuối và sợ sệt nào tr−ớc sự đe doạ của quân Mông-Nguyên. Họ luôn sẵn sàng chiến đấu. Chính quyền Kamakura quyết định lập kế hoạch phòng thủ lâu dài vì họ biết rằng quân Mông Cổ sẽ không chỉ đến một lần. Năm 1275, ba tỉnh miền biển phía Tây là Shuwo, Aki và Bingo đ−ợc lệnh phối hợp với tỉnh Nagato ( tỉnh cực tây của đảo Honshù-hòn đảo lớn nhất Nhật Bản ) để bảo vệ kênh đào Nagato và vùng biển lân cận. Các trọng điểm quân sự ở Kyùshù đều đ−ợc điều thêm quân trong đó đặc biệt là thủ phủ Hakata-hải cảng từng bị Mông Cổ chiếm đóng năm 1274. Sự phân công tiếp viện, ứng cứu lẫn nhau giữa các đạo quân và các cứ điểm cũng đ−ợc quy định rõ ràng. Trong cuộc kháng chiến lần tr−ớc có một số ng−ời dao động bỏ trốn. Lần này nhà n−ớc ra sắc lệnh mới, đào ngũ bị khép vào trọng tội và sẽ bị trừng phạt rất nghiêm khắc. Những ng−ời có công trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất cũng đ−ợc trọng th−ởng. Nhiều t−ớng lĩnh cao cấp đ−ợc lệnh phải đến th−ờng trực tại các vị trí chiến l−ợc. Chính quyền Bakufu quyết định các t−ớng lĩnh và chỉ huy các cấp phải là những ng−ời đi đầu động viên quân sỹ, họ muốn binh sỹ hiểu rằng 43 chính quyền trung −ơng luôn ở bên họ và đồng cam cộng khổ cùng họ chống giặc ngoại xâm. Các thành viên trong dòng họ Hòjò cũng đích thân đến chỉ huy việc phòng thủ ở Kyùshù và ở tỉnh Nagato. Quân Mông- Nguyên càng tích cực chuẩn bị chiến tranh thì các nhà lãnh đạo Nhật Bản cũng càng thêm quyết tâm kháng chiến. Cuối năm 1275, có lệnh từ Kamakura yêu cầu các tỉnh miền Tây đóng thêm chiến thuyền và huấn luyện thuỷ binh. Để chuẩn bị cho các trận thuỷ chiến, Bakufu ra lệnh đóng những chiến thuyền nhỏ, khả năng cơ động nhanh và tuyển thêm những thuỷ thủ giàu kinh nghiệm. Nhiều ng−ời tr−ớc đây là c−ớp biển cũng đ−ợc sung vào các đội thuỷ quân, không ít ng−ời trong số họ đ−ợc trọng dụng làm chỉ huy. Những chiến thuyền nhỏ này sẽ tỏ ra hiệu quả khi tập kích các thuyền lớn di chuyển chậm chạp của quân Mông-Nguyên, cả trên biển lẫn trên các dòng sông, và khi cần có thể tự đốt cháy để lao vào thuyền địch. Sáng kiến dùng thuyền nhỏ và sử dụng hoả công là một ý đồ chiến l−ợc quan trọng trong thuỷ chiến. Đầu năm 1276, bộ chỉ huy Kyùshù lại nhận đ−ợc lệnh tập trung tất cả mọi ng−ời tình nguyện chiến đấu trên biển tới Hakata, đáp ứng l−òi kêu gọi của Bakufu, quân tình nguyện đến xin ghi danh nhiều vô kể. Các chiến binh Samurai không tiếc gì kể cả thân mình lẫn của cải để phục vụ cho công cuộc kháng chiến. Các ch− hầu của Mạc Phủ Kamakura cũng mau chóng đáp ứng lời kêu gọi của chính quyền trung −ơng, họ viết những lời thề ra giấy gửi cho các thủ lĩnh của mình. Trong một tình thế t−ơng tự, quân sỹ nhà Trần n−ớc Đại Việt ta lại thích hai chữ “ Sát Thát ” lên cánh tay để tỏ rõ quyết tâm chống giặc Nguyên. Cũng trong năm 1276, các thủ lĩnh lớn ở Kyùshù nh− họ Shimazu, Shoni, Otomo... đ−ợc lệnh báo cáo về các nguồn nhân tài vật lực họ có thể đóng góp đ−ợc. Nội dung các báo cáo đó đã thể hiện sự không khí quyết tâm và đoàn kết của quân dân Nhật Bản chống giặc ngoại xâm. Chẳng hạn, 44 Fujiwara Hideshige-một Samurai ở tỉnh Shugo đã đi tu với pháp danh Saiko đã kính cẩn trình bày nh− sau: “ Saiko, 85 tuổi, không đi đ−ợc. Nagahide con trai, 65 tuổi, có cung tên và vũ khí. Tsuhide con trai, 38 tuổi, có cung tên, áo giáp, vũ khí, một con ngựa. Matsujiro họ hàng, 19 tuổi, có cung tên, vũ khí và hai ng−ời đi theo. Takahide cháu trai, 40 tuổi, có cung tên, áo giáp, vũ khí, một con ngựa và một ng−ời đi theo. Những ng−ời này đặt d−ới quyền sai khiến của đức ông và sẽ phục vụ trung thành. Đ−ợc kính cẩn tình bày nh− trên. Tháng 4 năm 1276 Sami Saiko ( đóng dấu ) ” Th− này cho ta thấy bức tranh một gia đình Samurai trung bình, gồm ba thế hệ đã đóng góp tất cả những gì có thể cho cuộc kháng chiến. Nó cũng thể hiện một tinh thần hăng hái chống giặc ngoại xâm đang lan truyền khắp nơi, đặc biệt là trong nam giới ở Kyùshù-những ng−ời đã chịu đựng mũi nhọn tấn công của kẻ thù trong lần xâm l−ợc tr−ớc. Cho tới tận ngày nay, ng−ời Nhật Bản vẫn có một câu thành ngữ “ đàn ông Kyùshù ” ( Kyùshù danshi ) để chỉ những ng−ời có lối sống khắc khổ và vũ dũng t−ơng tự nh− câu “ Nam tử Hán đại tr−ợng phu ” của ng−ời Trung Quốc. Các sử gia Nhật Bản luôn khẳng định rằng, cuộc xâm lăng của ng−ời Mông Cổ, vì đã gây ra một ý thức về tổ quốc lâm nguy nên đã tạo thành một tinh thần đoàn kết, thống nhất toàn dân tộc Nhật Bản. Điều đó trong một chừng mực nào đó có thể đúng, nh−ng thật khó có thể khẳng định rằng ng−ời Nhật Bản-những ng−ời sống cách biệt với lục địa và không hề có quan hệ chính trị với các quốc gia khác, vào thời điểm đó đã nảy sinh một ý niệm dân tộc mạnh mẽ. Bởi thế, không phải bất kỳ một ch− hầu nào của Bakufu 45 đều cho thấy lòng yêu n−ớc hăng hái nh− thế, ngay trong số những ng−ời chiến đấu tích cực nhất cũng có một số tỏ ra ham muốn đ−ợc ban th−ởng đến mức khó coi. Tuy nhiên tầng lớp chiến binh và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfCuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông -Nguyên và nghệ thuật quân sự của người Nhật Bản.PDF