PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU 1
NHẬN XÉT CỦA CÔNG TY THỰC TẬP
Chương I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ SẢN XUẤT GIÀY THÁI BÌNH 2
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÔNG TY 2
1. Tên công ty: 2
2. Trụ sở giao dịch: 2
3. Hình thức pháp lý: 2
4. Lĩnh vực kinh doanh: 2
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG TY 2
1Giai đoạn từ năm 1989-1993 3
2. Giai đoạn từ năm 1993-1997 3
3. Giai đoạn 1998-2006 6
4. Chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động của công ty 7
5. Cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty. 8
6. Cơ cấu tổ chức của công ty 9
7. Số lượng, trình độ cán bộ công nhân viên 10
III. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 10
1. Tình hình phát triển thị trường xuất khẩu của công ty 10
2. Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu của công ty trong giai đoạn 2004-2006. 14
2.1 Xét cề chỉ tiêu tổng sản lượng xuất khẩu công ty 14
2.2 Xét về chỉ tiêu doanh thu xuất khẩu 15
2.3 Xét về chỉ tiêu lợi nhuận của công ty. 17
2.4 Chỉ tiêu thu nhập bình quân 17
2.5 Chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước 18
3. Phương hướng phát triển củ công ty trong giai đoạn tới 2007-2010 19
3.1 Kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2007 19
3.2 Chiến lược phát triển công ty giai đoạn 2008-2010 19
Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GIÀY THỂ THAO CỦA CÔNG TY 21
I. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU 21
1. Nhân tố chủ quan: 21
1.1 Cơ cấu tổ chức, hệ thống quản trị công ty: 21
1.2 Trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên: 22
1.3 Trình độ quản lý nhân lực: 24
1.4 Tài chính: 26
1.5 Máy móc trang thiết bị, nhà xưởng: 27
1.6 Uy tín công ty: 29
2. Nhân tố khách quan 30
2.1 Chính sách pháp luật của Nhà nước: 30
2.2 Tính chất cạnh tranh của môi trường: 32
2.3 Nhà cung ứng: 34
2.4 Yếu tố tỷ giá hối đoái: 34
2.5 Xu hướng thay đổi nhu cầu tiêu dùng của khách hàng: 35
2.6 Thương hiệu: 35
II. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GIÀY THỂ THAO CỦA CÔNG TY SANG THỊ TRƯỜNG EU GIAI ĐOẠN 2004-2006 36
1. Đặc điểm thị trường 36
Sơ lược về thị trường EU: 36
2. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU về ngành da giày 37
3. Các quy định, tiêu chuẩn hoá của thị trường EU về hàng hoá nhập khẩu nói chung 38
III. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GIÀY THỂ THAO CỦA CÔNG TY SANG THỊ TRƯỜNG EU GIAI ĐOẠN 2004-2006 40
1. Sản lượng xuất khẩu 40
2. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU đối với giày thể thao. 43
3. Tình hình thực hiện đơn hàng xuất khẩu giày thể thao sang thị trường EU. 45
4. Tình hình chất lượng giày thể thao xuất khẩu sang EU 47
5. Tình hình biến động giá của giày thể thao khi xuất sang EU. 49
6. Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu giày thể thao sang thị trường EU đối với công ty. 50
IV. ĐÁNH GIÁ 51
1. Thành tựu 51
1.1 Duy trì và phát triển thị trường: 51
1.2 Doanh thu tăng: 52
1.3 Hệ thống quản trị chất lượng chặt chẽ: 53
1.4 Thành công trong việc thực hiện đơn hàng: 54
1.5 Thành công trong việc liên doanh liên kết: 55
1.6 Nguyên nhân 56
2. Hạn chế 58
2.1 Chưa có hình thức quảng bá, tiếp thị sản phẩm đến khách hàng tiêu dùng: 58
2.2 Chưa có kênh phân phối đến tay người tiêu dùng: 59
2.3 Chưa tạo ra thương hiệu trên thị trường nước ngoài: 60
2.4 Chưa liên kết với các phương tiện vận tải để có khả năng thu được lợi nhuận cao trong việc vận chuyển hàng hoá: 60
Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GIÀY THỂ THAO CỦA CÔNG TY GIÀY THÁI BÌNH SANG THỊ TRƯỜNG EU. 61
I. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 61
1. Tăng cường thu hút nguồn lực tạo thế mạnh nội lực: 61
2. Tăng cường liên doanh liên kết: 63
3. Xây dựng thương hiệu mạnh 64
4. Tìm cách tiếp cận khách hàng 65
5. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn đầu vào 65
6. Đầu tư, phát triển phòng thiết kế phát triển mẫu phù hợp 65
II. KIẾN NGHỊ TẦM VĨ MÔ 66
1. Đối với Nhà nước 66
2. Đối với Hiệp hội da giày Việt Nam ( Lefaso) 67
72 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1833 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm giày thể thao sang thị trường EU của công ty cổ phần đầu tư và sản xuất giày Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tác đối với công ty, nếu ngược lại thì có thể gây ảnh hưởng đến tiến độ vận chuyển hàng hoá, như vậy sẽ gây cho các đối tác có cái nhìn không mấy thiện cảm về chính sách của Nhà nước, giảm hợp đồng với công ty và thu hồi các quyết định đầu tư liên quan khác. Do vậy để tăng khả năng xuất khẩu của các công ty Nhà nước cần thực hiện cải tổ các chính sách liên quan đến các thủ tục hải quan, rút ngắn thời gian thực hiện và loại bỏ những thủ tục không cần thiết.
+ Yếu tố thứ hai tác động tới hoạt động xuất khẩu của công ty là thuế xuất khẩu mặt hàng giày dép. Hàng năm do lượng hàng xuất khẩu ra nước ngoài của công ty là rất lớn nên lượng doanh thu hàng năm không nhỏ hoạt động xuất khẩu mang lại của công ty Thái Bình là rất lớn, nên mức thuế suất xuất khẩu có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu của công ty. Nếu mức thuế xuất khẩu cao dẫn đến chi phí của công ty cũng bị đẩy cao lên điều này sẽ gây khó khăn cho công ty nếu tỉ lệ lãi của công ty trên mỗi đôi giày là thấp, không khuyến khích được các hoạt động xuất khẩu của công ty bởi khi lãi thấp công ty sẽ không có đủ nguồn vốn quay vòng cần thiết, chế độ lương thưởng cho công nhân viên cũng hạn chế. Việc thực hiện trách nhiệm xã hội của công ty cũng khó khăn. Nhưng đồng thời công ty cũng không thể nâng giá giày cao lên được bởi yếu tố cạnh tranh trên thị trường.
+ Thuế nhập khẩu nguyên vật liệu sản xuất giày của Nhà nước cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu của công ty. Bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới giá thành mỗi đôi giày sản xuất ra từ đó ảnh hưởng đến tính cạnh tranh về giá giày công ty trên thị trường.
Ngày nay, khi nền kinh tế càng phát triển thì cơ chế chính sách, hành lang pháp lý của Nhà nước cũng càng thông thoáng hơn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển ổn định. Đối với hoạt động xuất khẩu thì các chính sách về ưu đãi về thuế, khuyến khích xuất khẩu, đơn giản hoá trong các thủ tục xuất nhập khẩu của Nhà nước đã hỗ trợ doanh nghiệp rất nhiều trong việc giảm thiểu chi phí, tiết kiệm thời gian làm thủ xuất nhập khẩu, từ đó nâng cao lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp về giá cả, thời gian thực hiện đơn hàng với đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó các chính sách về lao động, tiền lương tối thiểu, thời gian làm thêm, chính sách đầu tư, chính sách ưu đãi cho vay.. cũng đều ảnh hưởng hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tới khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp. Ngành da giày là một trong 3 ngành mũi nhọn trong xuất khẩu nước ta, nó đứng thứ 3 sau dầu thô và dệt may, đồng thời nó cũng là ngành sử dụng nhiều lao động góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập cho người dân, góp phần giải quyết vấn đề xã hội nên được Nhà nước quan tâm và tạo điều kiện cho ngành phát triển. Trong năm 2006 vừa qua ngành đã gặp một số khó khăn do bị uỷ ban châu Âu (EC) kiện bán phá giày mũ da vào thị trường EU, vào tháng 4/2006 Việt Nam chính thức bị EU bắt đầu áp dụng thuế bán phá giá với mức 10%. Điều này đã làm cho các doanh nghiệp sản xuất giày mũ da gặp nhiều khó khăn do việc chi phí tăng cao gây tổn thất tới doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Trước tình hình này các cơ quan của các bộ ban ngành đã cùng cố gắng tìm cách tháo gỡ như tìm cách giúp các doanh nghiệp kháng kiện, tăng cường các chuyến công tác đến các nước thuộc liên minh EU tìm lời ủng hộ cho nền sản xuất da giày Việt Nam tạo thêm tiếng nói cho ngành trước uỷ ban châu Âu, đồng thời tăng cường hợp tác, tìm kiếm mở rộng thị trường giúp các doanh nghiệp Việt Nam vượt qua thời kỳ khó khăn này.
2.2 Tính chất cạnh tranh của môi trường:
+ Tính chất cạnh tranh của môi trường được biểu hiện một phần qua số lượng các đối thủ, mức độ khó hay dễ khi ra nhập vào ngành hay rút lui khỏi ngành...Ngành gia công và sản xuât giày da là ngành đang rất phát triển ở nước ta nhưng hầu hết các doanh nghiệp chỉ gia công sản xuất cho nước ngoài tức gia công thuần tuý chứ không phải hình thức mua nguyên vật liệu bán thành phẩm, đây là một điểm yếu của ngành sản xuất giày dép Việt Nam. Theo số liệu thông kê có tới 70% các doanh nghiệp xuất khẩu lớn là công ty liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. Trong số 30% công ty Việt Nam tham gia vào sản xuất da giày lại có tới 70% làm gia công nên giá trị lợi nhuận đích thực mà ngành mang lại là không lớn. Như vậy môi trường cạnh tranh trong nước về gia công sản xuất giày là khá mạnh, các doanh nghiệp nước ngoài có thế mạnh về vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệ hiện đại tiên tiến. Các doanh nghiệp đến Việt Nam nhằm thu hút và sử dụng nguồn nhân công rẻ mạt và chế độ chính trị ổn định ở nước ta để phát triển sản xuất tăng lợi nhuận cho mình.
+ Hiện nay các đối tác chính của công ty là các khách hàng truyền thống như: Decathlon, BBC, International… với các thương hiệu nổi tiếng như: Reebok, Levi’, DC, Sketcher, Piston, Quicksilver…
+ Các đối thủ chính trong nước bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như: công ty Pou Yuen Việt Nam, công ty Taekwang, công ty liên doanh Kainan…có thế mạnh hơn hẳn về vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý sản xuất, tiếp thị xuất khẩu, vì vậy những công ty này có tính cạnh tranh hơn hẳn về chất lượng, giá trị, thị trường xuất khẩu cũng rộng lớn hơn. Các đối thủ là doanh nghiệp ngoài quốc doanh như: Hừng Sáng, Bình Tiên, An Lạc. Đối với các công ty này công ty giày Thái Bình có lợi thế cạnh tranh hơn hẳn về quy mô sản xuất và trình độ công nghệ.
+ Tuy hiện nay hầu hết các công ty đều có khách hàng và thị trường riêng cho mình nên việc ảnh hưởng nhau là ít nhưng trong tương lai một khi doanh nghiệp nào có lợi thế, có thế mạnh sẽ có khả năng mở rộng thị trường và tranh giành thị trường với các công ty khác trong ngành. Bên cạnh đó môi trường sản xuất giày xuất khẩu ở một số nước cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất nhập khẩu da giày của Việt Nam nói chung và của công ty Giày Thái Bình nói riêng. Trong đó ngành gia công chế biến da giày ở Trung Quốc, Thái Lan, Malaxia đang rất phát triển. Với lợi thế về nguồn nguyên vật liệu hầu hết có sẵn trong nước và chi phí nhân công cũng rẻ, Trung Quốc sản xuất ra một đôi giày với giá chỉ từ 2-3 USD nhưng cũng đôi giày ấy ở Việt Nam chi phí lên tới 5-6 USD,đây là một lợi thế cạnh tranh vượt trội của Trung Quốc so với ngành da giày Việt Nam. Để cạnh tranh với Trung Quốc không còn cách nào khác ngoài việc Việt Nam phải xây dựng nguồn nguyên vật liệu trong nước có chất lượng tương đương với chất lượng của nguyên vật liệu nhập khẩu hoặc phát triển theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, sản xuất loại giày cao cấp tránh đụng hàng với Trung Quốc nhưng xem ra đây là những điều hết sức khó khăn cần có sự giúp đỡ từ phía chính phủ và các ban ngành mà không thể một sớm một chiều có thể làm được.
2.3 Nhà cung ứng:
- Nhà cung ứng là nhà cung cấp cho doanh nghiệp các nguồn nguyên vật liệu phục vụ cho các hoạt động sản xuất. Đối với ngành sản xuất gia công giày hiện nay của nước ta nói chung và đối với hoạt động sản xuất xuất khẩu công ty giày Thái Bình nói riêng, nguồn nguyên vật liệu chính thường phải nhập khẩu từ nước ngoài. Nguyên nhân chính bởi trong nước không có nguồn sản xuất nguyên vật liệu này hoặc nếu có sản xuất thì chất lượng không đảm bảo hoặc giá thành rất cao so với giá nhập khẩu. Hợp đồng sản xuất chỉ có thể được thực hiện tốt nếu quá trình sản xuất tốt, quá trình sản xuất tốt chỉ khi nào được đảm bảo nguồn nguyên vật liệu đầu vào đầy đủ cả về số lượng, chủng loại, mẫu mã, chất lượng và đúng thời hạn giao nhận. Nguồn cung ứng nguyên vật liệu là rất quan trọng và có tác động lớn tới hiệu quả hoạt động xuất khẩu của công ty. Công ty Thái Bình đã thực hiện các hoạt động hỗ trợ hay giúp các nhà cung ứng trong việc vận chuyển hàng hoá để duy trì các mối quan hệ tốt với các nhà cung ứng và ngày càng thắt chặt hơn mối quan hệ này.
2.4 Yếu tố tỷ giá hối đoái:
- Đặc điểm của ngành sản xuất, gia công giày là nguyên vật liệu thường được nhập khẩu từ nước ngoài và sản phẩm sản xuất cũng được xuất khẩu bán cho đối tác nước ngoài nên tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lớn tới doanh thu, lợi nhuận của công ty. Khi tỷ giá hối đoái tăng công ty có lợi hơn là khi tỷ giá hối đoái giảm. Nguyên nhân là do công ty thực hiện các chi phí trả lương cho công nhân viên bằng tiền nội tệ. Thông thường trong giao dịch hợp đồng thường quy định sử dụng ngoại tệ để thanh toán và đó thường là đô la Mỹ, do vậy nếu không quan tâm tới yếu tố này doanh nghiệp rất dễ bị sai lệch trong tính toán đến chi phí, doanh thu và lợi nhuận như vậy sẽ gây thiệt hại cho công ty một khoản không nhỏ.
2.5 Xu hướng thay đổi nhu cầu tiêu dùng của khách hàng:
- Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều sản xuất gia công giày cho đối tác nước ngoài nên không có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với khách hàng để nắm bắt rõ xu hướng thay đổi của khách hàng trong nhu cầu tiêu dùng sản phẩm giày dép như về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, giá cả...Tuy vậy, xu hướng thay đổi nhu cầu tiêu dùng đó có tác dụng gián tiếp tới hoạt động xuất khẩu thông qua số lượng, chủng loại, giá cả do bên đối tác yêu cầu. Bởi sản lượng, mẫu mã của hàng hoá xuất khẩu do bên đối tác chuyển sang sẽ trực tiếp phục vụ khách hàng khi công ty sản xuất thành sản phẩm hoàn chỉnh. Nếu nó phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của khách hàng thì sẽ mang lại lợi ích cho cả ba bên nhưng nếu ngược lại thì không những đối tác nước ngoài chịu rủi ro mà ngay cả chính các doanh nghiệp trong nước cũng có hy vọng rất mong manh trong các đơn hàng tiếp theo.
2.6 Thương hiệu:
- Ngày nay thương hiệu là một yếu tố rất quan trọng trong việc kinh doanh buôn bán. Một thương hiệu tốt sẽ mang lại lợi thế cho doanh nghiệp trong việc chiếm lĩnh thị trường tạo niềm tin với khách hàng về sản phẩm. Thực tế hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất gia công đều chưa có thương hiệu cho sản phẩm giày dép của mình, mặc dù chất lượng giày dép sản xuất tại Việt Nam đạt những tiêu chuẩn của hàng cao cấp thế giới, bởi dày dép Việt Nam sản xuất xuất khẩu cho các hãng giày nổi tiếng thế giới rất nhiều, ví dụ như công ty Thái Bình hiện đang sản xuất giày cho hãng Reebok, Piston và nhà phân phối lớn tại châu Âu như Decathlon, Stilman...Đây là vấn đề khó khăn đối với các doanh nghiệp trong nước bởi có nguồn vốn hạn hẹp không đủ điều kiện để quảng bá và tiếp thị trực tiếp tới khách hàng nước ngoài.
II. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GIÀY THỂ THAO CỦA CÔNG TY SANG THỊ TRƯỜNG EU GIAI ĐOẠN 2004-2006
1. Đặc điểm thị trường
Sơ lược về thị trường EU:
+ EU là một thị trường rộng lớn bao gồm hầu hết các nước châu Âu với gần 4 triệu km2 và 500 triệu dân có thu nhập cao. EU đứng đầu thế giới về xuất khẩu dịch vụ, lượng đầu tư ra nước ngoài chiếm khoảng 47% FDI toàn cầu.
+ EU là nơi có mức sống cao và có mức tiêu thụ sản phẩm giày dép rất lớn, trung bình mỗi người dân tiêu dùng khoảng 5-6 đôi/năm, như vậy mỗi năm EU tiêu thụ hết khoảng 2 tỉ đôi giày các loại. Trong khi thị trường nội địa chỉ cung ứng được khoảng 40-45% nhu cầu, phần còn lại chủ yếu được nhập khẩu từ các nước ngoài EU, đặc điểm khác biệt lớn nhất giữa sản phẩm nhập khẩu và hàng nhập khẩu chủ yếu là sản phẩm nhập khẩu đều có giá thấp, chất lượng đa dạng từ thấp tới trung bình nhưng lại rất đa dạng về kiểu dáng mẫu mã nên rất được người dân EU ưa chuộng. Theo số liệu của Uỷ ban châu Âu cho thấy kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào EU đạt khoảng 2 tỷ USD vào năm 2005 chiếm 16,4% tổng nhập khẩu giày dép của EU. Tuy vậy Trung Quốc vẫn là nước dẫn đầu, chiếm khoảng 33,4% về lượng và 17,6% về giá trị nhập khẩu. Cũng một phần vì sản phẩm nhập khẩu có sức cạnh tranh về giá cả nên sản phẩm ở một số nước tại EU đã mất dần thị trường, sự kiện Uỷ ban châu Âu Eu kiện Việt Nam và Trung Quốc bán phá giá giày mũ da sang EU là một biện pháp để hộ bảo về thị trường của mình. Trước đây giày dép Việt Nam xuất khẩu sang EU là một trong những sản phẩm được hưởng ưu đãi do EU có một số hiệp định thương mại ưu đãi cho một số nước đang phát triển, nhưng nay giày mũ da Việt Nam đã bị áp thuế bán phá giá 10% khi xuất khẩu vào EU và đối với giày Trung Quốc là 16,5%. Điều này đã làm giảm hợp đồng của đối tác nước ngoài đến với Việt Nam và gây khó khăn trong việc cạnh tranh về giá đối với giày Trung Quốc vốn đã được thế giới biết đến là nước có sản phẩm giày rẻ và đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã. Thực ra thế mạnh lớn nhất của ngành công nghiệp sản xuất giày Trung Quốc là nguồn nguyên liệu hầu như có sẵn trong nước, nếu nhập khẩu chỉ một phần không đáng kể nên giá trị đôi giày sản xuất ra khá rẻ chỉ khoảng 2-3 USD/đôi, trong khi đó cũng cùng một đôi giày tương tự sản xuất ở Việt Nam giá lên đến 5-6 USD/đôi. Hạn chế lớn nhất trong ngành gia công sản xuất lớn nhất ở Việt Nam là hầu hết nguyên liệu đều nhập khẩu, bởi trong nước không có nguồn sản xuất nguyên liệu, nếu có thì chất lượng rất kém không đảm bảo đủ tiêu chuẩn sản xuất. Nếu sản xuất được thì tổng chi phí lại rất lớn, lớn hơn cả nguồn nhập khẩu. Bên cạnh đó các nhà máy sản xuất nguyên phụ liệu tại Việt Nam cũng không có càng làm cho giá giày sản xuất tại Việt Nam tăng cao. Đây là vấn đề khó khăn cho ngành công nghiệp giày nước ta nói chung và cho công ty giày Thái Bình nói riêng nên cần có chiến lược phát triển dài hạn để tránh những khó khăn trên chặng đường phát triển.
2. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU về ngành da giày
+ Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU đã được hình thành từ những năm của thập kỷ 90, khi hai bên ký các hiệp định về hợp tác kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật. Các hiệp định về hàng dệt may và giày dép được mở cửa và bãi bỏ hạn ngạch từ 1/1/1995 đánh dấu sự phát triển thương mại giữa EU và Việt Nam.
+ Buôn bán giữa Việt Nam và EU tăng nhanh trong những năm gần đây, từ 3,6 tỷ USD năm 1999 chiếm 17,3% tổng kim ngạch lên 8,2 tỷ USD năm 2005, trong đó sản phẩm chủ yếu là giày dép, dệt may, cà phê, chè, hạt tiêu... EU cũng là nơi có thị trường máy móc hiện đại tiên tiến, trở thành nguồn cung cấp cho ngành công nghiệp Việt Nam những máy móc trang thiết bị tốt nhất có thể. Đặc biệt là ngành sản xuất giày dép hầu hết được nhập khẩu từ EU, số còn lại chủ yếu nhập từ Đài Loan và Hàn Quốc.
+ Bên cạnh đó EU còn là nhà cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam. Trong đó lớn nhất là Pháp, Đức, Anh, Hà Lan...
3. Các quy định, tiêu chuẩn hoá của thị trường EU về hàng hoá nhập khẩu nói chung
Tiến trình tự do hoá thương mại đã được tăng tốc bởi vòng đàm phán Uruguay, điều này có nghĩa rằng các hàng rào phi thuế quan như quota sẽ được bãi bỏ và các hàng rào thuế quan cũng sẽ bị cắt giảm. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là các nhà xuất khẩu có thể dễ dàng tiếp cận vào thị trường EU. Trên thực tế, việc tiếp cận thị trường EU trở lên khó khăn hơn nhiều do việc tăng nhanh những quy định về khía cạnh an toàn, sức khoẻ, chất lượng và các vấn đề về môi trường, xã hội. Việc bảo vệ môi trường và bảo vệ người tiêu dùng sẽ ngày càng được các nước quan tâm, do vậy để chiếm lĩnh thị trường này các doanh nghiệp cần hiểu biết các quy định của EU về các mặt hàng nhập khẩu để có kế hoạch phù hợp cho sản phẩm của mình.
Hiện tại Châu Âu có 3 cơ quan tiêu chuẩn hoá được công nhận là có khả năng trong lĩnh vực tiêu chuẩn hoá kĩ thuật, bao gồm: Uỷ ban tiêu chuẩn hoá kỹ thuật điện tử Châu Âu (CENELEC), Uỷ ban tiêu chuẩn hoá Châu Âu (CEN) và viện tiêu chuẩn hoá viễn thông Châu Âu (ETSI). Ba cơ quan này đã đưa ra các tiêu chuẩn của EU trong từng lĩnh vực riêng biệt và tạo ra “hệ thống tiêu chuẩn hoá Châu Âu”.
Các quy định và yêu cầu tiêu chuẩn hoá của thị trường EU:
- Tiêu chuẩn về quản lý chất lượng: Tiêu chuẩn này nói về những vấn đề liên quan đến phương thức quản lý của nhà sản xuất. Bao gồm các tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000, tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO) đã xây dựng nhóm tiêu chuẩn ISO 9000 được công nhận rộng rãi, làm nền tảng cho việc tổ chức quản lý chất lượng và đảm bảo chất lượng. Các nhà sản xuất được cấp giấy chứng chỉ ISO 9001 hay ISO 9002 đã thực sự sở hữu một tài sản quan trọng nhằm cải thiện danh tiếng doanh nghiệp, tạo lòng tin với khách hàng và người tiêu dùng, nâng cao uy tín, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm. Bên cạnh đó còn giúp doanh nghiệp nhìn thấy những điểm yếu kém của doanh nghiệp mình để hoàn thiện và nâng cao chất lượng ngày một tốt hơn.
Các tiêu chuẩn về quản lý chất lượng là không bắt buộc đối với các sản phẩm nhập khẩu vào thị trường EU, việc đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng mang tính chất tự nguyện.
- Tiêu chuẩn về môi trường: Tại nhiều quốc gia Châu Âu có nhiều tiêu chuẩn về môi trường được đưa vào thành luật và một số mang tính tình nguyện. Để sản phẩm của mình có sức cạnh tranh các nhà sản xuất không chỉ biết quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà còn cần phải quan tâm đến những quy định về môi trường của sản phẩm bởi ngày nay người tiêu dùng đã thay đổi nhiều trong quan niệm tiêu dùng. Những sản phẩm mang tính bảo vệ môi trường cao sẽ được người dân ưu tiên hơn trong sự lựa chọn hàng hoá tiêu dùng của mình.
+ Chính sách quản lý chất phế thải: Chỉ thị 94/62/EEC của Uỷ ban
Châu Âu về đóng gói và chất thải bao bì đóng gói quy định các mức tối đa của các kim loại nặng trong bao bì và mô tả các yêu cầu đối với sản xuất và thành phần của bao bì. Bao bì phải được sản xuất mà số lượng và chất lượng được giới hạn tối thiểu để duy trì mức an toàn, tái thu hồi tái sử dụng, hạn chế tối đa chất độc hại, vệ sinh cần thiết đối với người tiêu dùng.
+ Nhãn hiệu sinh thái của EU và mỗi quốc gia dựa trên một sự đánh giá đầy đủ vòng đời của sản phẩm bao gồm cả vấn đề chất lượng và các khía cạnh xã hội, từ đó đem lại cho khách hàng sự lựa chọn khi mua sản phẩm được thiết kế, sản xuất đóng gói bao bì có thể vứt bỏ khi kết thúc vòng đời sản phẩm mà không làm ảnh hưởng đến môi trường. Từ đó khuyến khích các nhà sản xuất chế biến phải duy trì việc sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên. Hiện nay giày da là mặt hàng nằm trong 14 nhóm sản phẩm trong phạm vi chương trình gắn nhãn hiệu sinh thái của EU.
- Trách nhiệm xã hội:
Bên cạnh các tiêu chí quan trọng về chất lượng, về môi trường thì tiêu chí trách nhiệm xã hội cũng là một tiêu chí quan trọng mà các doanh nghiệp cần quan tâm khi xuất khẩu sản phẩm của mình sang thị trường EU. Tiêu chuẩn SA8000 là tiêu chuẩn quốc tế về trách nhiệm xã hội với mục tiêu đảm bảo tính trong sạch về đạo đức của nguồn cung cấp sản phẩm và dịch vụ. SA8000 quy định tiêu chuẩn cơ bản về lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, sức khoẻ và an toàn, quyền tự do thành lập các hiệp hội về đàm phán tập thể, phân biệt đối xử, các hình thức kỷ luật, giờ làm việc và chế độ công xá. Bản thân các yêu cầu trong tiêu chuẩn này dựa trên khuyến cáo của tổ chức lao động quốc tế ILO các thoả thuận và hiệp định của liên hợp quốc (nhân quyền và quyền trẻ em).
Đây là một tiêu chuẩn có tính chất tự nguyện và có thể áp dụng cho bất cứ doanh nghiệp hay tổ chức nào mà không kể quy mô hay ngành nghề.
- Thuế nhập khẩu và hạn ngạch: Hầu hết các quốc gia thành viên EU đều áp dụng hệ thống thuế Hải quan thông thường khi hàng nhập khẩu hàng từ bên ngoài EU. Trong các hiệp định thương mại có một số quy định ưu đãi được áp dụng cho nhiều quốc gia đang phát triển như hệ thống GSP – Generralized System of Preferences áp dụng từ 1/1/1995. Hiệp định này cho phép các sản phẩm từ ccs quốc gia có liên quan có thể nhập khẩu theo biểu suất thuế ưu đãi hoặc sản phẩm từ các quốc gia kém phát triển được miễn thuế nhập khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm tới các hiệp định này để tranh thủ các điều kiện có lợi cho sản phẩm của mình, làm tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp mình trên thị trường EU.
Tất cả các doanh nghiệp muốn làm ăn ở Châu Âu đều phải tuân theo các quy tắc, hướng dẫn và chịu sự giám sát của Uỷ ban Châu Âu (EC), nhưng các doanh nghiệp cần biết rằng thị trường EU không phải là một thị trường đồng nhất. Các quy tắc luật lệ, các quy định về sản phẩm nhập khẩu là khác nhau, do vậy nếu doanh nghiệp không chú ý đến những điểm khác nhau đó để kịp điều chỉnh sản phẩm của mình cho phù hợp thì khả năng gặp thất bại sẽ rất cao.
III. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GIÀY THỂ THAO CỦA CÔNG TY SANG THỊ TRƯỜNG EU GIAI ĐOẠN 2004-2006
1. Sản lượng xuất khẩu
- Thị trường EU là thị trường truyền thống và là thị trường lớn nhất của công ty trong suốt thời gian qua, với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm lớn chiếm trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn công ty. Trong đó sản phẩm giày thể thao ngày càng chiếm tỷ lệ lớn. Từ năm 2004 những đơn hàng xuất khẩu giày sang thị trường EU của công ty giày Thái Bình đã hoàn toàn là các đơn hàng giày thể thao. Trong những năm gần đây giày nữ và giày vải đã không còn thịnh hành tại thị trường EU mà thay vào đó là các loại sản phẩm giày thể thao với kiểu dáng, mẫu mã hợp thời trang. Người dân châu Âu ngày nay có xu hướng tiêu dùng những loại giày có giá cả trung bình nhưng phải hợp thời trang, đem lại cảm giác thoải mái trong khi sử dụng. Những sản phẩm đắt tiền ít được dùng, họ chỉ dùng trong các buổi họp cần thể hiện sự sang trọng và lịch thiệp. Trong khi nguồn cung trong thị trường các nước thuộc EU chủ yếu cung cấp các sản phẩm sang trọng, có giá thành cao. Do vậy trong những năm gần đây thị trường EU đã nhập khẩu rất nhiều giày dép từ nước ngoài chiếm tới trên 50% tổng sản lượng tiêu thụ tại EU.
Cùng góp phần vào tổng sản lượng giày xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU, công ty giày Thái Bình cũng đã xuất những mặt hàng giày thể thao của mình sang thị trường này.
Bảng sản lượng xuất khẩu giày thể thao của công ty giai đoạn 2004-2006
Năm
2004
2005
2006
Tổng sản lượng xuất khẩu toàn công ty (1)
5.584.962
5.872.786
9.377.634
Tổng sản lượng xuất khẩu giày thể thao sang thị trường EU (đôi)
4.197.142
4.167.853
6.999.212
Tỷ lệ tăng sản lượng xuất khẩu giày thể thao
-0,70%
67,93%
Tỉ lệ (2):(1)
75,15%
70,97%
74,64%
Nhìn vào bảng trên ta thấy lượng mặt hàng giày thể thao xuất khẩu sang thị trường EU của doanh nghiệp là rất lớn, luôn chiếm trên 70% sản lượng xuất khẩu toàn công ty. Năm 2004 lượng giày thể thao công ty xuất khẩu sang thị trường EU đạt 4.197.142 đôi chiếm 75,15% so với tổng lượng giày dép xuất khẩu của toàn công ty. Năm 2004 là năm mà các doanh nghiệp Việt Nam đồng loạt tập trung sản xuất giày thể thao xuất khẩu sang thị trường EU bởi năm 2004 nhu cầu về lượng giày thể thao tăng vọt dẫn đến các hợp đồng luôn luôn đặt hàng giày thể thao từ các hãng phân phối, các hãng giày thuê sản xuất gia công giày từ Nước ta. Không nằm ngoài xu hướng chung này, công ty giày Thái Bình cũng đã tập trung gia công sản xuất giày thể thao, thay vì trước đó tập trung gia công sản xuất giày vải và giày nữ. Nhưng sang năm 2005 mặc dù tổng sản lượng giày xuất khẩu của công ty vẫn tăng tuy tăng không nhiều nhưng tổng sản lượng giày thể thao xuất khẩu sang EU lại tụt giảm chỉ còn 4.167.853 đôi tức giảm 29.289 đôi so với năm 2004, chiếm 70,97% so với tổng lượng giày xuất khẩu toàn công ty năm 2005. Như vậy năm 2005 sản lượng giày thể thao xuất khẩu vào thị trường EU có gia tốc tăng âm 0,7%. Từ năm 2004 công ty đã bắt đầu tập trung sản xuất gia công giày thể thao, nên đến năm 2005 sản lượng giày thể thao sản xuất ra chiếm 98,5% trong tổng lượng giày sản xuất trong đó có giày vải và giày nữ. Sản lượng giày thể thao xuất sang thị trường EU của công ty bị chững lại năm 2005 có thể là do năm 2004 các doanh nghiệp khắp các nơi ồ ạt xuất khẩu giày thể thao vào EU nên lượng hàng nhập vào EU vẫn chưa tiêu thụ hết. Sang năm 2006 sản lượng giày thể thao của công ty xuất sang thị trường EU tăng lên 6.999.212 đôi tức tăng 831.359 đôi tương ứng tăng 67,93% so với năm 2005, chiếm 74,64% so với tổng sản lượng xuất khẩu.
Như vậy mặc dù trong những năm gần đây sản lượng xuất khẩu của công ty sang thị trường EU tăng giảm không ổn định nhưng điều này vẫn không thể phủ nhận rằng thị trường EU là một thị trường lớn nhất của công ty, do vậy công ty cần có biện pháp duy trì và phát triển thị trường quan trọng này. Bên cạnh đó thị trường này trong tương lai vẫn là một thị trường đầy tiềm năng và nhiều hứa hẹn.
2. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU đối với giày thể thao.
Kim ngạch xuất khẩu công ty năm 2004-2006
Năm
2004
2005
2006
Tổng kim ngạch xuất khẩu (1000đ)
494.569.362
566.190.982
984.639.245
Tổng kim ngạch xuất khẩu giày thể thaosang EU (1000đ)
402.925.659
453.462.357
809.668.851
Tổng kim ngạch xuất khẩu giày thể thao sang EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu
81,47%
80,09%
82,23%
Qua bảng kim ngạch xuất khẩu và biểu đồ trên cho ta thấy rõ hơn về kết qủa của hoạt động xuất khẩu giày thể thao sang thị trường EU mang lại cho công ty quan trọng như thế nào. Năm 2004 kim ngạch xuất khẩu giày thể thao sang thị trường EU đạt 402.925.659 nghìn đồng đạt 81,47% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn công ty. Ta thấy đây là một con số không nhỏ, nó đem lại khoản lợi nhuận rất lớn từ phần doanh thu trên cho công ty. Với một thị trường chỉ chiếm 75,15% về sản lượng xuất khẩu nhưng lại chiếm tới 81,47% về kim ngạch xuất khẩu như EU đã giúp duy trì hoạt động sản xuất của công ty được ổn định và phát triển. Từ đó tạo công ăn việc làm, thu nhập ổn định cho hàng nghìn người lao động. Có được kết quả này cũng một phần do sự lãnh đạo sáng suố
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11163.DOC