Cả nước có 2 đô thị loại đặc biệt (Hà Nội, Tp. HCM); 3 đô thị loại 1 trực
thuộc Trung ương (Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ); 7 đô thị loại 1 trực thuộc
tỉnh (Hạ Long, Huế, Vinh, Đà Lạt, Nha Trang, Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột);
12 đô thị loại 2 (Biên Hòa, Cà Mau, Hải Dương, Long Xuyên, Mỹ Tho, Nam
Định, Phan Thiết, Pleiku, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Việt Trì, Vũng Tàu); 47
đô thị loại 3; 50 đô thị loại 4 và hơn 630 đô thị loại 5.
Tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng đã trở thành nhân tố tích cực
đối với phát triển KT-XH của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích
về KT-XH, đô thị hóa nhanh đã tạo ra sức ép về nhiều mặt, dẫn đến suy
giảm chất lượng môi trường và phát triển không bền vững. Các hoạt động
sản xuất, sinh hoạt tăng theo và lượng chất thải cũng tăng theo. Tính bình
quân người dân đô thị tiêu dùng năng lượng, đồ tiêu dùng, thực phẩm,.
cao gấp 2 - 3 lần người dân nông thôn kéo theo lượng rác thải của người
dân đô thị cũng gấp 2 - 3 lần người dân nông thôn.
Dân số đô thị nước ta phân bố không đồng đều và có sự khác biệt lớn
theo vùng. Tính đến năm 2010, dân số đô thị khu vực Đông Nam Bộ cao
nhất cả nước với 8,35 triệu người, tiếp theo đó là vùng Đồng bằng sông
Hồng với 5,86 triệu người, khu vực có số dân đô thị ít nhất là Tây Nguyên
với 1,5 triệu người. Mật độ dân số theo đó cũng cao chủ yếu ở 3 vùng
kinh tế lớn là Đồng bằng sông Hồng (939 người/km2), Đông Nam Bộ (617
người/km2) và Đồng bằng sông Cửu Long (426 người/km2) (mật độ dân số
trung bình toàn quốc vào khoảng 263 người/km2). Những con số trên cho
thấy, phát sinh CTR đô thị sẽ tập trung phần lớn ở vùng Đông Nam Bộ và
Đồng bằng sông Hồng
152 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 461 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Môi trường quốc gia 2011 chất thải rắn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g khối lượng đăng ký trên 2.000 tấn/tháng.
Nguồn: Cục Quản lý chất thải và Cải thiện môi trường,
TCMT, 2011
1. Thông tư 12/2006/TT-BTNMT ngày 26 tháng 12 năm 2006
của Bộ TN&MT
Chương 4:
Chất thải rắn công nghiệp
75
đường vành đai. Chất thải phát sinh từ các cơ
sở ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất phải
được vận chuyển trên các tuyến đường xuyên
tâm đến các tuyến đường vành đai.
Một số KCN có cơ sở hạ tầng và công ty
dịch vụ thuộc Ban quản lý các KCN phụ trách
công tác thu gom chất thải. Tỷ lệ thu gom CTR
công nghiệp trung bình đang tăng lên cả ở
trong và ngoài KCN, nhưng vẫn còn thấp ở
một số thành phố. Hiện chưa có số liệu đầy
đủ về tỷ lệ thu gom CTR công nghiệp ở từng
thành phố của Việt Nam. Tỷ lệ thu gom tại các
KCN tương đối cao hơn so với bên ngoài KCN.
4.5.3. Xử lý, tiêu hủy chất thải công nghiệp
nguy hại
Theo Quy hoạch các khu xử lý CTR công
nghiệp liên vùng, liên tỉnh, đến năm 2020,
4 vùng KTTĐ đều sẽ xây dựng khu xử lý CTR
công nghiệp và CTNH. Đó là các khu xử lý
Nam Sơn, Sơn Dương ở vùng KTTĐ Bắc Bộ;
Hương Văn, Bình Nguyên, Cát Nhơn ở vùng
KTTĐ miền Trung; Tân Thành, khu xử lý CTR
công nghiệp nguy hại Tây Bắc Củ Chi ở vùng
KTTĐ phía Nam; khu xử lý CTR công nghiệp
và CTNH vùng liên tỉnh ở vùng KTTĐ vùng
ĐBSCL. Cho đến nay, các khu xử lý CTR
công nghiệp liên tỉnh, liên vùng này hầu như
chưa được hình thành.
Số lượng các đơn vị hành nghề vận chuyển
và xử lý CTNH được Bộ TN&MT cấp phép gia
tăng hàng năm. Tính đến tháng 6 năm 2011,
Bộ TN&MT đã cấp 80 Giấy phép hành nghề
vận chuyển CTNH và 43 Giấy phép hành
nghề xử lý CTNH cho các cá nhân, tổ chức
đăng ký. Các doanh nghiệp này được Bộ
TN&MT hoặc Sở TN&MT cấp tỉnh cấp giấy
phép hoạt động. Hầu hết các doanh nghiệp
thu gom và xử lý CTR công nghiệp nguy hại
đều tập trung ở phía Nam.
Biểu đồ 4.3. Số lượng doanh nghiệp vận chuyển
và xử lý CTNH công nghiệp
Nguồn: TCMT, 2011
Nguồn: TCMT, 2009
Bảng 4.12. Số lượng công ty xử lý chất thải nguy hại
được Bộ TN&MT cấp phép năm 2009
Tỉnh/thành phố
Công ty
được cấp
phép
Thu gom/
vận chuyển
Xử lý
Tp. Hồ Chí Minh 23 16 20
Hà Nội 14 3 12
Bình Dương 7 4 7
Đồng Nai 5 1 5
Hải Phòng 3 2 3
Bà Rịa-Vũng Tàu 3 0 3
Hưng Yên 3 1 3
Hải Dương 3 1 2
Bắc Ninh 3 2 2
Đà Nẵng 2 1 2
Phúc Yên 2 1 2
Quảng Ninh 1 0 1
Huế 0 0 0
Tổng 69 32 62
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
76
Số lượng CTNH công nghiệp được xử lý
cũng tăng theo các năm. Theo kết quả thống
kê từ năm 2008 đến nay, dựa trên báo cáo
của các chủ xử lý, lượng CTNH được xử lý
tăng từ 85.264 lên đến 129.688 tấn/năm
(tăng 34%).
Hiện nay, công nghệ xử lý CTNH đang
được áp dụng phổ biến ở Việt Nam, bao gồm
lò đốt tĩnh hai cấp (trên 50%), hoá rắn (bê tông
hoá), chôn lấp... (Bảng 4.13 và Khung 4.4)
Đánh giá hiệu quả xử lý và môi trường của
các công nghệ đã được cấp phép, theo báo
cáo quản lý CTNH định kỳ, báo cáo giám sát
môi trường của các cơ sở xử lý CTNH do Bộ
TN&MT cấp phép cũng như kết quả thanh tra,
kiểm tra những năm vừa qua cho thấy hầu hết
các công nghệ xử lý CTNH đã được cấp phép
đều đảm bảo tuân thủ các quy định hiện hành,
đảm bảo hiệu quả xử lý cam kết khi đăng ký
hành nghề, phát thải đạt các quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về môi trường.
Biểu đồ 4.4. Lượng CTNH công nghiệp được xử lý hàng năm
Nguồn: TCMT, 2011
Nguồn: TCMT, 2011
TT Tên công nghệ Số cơ sở
áp dụng
Số mô đun
hệ thống
Công suất
1 Lò đốt tĩnh hai cấp 23 28 50 - 1000 kg/h
2 Đồng xử lý trong lò nung xi
măng
2 2
30 tấn /h
3 Chôn lấp 2 3 15.000 m3
4 Hóa rắn (bê tông hóa) 19 19 1 - 5 m3/h
5 Xử lý, tái chế dầu thải 20 20 3-20 tấn/ngày
6 Xử lý bóng đèn thải 10 10 0,2 tấn/ngày
7 Xử lý chất thải điện tử 6 6 0,3 - 5 tấn/ngày
8 Phá dỡ, tái chế ắc quy chì thải 9 9 0,5 - 200 tấn/ngày
9 Tái chế dung môi 13 13 0,25 - 1,2 m3/h
10 Xúc rửa thùng phi 15 15 60 - 1000 phuy/ngày
11 Xử lý nước thải 20 23 6 - 25 m3/h
12 Tận thu kim loại (xử lý xỉ kẽm,
tận thu muối kim loại)
4 10
0,1 - 1 tấn/h
Bảng 4.13. Các công nghệ xử lý CTNH điển hình và phổ biến hiện nay tại Việt Nam
Chương 4:
Chất thải rắn công nghiệp
77
Nhìn chung, các công nghệ hiện có của Việt Nam còn chưa hiện đại,
sử dụng các công nghệ đa dụng cho nhiều loại CTNH và thường ở quy mô
nhỏ, nhưng đã đáp ứng được phần nào nhu cầu xử lý CTNH. Tuy nhiên, để
thực sự đảm bảo công tác quản lý CTNH đạt yêu cầu, cần phát triển công
nghệ xử lý CTNH tại Việt Nam cả về chất lượng và số lượng. Ngoài ra, cần
nghiên cứu chuyên biệt hoá các công nghệ để xử lý các loại CTNH đặc
thù. Bên cạnh đó cần phải tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm
tra để đảm bảo các công nghệ đã được cấp phép hoạt động tuân thủ đúng
quy định, đạt các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường.
Đối với các loại CTNH đặc thù nên xây dựng quy trình xử lý chuyên
biệt để đảm bảo an toàn cho môi trường xung quanh. Nhưng để lựa chọn
công nghệ xử lý CTR phù hợp điều kiện của Việt Nam không đơn giản, do
đó cần thiết phải xây dựng và ban hành các bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật, định mức kinh tế kỹ thuật... làm cơ sở khoa học cho các công nghệ
xử lý chất thải.
Để công tác bảo vệ môi trường thực hiện có hiệu quả, Nhà nước không
chỉ quan tâm đến vấn đề quản lý, thanh tra, xử phạt mà cần thiết phải
chú trọng đến vấn đề quản lý thị trường và quy hoạch công nghệ xử lý
CTNH. Có như vậy mới có thể tránh cho doanh nghiệp những rủi ro
không đáng có, đồng thời nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường của các
đơn vị sản xuất.
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
78
Khung 4.5. Các công nghệ xử lý CTNH điển hình và phổ biến hiện nay tại Việt Nam
a) Lò đốt tĩnh hai cấp
Đây là loại công nghệ phổ biến được sử dụng nhiều
ở Việt Nam với tổng số 28 lò đốt.
Nhà máy xử lý rác Đại Đồng (Công ty URENCO Hà
Nội) đã đầu tư một lò đốt rác với công suất 10 - 20
tấn/ngày, và là một trong những công trình xử lý
chất thải công nghiệp lớn nhất tại vùng KTTĐ phía
Bắc và đang trong quá trình thử nghiệm. Ở miền
Trung, có hai lò đốt công nghiệp (công suất 100kg/h
và 200kg/h) đang hoạt động tại Đà Nẵng. Ở miền
Nam, có một số lò đốt công nghiệp như lò đốt
của CITENCO (300kg/h, 4tấn/ngày), VINAUSEEN
(500kg/h, 2tấn/ngày) đang hoạt động.
Hệ thống xử lý khí thải lò đốt CTNH
b) Đồng xử lý trong lò nung xi măng
Công nghệ này được áp dụng tại hai cơ sở sản xuất
xi măng ở Kiên Giang và Hải Dương. Do đặc thù
của công nghệ sản xuất xi măng lò quay, có thể sử
dụng CTNH làm nguyên liệu, nhiên liệu bổ sung
cho quá trình sản xuất xi măng, chất thải được thiêu
huỷ đồng thời trong lò nung xi măng ở nhiệt độ cao
(trên 1300oC).
Hệ thống lò nung xi măng và bộ phận nạp
CTNH dạng lỏng
c) Chôn lấp CTNH
Công nghệ này hiện nay mới áp dụng ở Hà Nội và
Bình Dương với dung tích của mỗi hầm chôn lấp từ
15.000 m3. Bãi chôn lấp CTNH, hay thực chất là
các hầm chôn lấp, được thiết kế theo quy định tại
Tiêu chuẩn xây dựng TCXDVN 320:2004 về Bãi
chôn lấp chất thải nguy hại - Tiêu chuẩn thiết kế.
Việc vận hành bãi chôn lấp CTNH thực hiện trên
cơ sở Hướng dẫn kỹ thuật chôn lấp chất thải nguy
hại ban hành kèm theo Quyết định số 60/2002/
QĐ-BKHCNMT ngày 07/8/2002 của Bộ trưởng Bộ
KHCN&MT.
Hầm chôn lấp CTNH
Chương 4:
Chất thải rắn công nghiệp
79
d) Hóa rắn (bê tông hóa)
Công nghệ hóa rắn có ưu điểm là thiết bị, công
nghệ đơn giản, sẵn có (có thể tự lắp đặt, chế tạo),
dễ vận hành, có hiệu quả kinh tế vì có thể tận dụng
sản xuất vật liệu xây dựng (gạch block, tấm đan).
Tuy nhiên công nghệ hóa rắn chỉ xử lý an toàn đối
với CTNH trơ, có thành phần vô cơ. Khả năng ổn
định CTNH trong khối rắn thay đổi theo từng loại
CTNH nên cần phải nghiên cứu kỹ quá trình cấp
phối bê tông. Cần giám sát sản phẩm đầu ra để
đảm bảo không vượt ngưỡng CTNH theo quy định
tại QCVN 07: 2009/BTNMT.
Máy trộn bê tông và máy ép gạch block
để hoá rắn CTNH
đ) Tái chế dầu thải
Công nghệ tái chế dầu, gồm các loại: chưng cất
cracking dầu (chưng phân đoạn hay còn gọi chưng
nhiều bậc và chưng đơn giản hay chưng một bậc);
phân ly dầu nước bằng phương pháp cơ học (ly
tâm) và bằng nhiệt.
Hệ thống chưng dầu thải phân đoạn (trái)
và chưng đơn giản (phải)
e) Xử lý bóng đèn huỳnh quang thải
Công nghệ này có ưu điểm là chi phí đầu tư hợp
lý, dễ vận hành, sau khi phân tách riêng bột huỳnh
quang, thủy tinh có thể dùng làm nguyên liệu trong
sản xuất xi măng hoặc tái sử dụng thủy tinh sạch.
Tuy nhiên, sau khi xử lý bóng đèn thải, quá trình
hấp thụ hơi thuỷ ngân có trong bóng đèn thải sẽ tạo
ra chất thải mới cần xử lý là muối thuỷ ngân.
Thiết bị xử lý bóng đèn thải
g) Xử lý chất thải điện tử
Đối với các cơ sở có lượng chất thải điện tử nhỏ thì
việc phá dỡ thủ công là phù hợp, chủ yếu để đáp
ứng đủ mã CTNH xử lý trong dịch vụ. Tuy nhiên,
công đoạn phá dỡ thủ công có thể ảnh hưởng sức
khỏe của công nhân do phải tiếp xúc trực tiếp với
chất thải.
Dây chuyền nghiền bản mạch điện tử (trái)
và bàn phá dỡ đơn giản (phải)
Chương 4:
Chất thải rắn công nghiệp
81
Chương 5:
Chất thải rắn y tế
83
Chương 5:
CHẤT THẢI RẮN Y TẾ
5.1. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN
CÁC BỆNH VIỆN VÀ CƠ SỞ KHÁM
CHỮA BỆNH
Hệ thống các bệnh viện, cơ sở khám chữa
bệnh trên địa bàn toàn quốc được phân cấp
quản lý theo tính chất chuyên khoa. Cụ thể,
Bộ Y tế quản lý 11 bệnh viện đa khoa tuyến
trung ương, 25 bệnh viện chuyên khoa tuyến
trung ương; địa phương quản lý 743 bệnh
viện đa khoa tuyến tỉnh/thành phố, 239 bệnh
viện chuyên khoa tuyến tỉnh/thành phố, 595
bệnh viện đa khoa quận/huyện/thị xã và
11.810 trung tâm y tế các cấp; các đơn vị
khác quản lý 88 Trung tâm/Nhà điều dưỡng/
bệnh viện tư nhân. (Cục Khám chữa bệnh -
Bộ Y tế, 2009).
Mức độ đáp ứng nhu cầu chữa trị tính
chung trong cả nước tăng lên rõ rệt trong
những năm gần đây, năm 2005 là 17,7
giường bệnh/1 vạn dân, đến năm 2009 là 22
giường bệnh/1 vạn dân (TCTK, 2011). Việc
tăng số lượng giường bệnh thực tế do tăng
nhu cầu về khám chữa bệnh đồng nghĩa với
việc tăng khối lượng chất thải y tế cần phải
xử lý.
5.2. PHÁT SINH CHẤT THẢI RẮN Y TẾ
5.2.1. Nguồn phát sinh chất thải rắn y tế
Nguồn phát sinh chất thải y tế chủ yếu
là: bệnh viện; các cơ sở y tế khác như: trung
tâm vận chuyển cấp cứu, phòng khám sản
phụ khoa, nhà hộ sinh, phòng khám ngoại
trú, trung tâm lọc máu...; các trung tâm xét
nghiệm và nghiên cứu y sinh học; ngân hàng
máu... Hầu hết các CTR y tế đều có tính chất
độc hại và tính đặc thù khác với các loại CTR
khác. Các nguồn xả chất lây lan độc hại chủ
yếu là ở các khu vực xét nghiệm, khu phẫu
thuật, bào chế dược (Bảng 5.1).
(*) Không tính số cơ sở khám chữa bệnh tư nhân
Biểu đồ 5.1. Sự phát triển của các điều kiện
chăm sóc sức khỏe
Nguồn: TCTK, 2011
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
84
5.2.2. Lượng phát sinh chất thải rắn y tế
Theo nghiên cứu điều tra mới nhất của
Cục Khám chữa bệnh - Bộ Y tế và Viện Kiến
trúc, Quy hoạch Đô thị và Nông thôn - Bộ
Xây dựng, năm 2009-2010, tổng lượng CTR y
tế trong toàn quốc khoảng 100-140 tấn/ngày,
trong đó có 16-30 tấn/ngày là CTR y tế nguy
hại. Lượng CTR trung bình là 0,86 kg/giường/
ngày, trong đó CTR y tế nguy hại tính trung
bình là 0,14 - 0,2 kg/giường/ngày.
CTR y tế phát sinh ngày càng gia tăng ở
hầu hết các địa phương, xuất phát từ một số
nguyên nhân như: gia tăng số lượng cơ sở y tế
và tăng số giường bệnh; tăng cường sử dụng
các sản phẩm dùng một lần trong y tế; dân số
gia tăng, người dân ngày càng được tiếp cận
nhiều hơn với dịch vụ y tế.
Loại CTR Nguồn tạo thành
Chất thải
sinh hoạt
Các chất thải ra từ nhà bếp, các
khu nhà hành chính, các loại
bao gói..
Chất thải
chứa các vi
trùng gây
bệnh
Các phế thải từ phẫu thuật, các
cơ quan nội tạng của người sau
khi mổ xẻ và của các động vật
sau quá trình xét nghiệm, các
gạc bông lẫn máu mủ của bệnh
nhân..
Chất thải bị
nhiễm bẩn
Các thành phần thải ra sau khi
dùng cho bệnh nhân, các chất
thải từ quá trình lau cọ sàn nhà...
Chất thải
đặc biệt
Các loại chất thải độc hại hơn
các loại trên, các chất phóng
xạ, hóa chất dược... từ các khoa
khám, chữa bệnh, hoạt động
thực nghiệm, khoa dược
Bảng 5.1. Nguồn phát sinh các loại CTR
đặc thù từ hoạt động y tế
Bảng 5.2. Khối lượng chất thải y tế của một số địa phương năm 2009
Ghi chú: (*) Số liệu năm 2006; (**) Số liệu năm 2007
Nguồn: Báo cáo Hiện trạng môi trường địa phương 2006-2010, Sở TN&MT các địa phương, 2010
Loại đô
thị
Tỉnh/Tp.
Lượng
CTR y tế
(tấn/năm)
Loại
đô thị
Tỉnh/Tp.
Lượng
CTR y tế
(tấn/năm)
Loại
đô thị
Tỉnh/Tp.
Lượng
CTR y tế
(tấn/năm)
Tỉnh có
đô thị
loại I
Đắk Lắk 276,3
Tỉnh
có đô
thị
loại
III
Bạc Liêu 134,8 Tỉnh
có đô
thị
loại III
Quảng Trị 272,116
Khánh Hòa 365 Bình Dương 1.241 Sóc Trăng 266,7
Lâm Đồng 209,3 Điện Biên 79,1 Sơn La 175
Nam Định 488 Hà Giang 405 Trà Vinh 400 (**)
Nghệ An 187,6 Hà Nam 967 Vĩnh Long 340,26
Tỉnh có
đô thị
loại II
An Giang 320,1 Hậu Giang 634,8 (*) Yên Bái 108,542
Cà Mau 159,5 Kiên Giang 642,4
Đô thị
loại
đặc
biệt
Hà Nội ~5000
Đồng Nai 430,8 Long An 369
Tp. Hồ Chí
Minh
2800(**)
Phú Thọ 126,54 Quảng Nam 602,25
Chương 5:
Chất thải rắn y tế
85
Tính riêng cho 36 bệnh viện thuộc Bộ Y
tế quản lý, theo khảo sát năm 2009, tổng
lượng CTR y tế phát sinh trong 1 ngày là
31,68 tấn, trung bình là 1,53 kg/giường/
ngày. Lượng chất thải phát sinh tính theo
giường bệnh cao nhất là bệnh viện Chợ Rẫy
3,72 kg/giường/ngày, thấp nhất là bệnh viện
Điều dưỡng - Phục hồi chức năng Trung
ương và bệnh viện Tâm thần Trung ương 2
với 0,01 kg/giường/ngày.
Lượng CTR y tế phát sinh trong ngày khác
nhau giữa các bệnh viện tùy thuộc số giường
bệnh, bệnh viện chuyên khoa hay đa khoa,
các thủ thuật chuyên môn được thực hiện tại
bệnh viện, số lượng vật tư tiêu hao được sử
dụng... (Bảng 5.3).
Biểu đồ 5.2. Gia tăng chất thải y tế của một số
địa phương giai đoạn 2005 - 2009
Nguồn: Sở TN&MT các địa phương, 2010
Khoa
Tổng lượng chất thải phát sinh
(kg/giường/ngày)
Tổng lượng chất thải y tế nguy hại
(kg/giường/ngày)
BV TW BV Tỉnh
BV
Huyện
Trung
bình
BV
TW
BV
Tỉnh
BV Huyện
Trung
bình
Bệnh viện 0,97 0,88 0,73
0,86
0,16 0,14 0,11
0,14
Khoa hồi sức
cấp cứu
1,08 1,27 1,00 0,30 0,31 0,18
Khoa nội 0,64 0,47 0,45 0,04 0,03 0,02
Khoa nhi 0,50 0,41 0,45 0,04 0,05 0,02
Khoa ngoại 1,01 0,87 0,73 0,26 0,21 0,17
Khoa sản 0,82 0,95 0,74 0,21 0,22 0,17
Khoa mắt/TMH 0,66 0,68 0,34 0,12 0,10 0,08
Khoa cận lâm sàng 0,11 0,10 0,08 0,03 0,03 0,03
Trung bình 0,72 0,7 0,56 0,14 0,13 0,09
Bảng 5.3. Lượng chất thải phát sinh tại các khoa trong bệnh viện
Nguồn: Quy hoạch quản lý chất thải y tế, Bộ Y tế, 2009
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
86
5.2.3. Thành phần chất thải rắn y tế
Hầu hết các CTR y tế là các chất thải sinh
học độc hại và mang tính đặc thù so với các
loại CTR khác. Các loại chất thải này nếu
không được phân loại cẩn thận trước khi xả
chung với các loại chất thải sinh hoạt sẽ gây
ra những nguy hại đáng kể.
Xét về các thành phần chất thải dựa trên
đặc tính lý hóa thì tỷ lệ các thành phần có
thể tái chế là khá cao, chiếm trên 25% tổng
lượng CTR y tế, chưa kể 52% CTR y tế là các
chất hữu cơ.
Trong thành phần CTR y tế có lượng lớn
chất hữu cơ và thường có độ ẩm tương đối
cao, ngoài ra còn có thành phần chất nhựa
chiếm khoảng 10%, vì vậy khi lựa chọn công
nghệ thiêu đốt cần lưu ý đốt triệt để và không
phát sinh khí độc hại.
Biểu đồ 5.3. Thành phần CTR y tế dựa trên
đặc tính lý hóa
Nguồn: Kết quả điều tra của dự án
hợp tác giữa Bộ y tế và WHO, 2009
Phân loại và lưu giữ CTR y tế tại một số bệnh viện
Chương 5:
Chất thải rắn y tế
87
5.3. PHÂN LOẠI, THU GOM VÀ VẬN
CHUYỂN CHẤT THẢI RẮN Y TẾ
Công tác thu gom, lưu trữ CTR y tế nói
chung đã được quan tâm bởi các cấp từ Trung
ương đến địa phương, thể hiện ở mức độ thực
hiện quy định ở các bệnh viện khá cao.
Chất thải y tế phát sinh từ các cơ sở khám
chữa bệnh trực thuộc sự quản lý của Bộ Y tế,
phần lớn được thu gom và vận chuyển đến
các khu vực lưu giữ sau đó được xử lý tại các
lò thiêu đốt nằm ngay trong cơ sở hoặc ký
hợp đồng vận chuyển và xử lý đối với các cơ
sở xử lý chất thải đã được cấp phép tại địa
bàn cơ sở khám chữa bệnh đó.
Đối với các cơ sở khám chữa bệnh ở địa
phương do các Sở Y tế quản lý, công tác thu
gom, lưu giữ và vận chuyển CTR chưa được
chú trọng, đặc biệt là công tác phân loại và
lưu giữ chất thải tại nguồn (chất thải y tế
thông thường, chất thải y tế nguy hại...).
Trong vận chuyển CTR y tế, chỉ có 53%
số bệnh viện sử dụng xe có nắp đậy để vận
chuyển chất thải y tế nguy hại; 53,4% bệnh
viện có mái che để lưu giữ CTR... đây là
những yếu tố để đảm bảo an toàn cho người
bệnh và môi trường.
Khung 5.1. Thống kê mức độ phân loại, thu
gom chất thải trong các bệnh viện
Có 95,6% bệnh viện đã thực hiện phân loại
chất thải trong đó 91,1% đã sử dụng dụng cụ tách
riêng vật sắc nhọn. Theo báo cáo kiểm tra của
các tỉnh và nhận xét của đoàn kiểm tra liên Bộ,
còn có hiện tượng phân loại nhầm chất thải, một
số loại chất thải thông thường được đưa vào chất
thải y tế nguy hại gây tốn kém trong việc xử lý.
Có 63,6% sử dụng túi nhựa làm bằng nhựa
PE, PP. Chỉ có 29,3% sử dụng túi có thành dày
theo đúng quy chế.
Chất thải y tế đã được chứa trong các thùng
đựng chất thải. Tuy nhiên, các bệnh viện có các
mức độ đáp ứng yêu cầu khác nhau, chỉ có một
số ít bệnh viện có thùng đựng chất thải theo
đúng quy chế (bệnh viện trung ương và bệnh
viện tỉnh).
Hầu hết ở các bệnh viện (90,9%) CTR được
thu gom hàng ngày, một số bệnh viện có diện
tích chật hẹp nên gặp khó khăn trong việc thiết
kế lối đi riêng để vận chuyển chất thải. Chỉ có
53% số bệnh viện chất thải được vận chuyển
trong xe có nắp đậy. Có 53,4% bệnh viện có nơi
lưu giữ chất thải có mái che, trong đó có 45,3%
đạt yêu cầu theo quy chế quản lý chất thải y tế.
Nguồn: Kết quả khảo sát 834 bệnh viện của
Viện Y học Lao động và Vệ sinh Môi trường năm 2006 và
báo cáo của các Sở Y tế từ các địa phương từ 2007-2009
Các yêu cầu theo quy chế quản lý CTYT Tỷ lệ tuân thủ (%)
Túi đựng chất thải đúng quy cách về bề dày và dung tích 66,67
Túi đựng chất thải đúng quy cách về màu sắc 30,67
Túi đựng chất thải đúng quy cách về buộc đóng gói 81,33
Hộp đựng vật sắc nhọn đúng quy cách 93,9
Thùng đựng có nắp đậy 58,33
Thùng đựng có ghi nhãn 66,67
Hộp đựng vật sắc nhọn đúng quy cách 93,9
Bảng 5.4. Hiện trạng thu gom, phân loại chất thải y tế tại các bệnh viện trên địa bàn
thành phố Hà Nội năm 2010
Nguồn: Số liệu thống kê trung bình của Sở Y tế từ kết quả khảo sát
74 bệnh viện Hà Nội năm 2009-2010
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
88
Phương tiện thu gom chất thải còn thiếu và chưa
đồng bộ, hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn. Nguyên nhân
do có rất ít nhà sản xuất quan tâm đến mặt hàng này,
do vậy mua sắm phương tiện thu gom CTR đúng tiêu
chuẩn của các bệnh viện gặp khó khăn. Theo báo
cáo của JICA (2011), các cơ sở y tế của 5 thành phố
điển hình là Hải Phòng, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng và
thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết các bệnh viện sử
dụng thùng nhựa có bánh xe, xe tay, các dụng cụ vận
chuyển bằng tay khác. Một số khu vực lưu trữ CTR
trước khi xử lý tại chỗ hoặc tại các khu vực xử lý bên
ngoài được trang bị điều hoà và hệ thống thông gió
theo Quy định.
Nhìn chung các phương tiện vận chuyển chất
thải y tế còn thiếu, đặc biệt là các xe chuyên dụng.
Hoạt động vận chuyển chất thải y tế nguy hại từ
bệnh viện, cơ sở y tế đến nơi xử lý, chôn lấp hầu hết
do Công ty môi trường đô thị đảm nhiệm, không có
các trang thiết bị đảm bảo cho quá trình vận chuyển
được an toàn.
Các phương thức chuyên chở và vận chuyển
CTR y tế tại một số bệnh viện
Bảng 5.5.Thực trạng các trang thiết bị thu gom lưu giữ CTR y tế tại một số thành phố
Nguồn: Nghiên cứu Quản lý môi trường đô thị tại Việt Nam - Tập 6. Nghiên cứu về quản lý CTR
ở Việt Nam, JICA, tháng 5 - 2011.
Loại đô thị
Thành
phố
Số lượng
đơn vị trả lời
phiếu điều tra
Dụng cụ thu gom
tại chỗ
Lưu trữ chất thải
Xe
tay
Thùng có
bánh xe
Khác
Có điều
hoà và
thông
gió
Không có
điều hoà và
thông gió
Phòng
chung
Không
có khu
lưu trữ
Đô thị loại
đặc biệt
Hà Nội 61 32 25 15 24 13 15 9
Tp.HCM 51 30 27 7 38 11 1 1
Đô thị
loại I
Đà Nẵng 20 9 5 6 2 13 2 3
Hải Phòng 17 2 4 11 1 3 8 5
Huế 23 1 14 0 1 5 5 12
Tổng 172 74 75 39 66 45 31 30
Chương 5:
Chất thải rắn y tế
89
5.4. XỬ LÝ VÀ TÁI CHẾ CHẤT THẢI RẮN
Y TẾ THÔNG THƯỜNG
CTR y tế không nguy hại ở hầu hết các
tỉnh, thành phố đều do Công ty môi trường
đô thị thu gom, vận chuyển và được xử lý tại
các khu xử lý CTR tập trung của địa phương.
Hoạt động thu hồi và tái chế CTR y tế tại
Việt Nam hiện đang thực hiện không theo
đúng quy chế quản lý CTR y tế đã ban hành.
Chưa có các cơ sở chính thống thực hiện
các hoạt động thu mua và tái chế các loại
chất thải từ hoạt động y tế ở Việt Nam. Quy
chế Quản lý chất thải y tế (2007) đã bổ sung
nội dung tái chế CTR y tế không nguy hại
làm căn cứ để các cơ sở y tế thực hiện. Tuy
nhiên, nhiều địa phương chưa có cơ sở tái
chế, do vậy việc quản lý tái chế các CTR y tế
không nguy hại còn gặp nhiều khó khăn. Một
số vật liệu từ chất thải bệnh viện như: chai
dịch truyền chứa dung dịch huyết thanh ngọt
(đường glucose 5%, 20%), huyết thanh mặn
(NaCl 0,9%), các dung dịch acide amine,
các loại muối khác; các loại bao gói nilon và
một số chất nhựa khác; một số vật liệu giấy,
thuỷ tinh hoàn toàn không có yếu tố nguy hại,
có thể tái chế để hạn chế việc thiêu đốt chất
thải gây ô nhiễm.
Năm 2010, đã phát hiện nhiều hiện tượng
đưa CTR y tế ra ngoài bán, tái chế trái phép
thành các vật dụng thường ngày. Việc tái sử
dụng các găng tay cao su, các vật liệu nhựa
đã và đang tạo ra nhiều rủi ro cho những
người trực tiếp tham gia như các nhân viên
thu gom, những người thu mua và những
người tái chế phế liệu. Tái chế và tái sử dụng găng tay khám bệnh để bán
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
90
5.5. CHẤT THẢI Y TẾ NGUY HẠI
5.5.1. Phát sinh chất thải y tế nguy hại
Trong CTR y tế, thành phần đáng quan tâm
nhất là dạng CTNH, do nguy cơ lây nhiễm
mầm bệnh và hóa chất độc cho con người.
Lượng CTNH y tế phát sinh không đồng đều
tại các địa phương, chủ yếu tập trung ở các
tỉnh, thành phố lớn. Xét theo 7 vùng kinh tế
trong cả nước (trong đó vùng Đông Bắc và
vùng Tây Bắc Bắc Bộ được gộp chung vào 1
vùng), vùng Đông Nam Bộ phát sinh lượng
thải nguy hại lớn nhất trong cả nước (32%),
với tổng lượng thải là 10.502,8 tấn/năm, tiếp
đến là vùng Đồng bằng sông Hồng (chiếm
21%). Các tỉnh có mức thải CTNH lớn (> 500
tấn/năm) tính trong cả nước theo thứ tự như
sau: Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hóa,
Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Khánh Hòa,
Thừa Thiên Huế, An Giang, Cần Thơ, Nghệ
An, Phú Thọ, Hải Phòng, Long An.
Lượng CTNH y tế phát sinh khác nhau giữa
các loại cơ sở y tế khác nhau. Các nghiên cứu
cho thấy các bệnh viện tuyến trung ương và
tại các thành phố lớn có tỷ lệ phát sinh CTNH
y tế cao nhất. Tính trong 36 bệnh viện thuộc
Bộ Y tế, tổng lượng CTNH y tế cần được xử lý
trong 1 ngày là 5.122 kg, chiếm 16,2% tổng
lượng CTR y tế. Trong đó, lượng CTNH y tế
tính trung bình theo giường bệnh là 0,25 kg/
giường/ngày. Chỉ có 4 bệnh viện có chất thải
phóng xạ là bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện
Đa khoa Trung ương Huế, bệnh viện Đa khoa
Trung ương Thái Nguyên và Bệnh viện K. Các
phương pháp xử lý đặc biệt đối với CTNH y
tế đắt hơn rất nhiều so với các CTR sinh hoạt,
do vậy đòi hỏi việc phân loại chất thải phải
đạt hiệu quả và chính xác.
Theo số liệu điều tra của Cục Khám chữa
bệnh - Bộ Y tế và Viện Kiến trúc, Quy hoạch
Biểu đồ 5.4. Mức độ phát sinh CTNH y tế theo các
vùng kinh tế
Nguồn: Cục Khám chữa bệnh, Bộ Y tế; Viện Kiến trúc,
Quy hoạch đô thị và nông thôn, Bộ Xây dựng, 2010
Loại bệnh viện Năm 2005 Năm 2010
Bệnh viện đa khoa TW 0,35 0,42
Bệnh viện chuyên khoa
TW
0,23-0,29 0,28-0,35
Bệnh viện đa khoa tỉnh 0,29 0,35
Bệnh viện chuyên khoa
tỉnh
0,17-0
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_moi_truong_quoc_gia_2011_chat_thai_ran.pdf