A. TỔNG QUAN NGÀNH.5
I. KHÁI NIỆM, PHÂN NGÀNH . Error! Bookmark not defined.
1. Khái niệm. Error! Bookmark not defined.
2. Phân ngành. Error! Bookmark not defined.
3. Mục đích phân tích ngành. Error! Bookmark not defined.
II. QUY MÔ NGÀNH DỆT MAY – DA GIÀY THẾ GIỚI .5
1. Quy mô ngành.5
Hiện tại, EU là thị trường tiêu dùng dệt may lớn nhất thế giới, tuy vậy, đến năm 2025, vị trí
này dự báo được thay thế bởi Trung Quốc.5
Sản xuất giày dép của Việt Nam đứng thứ 3 thế giới.5
2. Thương mại dệt may – da giày toàn cầu.6
Việt Nam nằm trong top 5 các nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới.6
Việt Nam là nước xuất khẩu giày dép lớn thứ 2 thế giới.6
III. QUY MÔ VÀ ĐẶC ĐIỂM NGÀNH DỆT MAY – DA GIÀY VIỆT NAM .7
1. Quy mô và đặc điểm doanh nghiệp ngành .7
2. Giá trị ngành .9
IV. CHUỖI GIÁ TRỊ .10
1. DỆT MAY .12
BÔNG.12
DỆT .13
MAY.16
PHÂN PHỐI.18
TIẾP THỊ, BÁN HÀNG .18
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CHUỐI GIÁ TRỊ.18
2. DA GIÀY.20
NGUYÊN LIỆU .20
SẢN XUẤT .20
V. PHÂN TÍCH SWOT.21
VI. DIỄN BIẾN NGÀNH.22
1. Tiêu thụ .22
1.1. Xuất khẩu.22
1.2. Tiêu thụ nội địa.254
2. Sản xuất.25
3. Kết quả kinh doanh của một số doanh nghiệp niêm yết .29
Doanh thu thuần năm 2015 của nhiều doanh nghiệp may gia công giảm sút .29
Thêm nhiều hơn số lượng doanh nghiệp có lợi nhuận giảm .30
VII. TRIỂN VỌNG NGÀNH.31
Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam tốt hơn trong năm 2016 hỗ trợ nhu cầu tiêu dùng
tăng lên, trong đó có dệt may, da giày:.32
Các hiệp định thương mại tự do (FTA) giúp đơn hàng sản xuất và vốn đầu tư chảy mạnh
vào ngành Dệt may – Da giày Việt Nam:.32
Ngành công nghiệp phụ trợ dệt may – da giày có khả năng phát triển mạnh mẽ trong thời
gian tới nhờ chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ mới đây của Chính phủ:.33
Một số chi phí đầu vào tiếp tục giữ ở mức thấp: .33
B. CẤP TÍN DỤNG ĐỐI VỚI NGÀNH TẠI LPB .34
I. TÌNH HÌNH CHO VAY NGÀNH DỆT MAY – DA GIÀY TẠI LPB ĐẾN NGÀY
31/12/2015 .34
1. Dư nợ và nợ xấu theo nhóm nợ. Error! Bookmark not defined.
2. Dư nợ và nợ xấu theo kỳ hạn . Error! Bookmark not defined.
3. Dư nợ và nợ xấu theo đối tượng khách hàng. Error! Bookmark not defined.
4. Dư nợ và nợ xấu theo mục đích sử dụng vốn . Error! Bookmark not defined.
5. Dư nợ và nợ xấu theo Chi nhánh . Error! Bookmark not defined.
II. TÌNH HÌNH CẤP TÍN DỤNG NGÀNH DỆT MAY – DA GIÀY TRONG HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM.34
Nhóm Ngân hàng nước ngoài đang chiếm thị phần tín dụng cao đối với nhóm khách hàng
Dệt may – Da giày đầu ngành .35
Đối với nhóm ngân hàng trong nước, thị phần cấp tín dụng nhóm khách hàng đầu ngành dệt
may - da giày thuộc về 4 ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước .35
Tín dụng ngành Dệt may- Da giày của LienVietPostBank còn rất khiêm tốn nếu so với nhu
cầu vốn sản xuất kinh doanh năm 2015 của ngành .36
III. ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT CỦA KHỐI NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC VÀ QUAN
HỆ KINH DOANH QUỐC TẾ.37
1. Đánh giá về rủi ro của ngân hàng khi đầu tư/cấp tín dụng đối với ngành .37
2. Đề xuất .37
37 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 491 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Ngành dệt may – da giày, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y, chất lượng cây bông kém nên không
cạnh trạnh được với các nước xuất khẩu lớn
như Mỹ, Ấn Độ, Brazil bất chấp các chính
sách phát triển của Chính phủ (như không thu
tiền hạt giống đối với người trồng bông). Do
đó, không bất ngờ khi Việt Nam trở thành
nước nhập khẩu bông lớn thứ 3 thế giới, chỉ
sau Băng la đét và Trung Quốc. Và trong
tương lai, việc phụ thuộc hoàn toàn vào
nguồn bông nhập khẩu là có thể.
DỆT
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
1800
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Nghìn tấn
Sản lượng sợi Tăng trưởng sản lượng sợi
Biểu đồ 6: Sản lượng sợi qua các năm
(Nguồn: GSO)
Sản xuất sợi nội địa tăng trưởng 2 chữ số
trong giai đoạn 2005-2014: Năm 2014, sản
lượng sợi đạt 1,5 triệu tấn, tăng 16,8% so với
năm 2013, tăng 90,5% so với năm 2010, tăng
495,4% so với năm 2005. Trong giai đoạn
2005-2014, sản lượng sợi ghi nhận mức tăng
bình quân 22,9%/năm. Quy mô sản xuất sợi
tăng nhanh do nhiều dự án trong nước và đầu
tư FDI đi vào vận hành nhằm đón đầu những
lợi ích mà các hiệp định thương mại tự do
14
-10%
-5%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
0
500
1.000
1.500
2.000
2.500
3.000
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Triệu USD
Kim ngạch nhập khẩu xơ sợi Kim ngạch xuất khẩu xơ sợi
Tăng trưởng nhập khẩu xơ sợi Tăng trưởng xuất khẩu xơ sợi
Biểu đồ 7: Kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu sợi
qua các năm
(Nguồn: GSO)
Việt Nam đã và đang ký kết mang lại. Đặc
biệt là để đáp ứng quy tắc xuất xứ “từ sợi trở
đi” của hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái
Bình Dương (TPP) vốn được kỳ vọng sẽ giúp
ngành dệt may tăng hơn 20 tỷ USD đến năm
2020. Trong đó, có thể kể đến những doanh
nghiệp lớn như Tập đoàn Texhong với quy
mô khoảng 450.000 tấn sợi/năm tại KCN Hải
Yên, Quảng Ninh; Sợi Thế Kỷ xây thêm nhà
máy với công suất 30.000 tấn sợi/năm tại
KCN Trảng Bàng 3, Tây Ninh.
Ngoài ra, trong bối cảnh giá bông cao tại thị
trường Trung Quốc do chính sách thu mua
bông nội địa giá cao và cấp hạn ngạch bông
nhập khẩu, nhiều doanh nghiệp lớn của nước
này đã chuyển nhà máy sản xuất sợi sang Việt
Nam để tận dụng nguồn bông nhập khẩu giá
rẻ, sau đó xuất ngược trở lại Trung Quốc – là
nguyên nhân thứ 2 khiến sản lượng sợi tăng
mạnh.
Lệch pha về cung và cầu của lĩnh vực sợi là
sự đứt gãy tiếp theo trong chuỗi giá trị dệt
may: Cụ thể, năm 2014, Việt Nam sản xuất
được 1,5 triệu tấn sợi, nhưng lại xuất đi 858,3
nghìn tấn, tức gần 60% sản lượng sợi sản xuất
được. Trong khi đó, nước ta lại nhập khẩu về
739,9 nghìn tấn, tức 86,2% lượng xuất đi. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này,
gồm: chất lượng sợi không phù hợp, quy mô
khâu dệt nhuộm hoàn tất chưa phát triển
tương xứng và đặc tính may gia công xuất
khẩu của Việt Nam. Theo đó, sản phẩm sợi
của nước ta chưa đa dạng về chủng loại (chủ
yếu là sợi cotton, sợi polyester), chất lượng
các sản phẩm sợi tập trung ở phân khúc cấp
thấp, trung bình nên không đáp ứng được nhu
cầu dệt nhuộm vốn đòi hỏi nhiều loại sợi khác
nhau (sợi len, sợi spandex, sợi nylon). Thứ
hai, năng lực của khâu dệt nhuộm chậm phát
triển hơn so với khâu sợi khiến đầu ra của sợi
bị tắc nghẽn, buộc các doanh nghiệp sợi phải
tìm đường xuất khẩu. Thứ ba, khâu may của
Việt Nam có đến 80% là gia công nên việc
chọn nguyên liệu phải theo sự chỉ định của
khách hàng. Các doanh nghiệp không thể chủ
15
-10%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Triệu m2
Sản lượng vải Tăng trưởng sản lượng vải
Biểu đồ 8: Sản lượng vải trong nước qua các năm
(Nguồn: GSO)
-10%
-5%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
40%
0
1.000
2.000
3.000
4.000
5.000
6.000
7.000
8.000
9.000
10.000
2005200620072008200920102011201220132014
Triệu USD
Nhập khẩu vải các loại
Tăng trưởng nhập khẩu vải
Biểu đồ 9: Kim ngạch nhập khẩu vải qua các năm
(Nguồn: GSO)
động đặt nguồn nguyên liệu vải trong nước
tác động không tốt đến nhu cầu của khâu dệt
nhuộm và sợi trong nước.
Khâu Dệt, nhuộm và hoàn tất chậm phát
triển đã tạo thành nút thắt cổ chai trong
chuỗi giá trị dệt may: Năm 2014, năng lực
sản xuất vải của nước ta đạt 1,3 tỷ m2, tăng
6,8% so với năm 2013, tăng 12,5% so với
năm 2010, tăng 136% so với năm 2005.
Trong giai đoạn 2005-2014, sản lượng vải chỉ
tăng bình quân 11,1%/năm. Các mức tăng
trưởng trên đều thấp hơn các mức tăng trưởng
sản lượng sợi trong cùng thời kỳ so sánh. Đặc
biệt, do năng lực nhuộm và hoàn tất của Việt
Nam chỉ đạt khoảng 0,8 tỷ m2 vải/năm nên
40% vải thô làm ra được xuất khẩu sang các
nước có hệ thống nhuộm, hoàn tất tốt như
Hàn Quốc, Trung Quốc, sau đó xuất ngược
trở lại Việt Nam. Khâu dệt, nhuộm, hoàn tất
có những lợi thế là nguồn cung sợi đầu vào
dồi dào, nhu cầu vải đầu ra cao nhưng lại
chưa phát triển tương xứng với tiềm năng.
Đầu tư vào khâu này đòi hỏi những yêu cầu
rất lớn về vốn, công nghệ, nhân lực và những
yêu cầu khắt khe về môi trường nhưng khả
năng thu hồi vốn lại chậm. Do đó, chỉ những
doanh nghiệp nước ngoài mới đủ khả năng
đầu tư. Hơn nữa, nhiều địa phương cũng đưa
ra các chính sách hạn chế dự án dệt nhuộm do
lo ngại ô nhiễm môi trường khiến quy mô
ngành chậm mở rộng.
Sự mất cân đối tiếp tục diễn ra ở nguồn
cung vải khi Việt Nam phụ thuộc phần lớn
vào nguồn nhập khẩu: Hiện nay, ngành dệt
may Việt Nam cần sử dụng khoảng 8 tỷ m2
vải để sản xuất, trong đó, nguồn vải trong
nước chỉ đáp ứng được 16,4%, còn lại là nhập
khẩu. Trái với tốc độ tăng trưởng thấp của sản
xuất vải trong nước, giá trị vải ngoại nhập lại
tăng mạnh trong giai đoạn 2005-2014. Cụ thể,
năm 2014, kim ngạch nhập khẩu vải đạt 9,4 tỷ
USD, tăng 16,9% so với năm 2013, tăng 75%
so với năm 2010, tăng 281% so với năm
2005. Trong giai đoạn 2005-2014, giá trị nhập
khẩu bình quân tăng 16,6%/năm. Về cơ cấu
16
thị trường nhập khẩu vải, năm 2014, nhập từ
Trung Quốc chiếm 49,5%, Hàn Quốc 19,6%,
Đài Loan 14,8%, Nhật Bản 5,9%, Hồng
Kông 2,7%.
MAY
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
40%
0
1.000
2.000
3.000
4.000
5.000
6.000
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Triệu USD
Kim ngạch nhập khẩu NPL
Tăng trưởng nhập khẩu NPL
Biểu đồ 10: Kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu
dệt may – da giày qua các năm
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Lĩnh vực công nghiệp phụ trợ phát triển
không tương xứng khiến Việt Nam phải
nhập khẩu lượng lớn nguyên phụ liệu cho
khâu may: Ngoài vải, Việt Nam cũng phải
nhập khẩu thêm các vật liệu dựng khác như
cúc, khuy, khóa kéo, chỉ may để hoàn
chỉnh sản phẩm. Năm 2015, giá trị nhập khẩu
nguyên phụ liệu dệt may – da giày đạt 5 tỷ
USD, tăng 90,9% so với năm 2010, chiếm
21,9% kim ngạch xuất khẩu. Trong giai đoạn
2010-2015, kim ngạch nhập khẩu tăng bình
quân 17,6%, cao hơn tốc độ tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may (16,8%). Việc
đầu tư chưa đúng mức vào sản xuất nội địa
nguyên phụ liệu ngành may cũng như tính
chất gia công của khâu may (mua nguyên phụ
liệu theo sự chỉ định của khách hàng) là
nguyên nhân chính khiến ngành dệt may phụ
thuộc lớn vào nguồn cung nguyên liệu nhập
khẩu.
Ở mắt xích may, Việt Nam mới ở mức độ
sản xuất cấp thấp:
CMT (Cut – Make – Trim) (Gia công): Đây
là hình thức sản xuất đơn giản nhất khi các tổ
chức mua hàng cung cấp cho doanh nghiệp
gia công toàn bộ đầu vào để sản xuất sản
phẩm bao gồm mẫu thiết kế, nguyên liệu, vận
chuyển, các nhà sản xuất chỉ thực hiện việc
cắt, may và hoàn thiện sản phẩm. Hình thức
sản xuất này có tỷ suất lợi nhuận rất thấp,
khoảng 4% và thường được các nước phát
triển chuyển giao sang thực hiện ở các nước
đang phát triển để tận dụng nguồn lao động
nhân công dồi dào và giá rẻ. Tại Việt Nam,
80% lượng doanh nghiệp sản xuất theo hình
thức này.
FOB (Free on Board) (mua nguyên liệu –
bán thành phẩm): Đây là một phương thức
sản xuất ở bậc cao hơn so với CMT và có tỷ
17
suất sinh lời khoảng hơn 7%. Khác với CMT,
các nhà xuất khẩu theo FOB sẽ chủ động mua
nguyên liệu đầu vào cần thiết thay vì được
cung cấp từ các người mua của họ. Tại Việt
Nam, khoảng 18% lượng doanh nghiệp sản
xuất theo phương thức này. Có thể kể đến
những cái tên như: CTCP dệt may đầu tư
thương mại Thành Công (TCM), CTCP đầu
tư và thương mại TNG, CTCP Everpia Việt
Nam. Có 3 phương thức sản xuất FOB như
sau:
FOB cấp I: Các doanh nghiệp thực hiện theo
phương thức này sẽ thu mua nguyên liệu đầu
vào từ các nhà cung cấp do khách mua chỉ
định. Phương thức xuất khẩu này đòi hỏi các
doanh nghiệp dệt may phải chịu thêm trách
nhiệm về tài chính để thu mua và vận chuyển
nguyên liệu.
FOB cấp II: Các doanh nghiệp thực hiện theo
phương thức này sẽ nhận mẫu thiết kế sản
phẩm từ các khách mua nước ngoài và chịu
trách nhiệm tìm nguồn nguyên liệu, sản xuất
và vận chuyển nguyên liệu và thành phẩm tới
cảng của khách mua. Điểm cốt yếu là các
doanh nghiệp phải tìm được các nhà cung cấp
nguyên liệu có khả năng cung cấp các nguyên
liệu đặc biệt và phải tin cậy về chất lượng,
thời hạn giao hàng.
FOB cấp III: Các doanh nghiệp thực hiện
theo phương thức này sẽ tự thực hiện sản xuất
hàng may mặc theo thiết kế riêng của mình và
không phải chịu ràng buộc bởi bất kỳ cam kết
trước nào với các khách mua nước ngoài. Để
có thể thực hiện thành công hoạt động sản
xuất theo phương thức này, các doanh nghiệp
cần phải có khả năng thiết kế, marketing và
hậu cần.
ODM (Original Design Manufacturing)
(Thiết kế dựa trên ý tưởng sẵn có, sản
xuất): Đây là phương thức sản xuất xuất khẩu
bao gồm khâu thiết kế và cả quá trình sản
xuất từ thu mua vải và nguyên phụ liệu, cắt,
may, hoàn tất, đóng gói và vận chuyển. Các
doanh nghiệp ODM tạo ra những mẫu thiết
kế, hoàn thiện sản phẩm và bán lại cho người
mua, thường là chủ của các thương hiệu lớn
trên thế giới.
OBM (Original Brand Manufacturing) (Tự
thiết kế, sản xuất, phân phối): Các hãng sản
xuất tự thiết kế và ký các hợp đồng cung cấp
hàng hóa trong và ngoài nước cho thương
hiệu riêng của mình. Các nhà sản xuất theo
phương thức OBM chủ yếu phân phối sản
phẩm tại thị trường nội địa và thị trường các
quốc gia lân cận. Khoảng 2% lượng doanh
nghiệp Việt Nam sản xuất theo ODM và
OBM, điển hình là: Việt Tiến, Phong Phú,
May 10. Tỷ suất sinh lời của 2 phương thức
này có thể đạt 30-40%.
Hiện nay, ngành dệt may gặp khó khăn khi
dịch chuyển lên các phương thức sản xuất cao
hơn do không có khả năng tìm được nguồn
vải đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và
thời gian giao hàng và không đủ khả năng về
tài chính để đề phòng giải quyết cho các
trường hợp phát sinh rủi ro khi thực hiện hợp
đồng nhằm đáp ứng việc giao hàng đúng thời
hạn. Đặc biệt, ngành may mặc Việt Nam đang
rất yếu ở mảng thiết kế sản phẩm vì thiếu các
nhà thiết kế giỏi, khó tiếp cận và thiếu thông
tin về nhu cầu khách hàng, xa thị trường tiêu
dùng cuối cùng.
18
PHÂN PHỐI
86%
14%
Doanh thu xuất
khẩu
Doanh thu nội
địa
Biểu đồ 11: Cơ cấu doanh thu tiêu thụ dệt may
(Nguồn: LPB Research tổng hợp)
Doanh nghiệp dệt may Việt Nam chú trọng
nhiều hơn vào hoạt động xuất khẩu: Về sản
xuất, năm 2014, sản lượng quần áo mặc
thường đạt 3,7 tỷ chiếc, trong đó, 70% dành
cho xuất khẩu, 30% cho tiêu dùng nội địa. Về
doanh thu, năm 2014, doanh thu xuất khẩu
hàng dệt may đạt 20,9 tỷ USD, doanh thu nội
địa đạt 70.000 tỷ đồng (3,3 tỷ USD), tương
ứng với cơ cấu tỷ trọng 86% doanh thu đến từ
xuất khẩu, 14% từ nội địa. Trong giai đoạn
2010-2015, giá trị xuất khẩu ghi nhận tốc độ
tăng trưởng bình quân 18,3%, trong khi tăng
trưởng tiêu dùng dệt may nội địa là 10-15%.
TIẾP THỊ, BÁN HÀNG
Đây là mắt xích yếu nhất trong chuỗi giá
trị dệt may, hạn chế sự xâm nhập của hàng
dệt may Việt Nam ra bên ngoài thế giới:
Do khoảng cách địa lý xa thị trường tiêu dùng
cuối cùng, do phương thức xuất khẩu gia
công làm triệt tiêu động lực tìm kiếm, khảo
sát nhu cầu thị trường nên các doanh nghiệp
dệt may nước ta đang phụ thuộc rất lớn vào
khâu trung gian để đưa sản phẩm tới người
tiêu dùng. Họ phải thông qua các nhà bán
buôn khu vực, văn phòng đại diện của hãng
thời trang lớn thế giới để có các hợp đồng gia
công, rất ít doanh nghiệp dệt may có được các
hợp đồng trực tiếp từ các nhà bán lẻ để cung
cấp sản phẩm của mình. Việc không nắm bắt
sự thay đổi nhu cầu của người mua cũng như
xu hướng thời trang mới trên thế giới khiến
mắt xích may dậm chân rất lâu ở phương thức
sản xuất gia công.
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CHUỐI GIÁ TRỊ
Ngành dệt may Việt Nam đang phát triển
những mắt xích có giá trị gia tăng thấp
nhất trong chuỗi giá trị: 3 mắt xích đó gồm
Dệt, May, Phân phối. Hiện nay, các doanh
nghiệp đang làm tốt nhất ở khâu may gia
công do khâu này không đòi hỏi đầu tư cao về
Các DN dệt
may Việt
Nam
Các nhà sản
xuất khu vực
Các nhà
buôn
Người mua
toàn cầu
Người tiêu
dùng
Văn phòng
đại diện
T
h
iếu
liên
k
ết
19
Biểu đồ 121: Giá trị gia tăng dệt may
(Nguồn: LPB Research tổng hợp)
Bảng 8: Cân đối thặng dư thương mại (Nguồn:
Hiệp hội Dệt may Việt Nam)
Tiêu chí 10T2015
Năm
2014
Tổng xuất khẩu (XK) 22208 24692
XK dệt may 18953 20949
Trong đó: XK vải 830 800
XK Xơ sợi 2119 2543
XK vải không dệt 377 456
XK NPL dệt may 759 744
Tổng nhập khẩu (NK) 13790 15461
Bông 1419 1443
Xơ sợi các loại 1264 1559
Vải 8395 9428
NPL dệt may 2712 3031
NK cho XK 10971 12239
Cân đối Xuất khẩu -
NK cho XK 11237 12453
Tỷ lệ GTGT 50,6% 50,4%
công nghệ và tận dụng được nguồn lao động
giá rẻ. Tỷ suất sinh lời của khâu này cũng ở
mức thấp, khoảng 4% (tỷ suất sinh lời năm
2015 của các CTCP SX&TM may Sài Gòn là
3,7%, ĐT&TM TNG là 3,9%, may Phú Thịnh
Nhà Bè là 5,5%). Ở khâu dệt, các sản phẩm
chủ yếu vẫn là sợi, chăn, ga, gối, đệm. Tỷ
suất sinh lời của khâu này cao hơn khâu may,
khoảng hơn 7% (tỷ suất sinh lời năm 2015
của CTCP Sợi Thế Kỷ là 6,9%, Everpia Việt
Nam là 13%). Ở khâu phân phối, không có số
liệu cụ thể về tỷ suất sinh lời. Tuy nhiên, tại
thị trường trong nước, bước đầu, các doanh
nghiệp đã đặt nền móng bằng việc phát triển
thương hiệu Made in Vietnam cũng như chuỗi
cửa hàng Vinatex. Tại thị trường xuất khẩu,
hàng dệt may Việt Nam cũng dần được biết
đến như cứ điểm sản xuất cho hàng dệt may
toàn cầu.
Trong chuỗi giá trị dệt may xuất khẩu,
Việt Nam thu về 50,6% giá trị: Cụ thể,
trong 10 tháng 2015, giá trị thặng dư từ xuất
khẩu (sau khi trừ đi giá trị nhập khẩu cho xuất
khẩu) đạt 11,2 tỷ USD, bằng 50,6% giá trị
xuất khẩu, tăng nhẹ so với mức 50,4% của
năm 2014. Như vậy, nếu coi giá trị của 1 sản
phẩm xuất khẩu là 100%, Việt Nam chỉ thu
về 50,6% giá trị. Đó là tiền công sản xuất của
tất cả doanh nghiệp dệt may tham gia và giá
trị phần nguyên liệu nội địa trong quá trình
hoàn chỉnh sản phẩm và đưa đến tay người
tiêu dùng. Gần 50% giá trị còn lại thuộc về
giá trị nguyên phụ liệu nhập khẩu và khâu
Tiếp thị, hậu mãi trong khi phần lớn công
đoạn tạo ra sản phẩm là do doanh nghiệp Việt
Nam đảm nhận. Điều này đặt ra cơ hội cũng
như thách thức cho ngành Dệt may Việt nam
là phải chuyển sang các khâu nguyên phụ liệu
và tiếp thị, hậu mãi để đạt được giá trị gia
tăng lớn nhất.
Nguyên
liệu thô
Dệt May Phân
phối
Tiếp thị,
hậu mãi
Giá trị gia tăng
20
2. DA GIÀY
NGUYÊN LIỆU
Cũng giống như Dệt may, ngành Da giày
phụ thuộc hơn 50% vào nguyên liệu nhập
khẩu: Theo Hiệp hội Da – Giày – Túi xách
Việt Nam (Lefaso Vietnam), sản xuất da
thuộc trong nước (sản xuất mũ giày, lót giày,
túi cặp) trong năm 2014 đạt 210 triệu m2, đáp
ứng được 24,4% nhu cầu về da thuộc. Sản
xuất giả da trong nước cũng đáp ứng được
4,2% nhu cầu; sản xuất vải dệt (sản xuất mũ
giày, túi cặp, ba lô) đáp ứng 17,5%; vải không
dệt (làm lót, đệm mũ giày, túi) đáp ứng được
12,5%; carton (sản xuất đế trong) đáp ứng
16,7%; sản xuất đế giày các loại có tỷ lệ đáp
ứng cao nhất - 58,7% nhu cầu. Riêng nhập
khẩu da thuộc trong năm 2014 đạt 1,1 tỷ
USD, tăng 37,7% so với năm 2013. Chưa kể
nhập khẩu nguyên phụ liệu khác được gộp với
ngành dệt may là 5 tỷ USD trong năm 2014.
Hiện nay, chưa đến 20 doanh nghiệp 100%
vốn Việt Nam đủ sức làm hàng FOB, khoảng
70% doanh nghiệp sản xuất da giày, túi xách
của Việt Nam theo phương thức gia công.
Nhà sản xuất không được chủ động tìm kiếm
và đặt nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất mà
phải theo chỉ định của khách hàng, thường là
đối tác nước ngoài. Do đó, không tạo động
lực cho lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu
phát triển.
SẢN XUẤT
Sản lượng giày ghi nhận các mức tăng
trưởng cao những năm gần đây: Năm 2014,
Việt Nam sản xuất được 861,9 triệu đôi giày,
trong đó có 251,2 triệu đôi giày da; 55,4 triệu
đôi giày vải; 555,3 triệu đôi giày thể thao,
tương ứng với tỷ trọng là 29,1%; 6,4% và
64,4%. Đối với giày dép da, sản lượng giày
tăng trưởng 10,3% năm 2014; 2,6% năm 2013
và 10,8% năm 2012. Đối với giày thể thao,
sản lượng giày tăng trưởng 15,5% năm 2014;
19,9% năm 2013 và 5,5% năm 2012. Đối với
giày vải, tốc độ tăng thấp hơn, lần lượt ở các
mức 4,3%; 3,9%; 3,0%. Trong giai đoạn
2005-2014, tổng sản lượng giày ghi nhận mức
tăng trưởng bình quân 6,6%, trong đó, sản
lượng giày dép da tăng bình quân 2,1%; giày
vải tăng 6,0% và giày thể thao 9,9%. Hầu hết
các thương hiệu giầy quốc tế lớn như Nike,
Adidas, Reebok, Puma, New Balance,
Reebok, Salomon đều đặt hàng gia công tại
Việt Nam. Hiện có 90% sản lượng giày dép là
dành cho xuất khẩu.
21
IV. PHÂN TÍCH SWOT
Điểm mạnh Điểm yếu
Khâu may, sản xuất và phân phối ít
nhiều đã khẳng định được thế mạnh khi
giúp hàng dệt may, giày dép có được vị
trí cao tại các thị trường xuất khẩu khó
tính là Mỹ (dệt may và da giày đều có thị
phần lớn thứ 2); EU (dệt may đứng 4, da
giày đứng thứ 2), Nhật Bản.
Việt Nam có chi phí lao động thấp hơn
một số quốc gia cạnh tranh là Trung
Quốc (lương cơ bản năm 2013 khoảng
410 USD/tháng), Thái Lan (390
USD/tháng), Indonesia (210
USD/tháng), của Việt Nam là 180
USD/tháng.
Các mắt xích đều có những điểm yếu:
nguyên phụ liệu chưa đáp ứng đủ nhu
cầu và phụ thuộc lớn vào nhập khẩu,
khâu thiết kế chưa phát triển, khâu
may phần lớn ở cấp độ gia công,
không chú trọng tới mảng tiếp thị, bán
hàng. Điều này khiến giá trị gia tăng
của ngành còn thấp.
Phần lớn các doanh nghiệp dệt may có
quy mô vừa và nhỏ, tiềm lực tài chính
mỏng, khó có khả năng dịch chuyển
nhanh sang các mắt xích có hàm
lượng giá trị gia tăng cao.
Cơ hội Thách thức
Hai hiệp định thương mại là TPP và FTA
Việt Nam – EU sẽ đem lại những cơ hội
rất lớn cho ngành dệt may thông qua: (1)
Gia tăng thị phần xuất khẩu tại thị trường
Mỹ và EU do thuế nhập khẩu giảm
xuống 0%. (2) Gia tăng đầu tư nước
ngoài vào ngành công nghiệp phụ trợ
nhằm giải bài toán nguyên liệu tại Việt
Nam
Việt Nam đón nhận được luồng dịch
chuyển đơn hàng sản xuất từ Trung
Quốc, Hàn Quốc nhờ chi phí nhân công
thấp, tình hình xã hội ổn định
Đáp ứng các quy tắc xuất xứ “từ sợi trở
đi” của hiệp định TPP, “từ vải trở đi”
của FTA Việt Nam – EU trong bối cảnh
Việt Nam chủ yếu nhập khẩu nguyên
liệu từ các nước ngoài hiệp định là
Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn
Độ
Thách thức đối với doanh nghiệp nội địa
khi phải cạnh tranh với doanh nghiệp
FDI về đơn hàng, lao động. Từ đó, khó
nâng được tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu
của doanh nghiệp trong nước so với
doanh nghiệp FDI.
Đảm bảo tuân thủ chính sách phát triển
của Chính phủ khi khuyến khích đầu tư
vào ngành công nghiệp phụ trợ (dệt
nhuộm) nhưng lại hạn chế các ngành
công nghiệp gây ô nhiễm môi trường.
22
V. DIỄN BIẾN NGÀNH
1. Tiêu thụ
1.1. Xuất khẩu
Giá trị xuất khẩu dệt may – da giày liên tục
tăng trưởng 2 chữ số trong giai đoạn 2010-
2015
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
0
5.000
10.000
15.000
20.000
25.000
30.000
35.000
40.000
45.000
2010 2011 2012 2013 2014 2015
Triệu USD
Nguyên phụ liệu dệt may - da giày Xơ sợi dệt các loại
Túi xách, ví, ba lô, mũ, ô Giày dép các loại
Hàng dệt, may Tăng trưởng tổng kim ngạch XK
Biểu đồ 13: Kim ngạch xuất khẩu dệt may – da
giày các năm
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Năm 2015, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may
– da giày đạt 41,7 tỷ USD, tăng 11,7% so với
năm 2014. Tính riêng từng sản phẩm, xuất
khẩu hàng dệt may đạt 22,8 tỷ USD, chiếm
54,7% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may – da
giày. Xuất khẩu giày dép các loại đạt 12 tỷ
USD, chiếm 28,8%. Xuất khẩu túi xách, ví, ba
lô đạt 2,9 tỷ USD, chiếm 6,9%. Xuất khẩu xơ,
sợi dệt đạt 2,5 tỷ USD, chiếm 6,1%. Xuất khẩu
nguyên phụ liệu đạt 1,4 tỷ, chiếm 3,4%.
Trong giai đoạn 2010-2015, tổng giá trị xuất
khẩu dệt may – da giày tăng bình quân
17,5%/năm. Xét riêng từng thành phần, xuất
khẩu hàng dệt may tăng bình quân 15,4%/năm;
giày dép các loại tăng 18,7%/năm; túi xách, ví,
ba lô tăng 24,1%/năm; xơ, sợi dệt tăng
12,9%/năm; nguyên phụ liệu tăng 22,4%/năm.
Khoảng 80% doanh nghiệp dệt may – da giày
Việt Nam chỉ thực hiện công đoạn sản xuất
trong khi đầu vào và đầu ra đã có các chủ
hàng, các công ty có chuỗi giá trị toàn cầu
cung cấp, bao tiêu. Đây là nguyên nhân cốt lõi
giúp kim ngạch xuất khẩu dệt may – da giày
Việt Nam tăng nhanh trong những năm qua.
Hơn nữa, mức độ tinh xảo của các sản phẩm
dệt may Việt Nam chưa cao, chủ yếu là áo
khoác (chiếm 22,6% giá trị xuất khẩu dệt may
trong 10 tháng 2015), áo thun (chiếm 19,8%),
quần áo trẻ em (5,9%), trong khi các sản phẩm
giá trị cao hơn là váy có giá trị xuất khẩu thấp,
chiếm 5,3%, áo Ghilê (chiếm 0,4%).
Phần lớn kim ngạch xuất khẩu dệt may – da
giày của Việt Nam thuộc về khối doanh
nghiệp FDI
23
65,70%
34,30% Giá trị xuất
khẩu của khối
FDI
Giá trị xuất
khẩu của khối
trong nước
Biểu đồ 14: Cơ cấu xuất khẩu của các khối doanh
nghiệp năm 2015
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Năm 2015, giá trị xuất khẩu dệt may – da giày
đạt được 41,7 tỷ USD, trong đó có tới 65,7%
giá trị thuộc về doanh nghiệp FDI, còn lại
34,3% thuộc về doanh nghiệp nội địa, trong
khi số lượng doanh nghiệp FDI và nội địa
tương ứng là 25% và 75%. Xu hướng chung
của các đối tác nhập khẩu lớn tại Mỹ, Nhật
Bản và châu Âu là chọn những doanh nghiệp
có khả năng sản xuất trọn gói, từ kéo sợi, dệt
vải cho đến cắt, may hoặc tương tự với lĩnh
vực da giày. Do đó, các doanh nghiệp FDI với
lợi thế về đầu tư sản xuất theo chuỗi khép kín
đang là đối tượng tìm đến của các nhà nhập
khẩu lớn tại Mỹ, EU, Nhật Bản. Điều này giải
thích vì sao giá trị xuất khẩu của khối FDI
chiếm gần 70% giá trị xuất khẩu dệt may – da
giày cả nước.
Riêng trong tháng 10, các doanh nghiệp FDI
đóng góp giá trị xuất khẩu lớn cho hàng dệt
may Việt Nam có thể kể đến những cái tên
như: Sakurai Việt Nam (Nhật), May Tinh Lợi
(Crystal Hong Kong), Hanesbrands Việt Nam
Huế (Mỹ), Hansae Việt Nam (Hàn Quốc).
Phía doanh nghiệp Việt Nam có các doanh
nghiệp điển hình là May Việt Tiến, May Bắc
Giang, May Sông Hồng, May Nhà Bè
Mức độ xuất khẩu theo thị trường là khá
tập trung khi 5 thị trường xuất khẩu là Mỹ,
EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc
chiếm 80,4% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt
may – da giày
Các sản phẩm dệt may của Việt Nam đã có
mặt tại 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong
khi đối với da giày là 40 quốc gia. Trong 5 thị
trường xuất khẩu lớn nhất, Việt Nam đều đã có
quan hệ thương mại song phương hoặc đa
phương.
Thị trường Mỹ: Năm 2015, xuất khẩu dệt may
– da giày của Việt Nam sang Mỹ đạt 16,3 tỷ
USD, là thị trường tiêu thụ lớn nhất của Việt
Nam, chiếm 39,1% tổng kim ngạch xuất khẩu
dệt may - da giày. Tính riêng hàng dệt may,
năm 2015, Mỹ nhập khẩu 111,9 tỷ USD, trong
24
0,0%
5,0%
10,0%
15,0%
20,0%
25,0%
30,0%
35,0%
40,0%
45,0%
0
2.000
4.000
6.000
8.000
10.000
12.000
14.000
16.000
18.000
Mỹ EU Nhật Bản Hàn Quốc Trung
Quốc
Khác
Nguyên phụ liệu Xơ sợi dệt
Túi, ví Giày dép các loại
Hàng dệt may Thị phần xuất khẩu
Biểu đồ 15: Cơ cấu thị trường xuất khẩu năm 2015
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
đó, nhập từ Việt Nam đạt 11,3 tỷ USD. Với giá
trị này, thị phần hàng dệt may Việt Nam tại
Mỹ đạt 10%, đứng thứ 2 sau Trung Quốc (thị
phần 38,6%). Hiệp định TPP vừa kết thúc đàm
phán vào tháng 11/2015 và dự kiến hiệu lực
năm 2018 sẽ thúc đẩy hàng dệt may – da giày
sang Mỹ nhờ mức thuế giảm mạnh
Thị trường EU: EU là thị trường tiêu thụ hàng
dệt may – da giày lớn thứ 2 của Việt Nam với
kim ngạch xuất khẩu năm 2015 đạt 8,4 tỷ
USD, chiếm 20,2%. Trong 9 tháng đầu năm
2015, thị trường này tiêu thụ 69 tỷ USD hàng
dệt may nhập khẩu. Thị phần hàng dệt may của
Việt Nam tại EU đạt 3,4%, đứng thứ 4 sau
Trung Quốc (thị phần 37%), Băng la đét
(17%), Thổ Nhĩ Kỳ (11,5%), Ấn Độ (6,7%).
Hi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_nganh_det_may_da_giay.pdf