Báo cáo Khảo sát tour tuyến Hà Nội – Quảng Bình – Quảng Trị – Huế - Đà Nẵng – Hội An- Nghệ An

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: CHƯƠNG TRÌNH VÀ GIÁ THÀNH TOUR 5

1. Giá thành 5

2. Chương trình 6

CHƯƠNG II:TUYẾN ĐIỂM THAM QUAN CỦA CHUYẾN DU LỊCH. 10

2.1. Nghệ An: 10

 2.1.1 Khu du lịch Kim Liên: 10

2.1.2. Khu du lịch Cửa Lò: 11

2.2. Quảng Bình: 13

2.3. Quảng Trị: 15

2.3.1. Nghĩa trang Trường Sơn: 16

2.3.2. Thành cổ Quảng Trị: 17

2.4. Thừa Thiên Huế: 18

2.4.1. Cố đô Huế: 19

2.4.2. Khu du lịch Lăng Cô: 24

2.5. TP. Đà Nẵng: 27

2.5.1. Khu du lịch Sơn Trà, Non Nước, Ngũ Hành Sơn: 29

2.6. Quảng Nam: 31

2.6.1. Phố cổ Hội An: 32

2.6.2. Thánh địa Mỹ Sơn: 35

3. Nhận xét chung và kiến nghị: 38

3.1. Nhận xét chung: 38

3.2. Kiến nghị một số giải pháp nhằ phát triển du lịch của vùng: 40

CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TOUR TUYẾN 41

1 Nhận xét, đánh giá về việc tổ chức, thực hiện chuyến đi 41

1.1. Về phía khoa du lịch: 42

1.2. Về phía sinh viên: 42

1.3. Về phía công ty du lịch: 43

2. Kiến nghị 45

2.1. Về phía khoa du lịch: 45

2.2. Về phía sinh viên: 45

2.3. Về phía công ty du lịch: 46

KẾT LUẬN 47

 

doc50 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1605 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Khảo sát tour tuyến Hà Nội – Quảng Bình – Quảng Trị – Huế - Đà Nẵng – Hội An- Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u khách trong và ngoài nước nhưng cũng không vì thế mà du lịch Quảng Trị phát triển hơn (doanh thu từ dịch vụ không tăng). Nguyên nhân là do ngành du lịch tỉnh chưa xây dựng được những chương trình đặc sắc, chưa xây dựng được những tuyến du lịch hoàn chỉnh kết hợp, xâu chuỗi 2 di tích này với các di tích khác và các tài nguyên du lịch sẵn có. Hai di tích đều chỉ là những điểm tham quan đơn lẻ mà khách kết hợp tham quan trong chuyến hành trình vào Huế, Đà Nẵng hay Quảng Nam của mình chứ chưa nằm trong một chương trình du lịch tại Quảng Trị 2.4. Thừa Thiên Huế: * Khái quát chung: - Diện tích: 5.054 km2 - Dân số: 1.101.700 người (2003) * Tiềm năng du lịch: Tiềm năng du lịch nổi bật cuae Huế là quần thể di tích văn hoá Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới với trên 300 công trình kiến trúc bao gồm hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm của các vua triều Nguyễn, các kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian, các chùa chiền, miếu mạo, hệ thống nhà vườn…Tháng 11/2003 UNESCO lại công nhận thêm Nhã nhạc cung đình Huế là di sản văn hoá phi vật thể của thế giới, điều này càng làm tăng thêm tính hấp dãn cho du lịch Huế. Không chỉ có giá trị nhân văn đặc sắc mà thiên nhiên Huế cũng có những đặc thù ưu việt là sự đa dạng về cảnh quan: Sông Hương, núi Ngự, những khu nhà vườn tạo nên những cảnh quan đẹp ngay trong lòng của phố Huế; những bãi biển Thuận An, Lăng Cô, Cảnh Dương nước trong, cát mịn, phong cảnh đẹp; Khu du lịch núi Bạch Mã nổi tiếng với cảnh quan đẹp và hệ động thực vật phong phú. 2.4.1. Cố đô Huế: - Giới thiệu khái quát: Được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới vào ngày 11/12/1993, quần thể di tích Cố Đô Huế có trên 300 công trình kiến trúc bao gôm có Kinh thành và các Lăng tẩm (gồm 7 lăng, trong đó 5 lăng có giá trị tham quan) và một số công trình kiến trúc khác. UNESCO nhận định: “Quần thể di tích cố đô Huế là một ví dụ điển hình về đô thị hoá và kiến trúc của một kinh đô phòng thủ, thể hiện quyền lực của vương quốc phong kiến cổ của Việt Nam ở thời kì hưng thịnh vào thế kỉ 19”. + Kinh thành: Ban đầu có tên là thành Phú Xuân, về sau được đổi thành Kinh thành Huế. Đây từng là kinh đô của nước Việt Nam phong kiến trong suốt gần 400 năm (1558 – 1945). Kinh thành Huế do vua Gia Long xây dựng vào năm 1805, nằm ngay bên dòng sông Hương, đến năm 1832 được vua Minh Mạng tu sửa lại. Bức tường thành bao quanh thành dài 2,5km, xung quanh Kinh thành về phía ngoài có hào rộng. Bên trong kinh thành là Hoàng thành – nơi vua tổ chức các buổi họp trọng đại. Có bốn cửa để vào Hoàng thành, cửa lớn nhất và nổi tiếng nhất là Ngọ Môn dùng làm cửa chính khi đi vào Hoàng thành. Tử cấm thành nằm trong Hoàng thành chỉ dành giêng cho gia đình Vua. Mặc dù bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, nhưng kinh thành Huế vẫn giữ được những hiện vất giá trị, đáng nhớ và gây ấn tượng về một thời kì tráng lệ, huy hoàng của một triều đại phong kiến như: Cửu vị thần công, điện Thái Hoà, khu nhà ở của quan Triều đình, cửu đỉnh thờ các vị hoàng đế nhà Nguyễn. + Chùa Thiên Mụ: Do chúa Nguyễn Hoàng xây dựng vào năm 1601. Ngôi chùa nằm bên bờ trái sông Hương thuộc địa phận xã Hương Long, cách trung tâm TP. Huế 5km. Các đời vua chúa về sau tiếp tục trùng tu và cho xây dựng thêm một số công trình: Quả đại hồng chuông (cao 2,5m, nặng 3285kg); Bia cao 2,85m đặt trên lưng một co rùa làm bằng đá cẩm thạch; Tháp Phước Duyên hình bát giác có 7 tầng, cao 21m; Điện Đại Hùng – ngôi điện chính trong chùa có kiến trúc nguy nga đồ sộ; ngoài ra còn nhiều tượng đồng, khánh đồng, hoành phi được làm rất tinh xảo…Mặc dù chùa đã bị hư hỏng nặng vào năm 1943 và được trùng tu trong suồt 30 năm qua, nhưng hiện nay vẫn giữ được nét huy hoàng, tráng lệ xưa. + Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): Được xây dựng vào giữa năm 1864 và 1867 trong một thung lũng đẹp thuộc làng Thượng Ba, xã Thuỷ Xuân cách TP. Huế 8km. Toàn thể công trình gồm bức tường thành rộng lớn, bên trong có gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ khác nhau. Qua cửa Vũ Khiêm, đến khu vực hồ lưu khiêm , trên hồ có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua thường đến ngắm hoa, làm thơ,đọc sách. Khiêm Cung môn, diện Hoà Khiêm là nơi làm việc của vua nhưng sau này dùng lam nơi thờ tự vua và hoàng hậu. Sau điện Hoà Khiêm là điện Lương Khiêm, đây là nơi an nghỉ của vua và sau này trở thành nơi thờ mẹ vua, bà Từ Dũ. Bên phải điện Lương Khiêm là Ô Khiêm đường nơi cất đồ ngự dụng. Ngay sau hàng tượng quan văn võ uy nghi là Bi Đình, tấm bia làm bằng đá Thanh lớn có khắc bài Khiêm Cung kí do nhà vua soạn về cuộc đời, vương nghiệp cùng những lỗi lầm và sai phạm của mình. Trên ngọn đòi bên kia hồ bán nguyệt Tiêu Khiêm Trí là Bửu Thành xây bằng gạch, nơi chôn cất thi hài vua. + Lăng Minh Mạng (Hiếu Lăng): Nằm trên ngọn núi Cẩm Khê cách thành phố Huế khoảng 12km, gần ngã ba Bằng Lãng nơi hợp nguồn tạo thành sông Hương. Lăng được khởi công xây dựng vào tháng 9 năm 1840 và được vị vua nối ngôi tiếp tục xây dựng cho đến khi hoàn tất vào năm 1843. Lăng Minh Mạng là một mô hình kiến trúc quy mô gồm 40 công trình lớn nhỏ, bao gồm cả cung điện, đền miếu và lâu đài. Đại Hồng môn chỉ mở một lần để đưa quan tài nhà vua vào lăng sau đó được đóng chặt. Du khách vào tham quan lăng đi qua một trong hai cổng: Tả Hồng môn và Hữu Hồng môn. Lăng Minh Mạng với hai hồ và kiến trúc trang hoàng tuỵêt đẹp, là một trong những lăng tẩm uy nghi, đường bệ nhất trong các lăng tẩm vua Nguyễn. + Lăng Khải Định (ứng lăng): Vua Khải Định qua đời năm 1925, thọ 40 tuổi và thi hài chôn trên đỉnh núi Châu Ê, cách thành phố Huế 10km. Lăng Khải Định xây dựng trong vòng 11 năm, đến năm 1931 mới hoàn thành. So với lăng của các vị vua khác, lăng Khải Định có diện tích nhỏ hơn nhiều và hội nhập được các dòng kiến trúc phương Đông và châu âu. Đáng chú ý nhất là thành bậc đắp rộng bằng đávào phòng chính và điện Khải Thành, trên các bức tường điện được trang trí bằng những bức khảm kính nhiều màu sắc. + Sông Hương: Có chiều dài 30km từ Băng Lãng đến cửa biển Thuận An, rộng khoảng 300 – 400m. Bắt nguồn từ hàng trăm con suối nhỏ xuất phát từ dãy Trường Sơn hùng vĩ. Dòng sông chảy qua những địa danh nổi tiếng như: Điện Hòn Chén, Chùa Thiên Mụ, Cầu Dã Viên, Cầu Phú Xuân, Cầu Trường Tiền, cồn Hến, ngã ba Sình, rồi hội ngộ với song Ô Lâu và đổ vào phá Tam Giang. Sông Hương có làn nước trong xanh, dòng nước chảy ngầm nên mặt nước khá yên tĩnh tựa như một hồ lớn, là nguồn cung cấp nước chính cho toàn bộ nhười dân xứ Huế và được xem như là biểu tượng của thành phố. Đây là một trong những trục giao thông đường thuỷ huyết mạch, vận chuyển lương thực, thông thương, trao đổi hàng hoá…ngày xưa của các vua quan thời phong kiến. Ngày nay, sông Hương là một nơi rất lý tưởng để thưởng thức các loại hình như: ca Huế trên sông, du thuyền thăm các di tích Huế, thả đèn trên sông, ngắm cảnh thiên nhiên,… - Nhận xét chung: + Tích cực: EQuần thể di tích cố đô Huế là công trình được công nhận là di sản thế giới sớm nhất ở Việt Nam, vì vậy cũng là điểm tham quan được nhiều du khách cả trong và ngoài nước biết đến nhất. Nó nổi bật với những giá trị về văn hoá, lịch sử, kiến trúc, cảnh quan. Các công trình trong quần thể di tích cố đô Huế phần lớn ở trung tâm thành phố Huế hoặc cách TP. Huế không xa lại có điều kiện giao thông thuận lợi về cả đường bộ và đường sông. ETrong những năm gần đây tỉnh Thừa Thiên – Huế liên tiếp tổ chức các kì Festival (tính đến nay đã tổ chức thành công 4 kì ), các Festival đều được tổ chức rất hoành tráng, công phu. Ngoài ra còn tổ chức các chương trình du lịch đặc sắc “Đêm hoàng cung” huy hoàng và lộng lẫy ngay trong kinh thành. Đây là các sự kiện văn hoá du lịch có quy mô quốc gia và mang tính quốc tế, nhằm giới thiệu những giá trị văn hoá và nghệ thuật đặc sắc của Huế cũng như Việt Nam và của nhiều quốc gia trên thế giới, là nguồn động lực thúc đẩy kinh tế du lịch và văn hoá du lịch phát triển. Và đây cũng là nỗ lực to lớn của thành phố Huế trong việc tạo tiền đề để xây dựng Cố đô Huế thành thành phố Festival của Việt Nam và xây dựng thương hiệu Festival. Công tác bảo tồn di sản Huế thường xuyên được sự kiểm tra, giám sát của các chuyên gia UNESCO. EXích lô là phương tiện rất phổ biến để tham quan kinh thành Huế đã được quản lí rất tốt, mỗi người lái xích lô đều trở thành những hướng dẫn viên không chuyên giới thiệu cho du khách về Huế EHuế đã có những đồ lưu niệm đặc trưng là nón Huế và áo dài Huế, đây là những đặc sản của Huế mà du khách đến Huế rất thích mua làm quà. + Hạn chế: ECông tác bảo tồn di tích vẫn chưa được tỉnh Thừa Thiên – Huế thực hiện tốt. Việc xây dựng các công trình giao thông, nhà ở hiện đại, hệ thống thuỷ lợi, tình trạng đô thị hoá, cũng đang tác động tiêu cực tới các di tích và môi trường xung quanh. Huế đã bị nêu tên không chỉ một lần trong các bản khuyến cáo và cả trong các cuộc hội nghị thường niên của UNESCO. Hiện nay, ngày càng có nhiều di tích trong quần thể kién trúc cố đô Huế đã được UNESCO công nhận bị xâm lấn, cjẳng hạn như toà nhà làm việc của tham tri Bộ Lễ của nhà Nguyễn bị đập phá ngổn ngang trong khi lẽ ra phải được bảo vệ nguyên trạng theo bản đồ khoanh vùng. Nhiều đoạn tường thành bị mục nát dơ bẩn do nước sinh hoạt của các hộ gia đình xung quanh. Tỉnh cần phải cho quy hoạch lại, tiến hành di dân để trả lại sự trong sạch cho di tích. ESản phẩm du lịch của cố đô Huế còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được nhu cầu của đông đảo du khách, ngoài các kì Festival ra thì hoạt động chủ yếu ở đây là tham quan. ETại các điểm tham quan trong khu di tích chưa có những khu vệ sinh đạt yêu cầu để phục vụ khách. 2.4.2. Khu du lịch Lăng Cô: - Giới thiệu khái quát:Bãi tắm Lăng Cô dài khoảng 8km, nằm dọc theo đường quốc lộ 1A, cạnh đèo Hải Vân và cách vườn quốc gia Bạch Mã 24km. Đây là một bãi tắm có bờ biển thoải, cát trắng, sóng vừa và lớn rất thích hợp cho loại hình tắm biển, nghỉ dưỡng, lặn biển và do vậy nó được xác định là một khu nghỉ mát lý tưởng từ mấy chục năm nay. Khu du lịch tổng hợp Lăng Cô có diện tích khoảng 1.350ha, nằm trong khu kinh tế Chân Mây- Lăng Cô đã được định hướng xây dựng thành khu du lịch nghỉ dưỡng đạt tiêu chuẩn quốc tế với 12 phân khu đồng bộ và khép kín, kêt hợp các loại hình du lịch biển - đầm – núi. Khu du lịch Lăng Cô bao gồm khu sân golf và câu lạc bộ golf, khu biệt thự dành cho các nhà tỷ phú, khu nghỉ dưỡng cao cấp theo chuyên đề như khách sạn tuần tăng mật, giao lưu, khu dịch vụ trung tâm, khu đô thị hỗ hợp, khu sinh thái tự nhiên và bảo tàng biển. - Nhận xét: + Tích cực: E Trong thời gian qua nhà nước cũng như tỉnh Thừa Thiên- Huế đã dành ưu tiên đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng bước đầu của khu du lịch Lăng Cô như điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc…Đồng thời cũng có những cơ chế chính sách hết sức ưu đãi để kêu gọi đầu tư cả trong và ngoài nước đầu tư vào Lăng Cô, để nhanh chóng biến Lăng Cô trở thành trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng và giao thương tầm cỡ quốc tế. E Khu du lịch Lăng Cô nằm trên quốc lộ 1A, ở phía tây nam tỉnh Thừa Thiên - Huế, có cảng nước sâu Chân Mây, gần cảng hàng không Phú Bài và sân bay quốc tế Đà Nẵng (cách Đà Nẵng khoảng 25km về phía bắc). Đây là khu du lịch có nhiều tiềm năng và thế mạnh do nằm giữa 2 đô thị lớn của miền trung, là vị trí đầu mối trên các tuyến giao lưu quốc tế và liên vùng: tuyến Bắc – Nam và Đông Tây của miền trung, cửa ngõ hướng ra biển của hành lang kinh tế Đông – Tây nối các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar…Thêm vào đó việc khai thác du lịch hầm đường bộ Hải Vân sẽ góp phần củng cố mục tiêu đưa Lăng Cô trở thành điểm du lịch lý tưởng. E Từ năm 2005 tỉnh Thừa Thiên – Huế đã tạo dựng thương hiệu Lăng Cô - huyền thoại biển với nhiều lễ hội và các hoạt động văn hoá thu hút khách. + Hạn chế: Với điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có Lăng Cô chưa thể thu hút và đón tiếp khách một cách chu đáo và lý tưởng được. Thêm và đó tốc độ triển khai các dự án lại quá chậm chạp. * Nhận xét chung: - Tích cực: E Thừa Thiên Huế có điều kiện thuận lợi để phát triển nhiều loại hình du lịch, có nhiều bãi biển đẹp, có khu du lịch núi và đặc biệt có 2 di sản văn hoá vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận là di sản thế giới. E Huế đã và đang tích cực quảng bá du lịch du lịch với du khách trong và ngoài nước trên quy mô lớn thông qua các kì Festival và các chương trình du lịch chuyên đề. Qua mỗi lần tổ chức Festival Huế dần khảng định thương hiệu – một lễ hội văn hoá du lịch riêng có của mảnh đất cố đô với công nghệ tổ chức tiên tiến, nội dung giao lưu rộng rãi, thực sự là một lễ hội văn hoá du lịch hiện đại kết hợp truyền thống hết sức độc đáo của Huế nói riêng, miền trung nói chung nhằm phát triển du lịch của tỉnh và của cả nước. E Ngành du lịch đã chủ động phối hợp với các ban ngành của tỉnh để tổ chức các sự kiện, các lễ hội làm phong phú thêm cho Festival. E Tỉnh đã bước đầu chú ý đến phát triển du lịch cộng đồng bằng việc thí điểm du lịch cộng đồng ở một số nơi như thác Kazan (huyện Nam Đông), nhà vườn tại Kim Long. - Hạn chế: Trong những năm qua tốc độ phát triển của ngành du lịch Thừa Thiên – Huế luôn đạt trên 20%. Thừa Thiên – Huế đang đặt ra mục tiêu đến năm 2010 phải đón được 1 triệu lượt khách du lịch, đây là một con số ít ỏi so với tình trạng chung của du lịch cả nước và tiềm năng du lịch dồi dào của Huế. Thế nhưng mục tiêu này ngày càng trở nên khó khăn hơn, vì trong năm 2006 nhờ có Festival với những chính sách mới nhưng Tỉnh cũng mới chỉ đón dược 433 nghìn lượt. Có thể thấy Huế đang dần đánh mất vai trò trung tâm của mình. E Tình trạng di tích bị xuống cấp, bị xâm phạm vẫn thường xuyên diễn ra. E Các cơ sở lưu trú chưa được đầu tư phát triển đồng bộ, đạt yêu cầu và còn thiếu . (đến năm 2010 Huế cần khoảng 4 ngàn tỷ đầu tư cho csht). Doanh nghiệp kinh doanh lưu trú cần phải thường xuyên đầu tư, cải tạo, nâng cấp chất lượng cơ sở vật chất, tăng cường các dịch vụ bổ sung. E Sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, chưa tạo được sự hấp dẫn đối với du khách. Tỉnh cần phải phối hợp với các doanh nghiệp lữ hành nghiên cứu hình thành nên một số tuor du lịch mang tính đặc trưng khai thác những tài nguyên du lịch riêng có tại Huế: Sông Hương, núi Ngự, đầm cầu Hai, phá Tam Giang, biển Lăng Cô… EHuế có rất nhiều làng nghề thủ công truyền thống như: đúc đồng, làm nón, thêu ren, may áo dài, làm tranh dân gian…nhưng phần lớn những làng nghề ấy chưa được khai thác để phục vụ du lịch. Và lại đang trong tình trạng ô nhiễm rất nghiêm trọng. EHuế vẫn còn thiếu sự kết hợp hiệu quả và đồng bộ giữa du lịch và các ngành liên quan… làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường du lịch. EMôi trường du lịch văn hoá Huế cũng chưa thực sự lành mạnh, còn gây bức xúc cho khách bởi tình trạng đeo bám, giành giật khách. EDu lịch cộng đồng chưa được quan tâm phát triển đúng mức nhằm nâng cao đời sống nhân dân cũng như ý thức của họ với du lịch. 2.5. TP. Đà Nẵng: * Khái quát chung: - Diện tích: 1.256 km2 - Dân số: 747.100 người (2003) * Tiềm năng du lịch: Nói đến Đà Nẵng là du khách có thể hình dung ra ngay đó là một thành phố tuyệt đẹp bên sông Hàn, bên bờ biển Đông, với những nét quyến rũ chưa từng có ở các đô thị biển khác…Thiên nhiên đã ưu đãi cho Đà Nẵng nằm giữa vùng kế cận của ba di sản văn hoá thế giới: Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, chính vị trí này đã làm nổi rõ vai trò của trò của thành phố Đà Nẵng trong khu vực, đó là nơi đón tiếp, trung chuyển, phục vụ khách. Không chỉ là trung điểm của 3 di sản thế giới, thành phố Đà Nẵng còn có nhiều danh thắng tuyệt đẹp: Đèo Hải Vân cheo leo, hiểm trở, được mệnh danh là “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Bán đảo Sơn Trà là điểm hẹn lý tưởng cho du khách, dưới chân Sơn Trà có Suối Đá, Bãi Bụt, Bãi Rạng…là những cảnh quan tuyệt đẹp, mang trong mình vẻ huy hoàng bình minh và sự lặng lẽ hoàng hôn của một vùng sơn thuỷ hữu tình. Khu du lịch Bà Nà - Suối Mơ được nhiều người ví là Đà Lạt, Sa Pa của miền trung. Ngũ Hành Sơn huyền thoại thì được xem như “Nam thiên danh thắng”. Nói đến Đà Nẵng không thể không nhắc đến dòng sông Hàn thơ mộng và cây cầu Sông Hàn – cây cầu quay đầu tiên ở Việt Nam – niềm tự hào của người dân thành phố Đà Nẵng. Cầu Sông Hàn là biểu tượng cho sức sống mới, là khát vọng đi lên của thành phố được xây dựng bằng sự đóng góp của mọi người dân, vẻ đẹp của cầu được bộc lộ một cách hoàn mỹ nhất trong không gian cầu lộng gió và mát rượi. Cầu Sông Hàn không chỉ tạo thêm thuận lợi cho giao thông vận tai, cho du lịch, khơi dậy tiềm năng kinh tế của một vùng đất rộng lớn ở phía đông thành phố mà còn là một dấu ấn văn hoá của người Đà Nẵng hôm nay gủi cho muôn đời sau. Đà Nẵng có hơn 70 km bờ biển với nhiều bãi tắm đẹp như Nam Ô, Xuân Thiều, Thanh Bình, Mỹ Khê, Bắc Mỹ An, Non Nước, Bãi Bụt, Bãi Bắc, Bãi Nam…Thêm vào đó khí hậu nhiệt đới, gió mùa với nhiệt độ trung bình quanh năm từ 28 – 29 độ C, biển rất thích hợp cho du khách tắm và nghỉ dưỡng. Đặc biệt, biển Đà Nẵng trong xanh và có nhiều loại hải sản quý. Du khách có thể tham gia vào các loại hình thể thao, thám hiểm, câu mực đêm, môtô nước, lướt ván… Bãi biển Đà Nẵng đã được tạp chí Forbes (Mỹ) bình chọn là một trong 6 bãi biển hấp dẫn nhất hành tinh. Với những lợi thế đóviệc khai thác du lịch biển đã trở thành sự lựa chọn đương nhiên cho Đà Nẵng trong thời gian tới. Đến Đà Nẵng, du khách sẽ có dịp tìm hiểu nền văn hoá Sa Huỳnh, thăm các di tích lịch sử: thành Điện Hải, nghĩa trang Khuê Trung, khu di tích K20… hệ thống bảo tàng: bảo tàng Chàm, bảo tàng quân khu V, bảo tàng Tổng hợp Đà Nẵng. Một nét đặc sắc nữa của thành phố Đà Nẵng là các di sản văn hoá phi vật thể phong phú như hát tuồng, ca múa nhạc dân tộc, văn hoá dân tộc Chăm và dân tộc Cơtu rất độc đáo và có sức hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước. 2.5.1. Khu du lịch Sơn Trà, Non Nước, Ngũ Hành Sơn: - Giới thiệu chung: Điểm du lịch này là một dải bờ biển tuyệt đẹp kéo dài 20km từ rìa phía đông của thàng phố Đà Nẵng được bắt đầu từ bán đảo Sơn Trà (Cách thành phố Đà Nẵng 10km về phía bắc) đến bãi biển Non Nước, Ngũ Hành Sơn (Cách thành phố Đà Nẵng 10km về phía Đông Nam). Điểm đầu tiên và điểm kết thúc của đoạn bờ biển này là 2 danh thắng nổi tiếng Sơn Trà và Ngũ Hành Sơn. Suốt từ Sơn Trà đến Non Nước, Ngũ Hành Sơn là những bãi cát sạch, đẹp, có độ dốc vừa phải, có giá trị cao trong việc sử dụng chúng vào mục đích du lịch. Bán đảo Sơn Trà: Đầy là một khối núi gồm 3 hòn nhô lên. Hòn phía Nam như hình con nghê chồm ra biển gọi là hòn Nghê. Hòn phía Tây như mỏ diều hâu gọi là Hòn Mỏ Diều. Hòn phía bắc vươn dài ra như cổ ngựa gọi là núi cổ ngựa. Bán đảo này cùng núi Hải Vân vây biển lại thành một cái vũng rộng và kín, mặt nước phẳng lặng trong xanh gọi là vũng Đà Nẵng. Núi Sơn Trà nằm ở độ cao 693m, rừng mọc xanh um trong rừng có nhiều loại động thực vật qúy hiếm được liệt vào danh sách rừng cấm. Bãi biển: từ chân núi Sơn Trà chạy dài về phía Nam là dải cát dài 15km có đoạn hình cong như lưỡi liềm (Bãi biển Nam Ô). Có đoạn dài 8km thẳng tắp như Mỹ Khê Bắc, Mỹ An, Non Nước, đến Ngũ Hành Sơn chếch ra biển. Nét đặc biệt là ở chỗ bãi tắm nào cũng tốt, sau bãi tắm là rừng phi lao xanh, phía trước là biển mênh mông. Ngũ Hành Sơn: Nằm giữa Sông Hàn và biển đông gồm 6 ngọn núi quây quần. Đó là Thuỷ Sơn, Mộc Sơn, Kim Sơn, Thổ Sơn và 2 qủa núi nhỏ liền kề bên nhau gọi là Dương Hỏa Sơn và Âm hỏa Sơn. ở đây có một số ngôi chùa, hang động và công trình kiến trúc nổi tiếng và công trình kiến trúc nổi tiếng như: Chùa Tam Thai, Động Huyền Không, Tượng Phật Bà Quan Âm, Tượng Phật Tích Ca, Chùa Linh ứng, Vọng Hải Đài. Chân núi Ngũ Hành Sơn là nơi tập trung các làng nghề chạm khắc đá tinh xảo, nổi tiếng từ lâu góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp kỳ vĩ của Ngũ Hành Sơn. - Nhận xét chung: + Tích cực: ETổ hợp du lịch này nằm ngay gần trung tâm thành phố Đà Nẵng nên được hưởng dịch vụ du lịch (dịch vụ lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, dịch vụ bổ sung khác) tương đối hoàn chỉnh của thành phố Đà Nẵng. ETiềm năng du lịch của khu du lịch này tương đối phong phú bao gồm cả du lịch núi, du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch nhân văn tâm linh tinh thần, du lịch làng nghề…cho phép nơi đây có thể phát triển thành tổ hợp du lịch hoàn chỉnh của thành phố Đà Nẵng. E Khu du lịch này đang được quy hoạch, đầu tư phát triển một cách mạnh mẽ, đặc biệt là bán đảo Sơn Trà. Với mục đích đưa bán đảo Sơn Trà trở thành quần thể du lịch nghỉ dưỡng biển tầm cỡ quốc tế, sánh với Bali (Indonesia), Phuket (Thái Lan) chính quyền thành phố Đà Nẵng đã tiến hành quy hoạch lại khu vực này với nhiều dự án du lịch mới đã và đang được hoàn thiện như Hải Duy, Biển Đông, Sơn Trà Spa, Bãi Bắc…, các công trình hạ tầng như đường sá, hệ thống cấp điện, nước, cũng nhanh chóng được đầu tư xây dựng, đặc biệt là công trình cầu thuận phước, đường Sơn Trà - Điện Ngọc. + Hạn chế: E Ngoài bán đảo Sơn Trà đang được đầu tư xây dựng với quy mô lớn thì 2 khu du lịch còn lại đã có quá trình khai thác lâu dài là bãi biển Non Nước và núi Ngũ Hành Sơn dịch vụ du lịch vẫn còn rất hạn chế (thiếu cả những công trình vệ sinh tối thiểu phục vụ khách), bãi biển thì chỉ có vài ngôi nhà đơn sơ là chỗ cho khách thay đồ và tắm nước ngọt. E Làng đá mỹ nghệ Non Nước nằm ngay dưới chân núi Ngũ Hành Sơn nổi tiếng với những tác phẩm điêu khắc đá tinh xảo nay cũng nảy sinh nhiều vấn đề. Tình trạng khai thác đá quá mức làm ảnh hưởng đến cảnh quan của khu du lịch, sự ô nhiễm nghiêm trọng do bụi đá và axit dùng trong quá trình chế tác. * Nhận xét chung: + Tích cực: Đà Nẵng là thành phố cấp 1 trực thuộc TW, là trung tâm kinh tế, văn hoá và chính trị của miền trung. Là một thành phố trẻ trung, đầy năng động, Đà Nẵng được quy hoạch rất hoàn chỉnh, và có đường lối phát triển rất đúng đắn. Với sự quản lý vĩ mô hiệu quả, vị trí đắc địa (là trung tâm của vùng và của cả nước), giao thông thuận tiện (có sân bay, cảng biển quốc tế) và tiềm năng du lịch phong phú sẽ là điều kiện hết sức thuận lợi cho sự phát triển du lịch và biến du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Đà Nẵng. Ngoài ra việc xây dựng môi trường du lịch lành mạnh và phát triển du lịch cộng đồng cũng là vấn đề được TP rất quan tâm, Đà Nẵng được đánh giá là thành phố có an ninh tốt, người dân có ý thức trong việc giữ gìn an ninh chung + Hạn chế: Đà Nẵng vẫn còn nhiều vấn đề cần phải lưu tâm, nhất là tính không bền vững và triệt để trong các biện pháp triển khai nên chỉ có tác dụng trong một thời gian ngắn, sau đó lại trở lại tình trạng cũ. Ngoài ra, với lợi thế của mình TP nên tập trung vào du lịch nghỉ dưỡng biển, đồng thời phát triển cơ sở hạ tầng để đẩy mạnh du lịch MICE (tận dụng vị trí trung điểm Bắc – Nam của mình). Xây dựng những sản phẩm đặc trưng, những sản phẩm mới để hấp dẫn du khác 2.6. Quảng Nam: * Khái quát chung: - Diện tích: 10.408km2 - Dân số: 1.438.800 người (2003) * Tiềm năng du lịch: Tiềm năng du lịch nổi bật của tỉnh là hai di sản được UNESCO công nhận là di sản thế giới đó là Thánh địa Mỹ Sơn và phố cổ Hội An. Quảng Nam nằm trong khu vực văn hoá Sa Huỳnh cổ với nhiều di chỉ khảo cổ được tìm thấy, sau đó là vùng đất của vương quốc Chăm với kinh đô Trà Kiệu nổi tiếng. Đây là những giá trị văn hoá hết sức độc đáo không chỉ cho Quảng Nam, cho miền trung, mà còn cho cả nước trong việc thu hút khách. Ngoài ra, thiên nhiên cũng ban tặng cho Quảng Nam nhiều cảnh quan và bãi biển đẹp như: Bãi biển Cửa Đại, Cù lao Chàm, bãi Rạng 2.6.1. Phố cổ Hội An: - Giới thiệu khái quát: Từ thế kỷ 16, 17 thương cảng Hội An là tụ điểm mậu dịch có tính quốc tế ở đằng trong – Việt Nam. Thuyền buôn nước ngoài tấp nập cập bến mở hội chợ trao đổi hàng hóa, hàng năm từ 4 đến 6 tháng liền.Thương nhân các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Hà Lan, ấn Độ… đã lập thương điếm hoặc lập phố cư trú lâu dài.Do nhiều cơ may, đến nay khu phố cổ Hội An vẫn bảo tồn hầu như nguyên trạng một quần thể di tích kiến trúc gồm nhiều loại hình: Nhà ở, Hội quán, Đình, Chùa, Miếu, Cầu, Nhà thờ tộc, Bến Cảng, chợ, kết hợp với đường giao thông ngang dọc tạo thành các ô vùng kiểu bản cờ, mô hình phổ biến của đô thị thương nghiệp phố Phương Đông thời Trung đại – Cùng cuộc sống thường ngày của cư dân với những tập quán, sinh hoạt văn hóa lâu đời đamg được duy trì, nơi đây còn là bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị. Đô thị cổ Hội An cùng với cảnh quan thiên nhiên, bãi tắm, sông nước, hải đảo, các món ăn đặc sản truyền thống đang là nơi hấp dẫn khách du lịch, tham quan, nghiên cứu trong và ngoài nước. Phố cổ Hội An được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Theo UNESCO “Hội An là tiêu biểu hiện vật thể hiện nổi bật của sự kết hợp các nền văn hoá qua các thời kỳ của một thương cảng quốc tế”, - Nhận xét chung: + Tích cực: E Thị xã Hội An nằm cách trung tâm thành phố Đà Nẵng – trung tâm trung chuyển khách của cả miền trung chỉ khoảng 30km, nên điều kiện đòn tiếp khách rất thuận lợi. Và cũng chỉ cách di sản thế giới khác là Mỹ Sơn 45km, rất thuận lợi cho du khách trong việc tham quan 2 di sản này. E Đến nay, phố cổ Hội An vẫn được bảo tồn gần như nguyên trạng – một quần thể di tích kiến trúc gồm nhiều công trình nhà ở, hội quán, đình chùa, miếu mạo, giếng cầu, nhà thờ tộc, bến cảng, chợ…và những con đường hẹp chạy ngang dọc tạo thành các ô vuông kiểu bàn cờ. Sự tồn tại một đô thị như Hội An

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33228.doc
Tài liệu liên quan