Kim ngạch giày da có nguy cơ tiếp tục giảm
Bắt đầu từ 3/1/2010, sản phẩm giày mũ da xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU tiếp tục “mắc cạn” 10% "thuế chống bán phá giá".
Mặc dù, suốt ba năm qua, việc EU áp thuế mức thuế 10% đối với mặt hàng giày da của Việt Nam, đồng thời quyết định loại bỏ ngành giày da Việt Nam khỏi diện được hưởng Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) giai đoạn 2009 – 2011 mà EC đưa ra vào tháng 6/2008 đã gây ra những thiệt hại rất lớn cho ngành công nghiệp giày da của Việt Nam.
Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU đã giảm sút rất lớn. Cụ thể những năm bị áp thuế chống bán phá giá, kim ngạch của lĩnh vực này xuất khẩu vào EU trung bình giảm trên 20%/năm. Riêng trong 9 tháng đầu năm 2009, tổng kim ngạch giày dép xuất khẩu đã giảm 11,2% so với cùng kỳ năm 2008.
Đồng thời cũng làm giảm đi đáng kể sức cạnh tranh của sản phẩm gia dày Việt Nam so với sản phẩm cùng loại của các nước khác.
Nguy cơ lớn tới đây, trong điều kiện kinh tế thế giới và tiêu dùng của người dân vẫn còn khó khăn, với mức thuế “bị” áp trên, thì các sản phẩm cùng giá, cùng chủng loại của Việt Nam so với sản phẩm giày mũ da của các nước khác giá sẽ cao hơn, như thế các nhà nhập khẩu của châu Âu phải tính toán đến nhập khẩu ở các quốc gia khác không bị áp thuế.
“Nên nguy cơ giảm kim ngạch xuất khẩu sản phẩm giầy mũ da của Việt Nam vào thị trường EU so với tiềm năng là rất lớn”
Nếu EC không thay đổi chính sách thuế đối với giầy da xuất khẩu của Việt Nam thì kim ngạch xuất khẩu sản phẩm giầy da trong những năm tới sẽ sụt giảm.
32 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 463 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Những vấn đề về thị trường giầy da Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y Việt Nam ngày càng được mở rộng và ổn định cụ thể:
Thị trường EU:
Trong những năm vừa qua, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hết năm 2008, EU vẫn là thị trường lớn nhất tiêu thụ giày dép của Việt Nam với doanh thu 2,5 tỉ USD, tăng 33,9% so với năm 2006 và chiếm 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam.
Thị trường Mỹ:
Năm 2004, Việt Nam đã vượt Italia và trở thành nhà cung cấp lớn thứ tư sau Trung Quốc, Brazil, Indonesia. Trong năm 2008, xuất khẩu vào Mỹ 1 tỉ USD, tăng 30% so với năm 2006. Tháng 1/2009, xuất khẩu giày dép vào Mỹ giảm 0,07% so với năm 2008, đạt 86,3 triệu USD, mặc dù vậy, đây vẫn là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của toàn ngành. Hiện nay và trong những năm tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu đối với sản phẩm giày dép của Việt Nam và các sản phẩm xuất khẩu chính sẽ là giày thể thao, giày da nam nữ.
Thị trường các nước Đông Á:
Đây là khu vực thị trường có những phong tục tập quán tương đối giống Việt Nam, cùng nằm ở khu vực châu Á. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu từ Việt Nam sang các thị trường này là giày thể thao, giày da nam nữ, dép đi trong nhà. Năm 2008, xuất khẩu vào: Nhật Bản đạt 137,6 triệu USD, Trung Quốc đạt 107,2 triệu USD, Hàn Quốc đạt 64,3 triệu USD.
THÁCH THỨC
Thách thức trước hết phải kể đến là sự cạnh tranh khốc liệt của Trung Quốc, một đất nước có thế mạnh về mặt hàng giày dép. Gần đây Trung Quốc là có thêm lợi thế với việc gia WTO. Mặt hàng giày dép xuất khẩu của Trung Quốc có ưu thế hơn giày dép xuất khẩu của Việt Nam do trình độ công nghệ của Trung Quốc tiên tiến hơn, mẫu mã của họ đẹp và đa dạng hơn.
Tuy sức mua của thị trường truyền thống (EU) vẫn giữ ở mức ổn định nhưng Việt Nam bị chịu nhiều sức ép hơn về thuế và các rào cản so với một số nước như Brazil, Indonesia... đặc biệt từ ngày 6 tháng 10 năm 2006, EU áp thuế chống bán phá giá giày mũ da sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu sang EU là 10%.
Xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng mạnh trong những năm gần đây nhưng thị phần của Việt Nam cũng mới chỉ chiếm 2,1% về số lượng so với 83,5% của Trung Quốc.
Đối với các thị trường xuất khẩu khác như Liên bang Nga, các nước Đông Âu, Trung Đông, châu Phi, tuy không yêu cầu cao về mẫu mã và chất lượng nhưng hàng Việt Nam vẫn không thể thâm nhập mạnh vào thị trường các nước này. Nhiều nước châu Phi đánh thuế nhập khẩu rất cao thậm chí là cấm các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam làm cho ngành da giày khó có thể thâm nhập vào thị trường này.
Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giày chiếm đến 80% giá trị của sản phẩm trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Theo Hiệp hội da giày Việt Nam, nhu cầu da thuộc năm 2007 của toàn ngành khoảng 350 triệu feet vuông, trong khi đó các nhà máy thuộc da của Việt Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam mới chỉ sản xuất và đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước, 80% còn lại phải nhập khẩu.
Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giày... nhưng lại “bỏ ngỏ” những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ như khoen, móc, cườm, các vật trang trí trên giày, đặc biệt là giày nữ và giày trẻ em.
Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc doanh và có yếu tố nước ngoài, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành, chứng tỏ năng lực ngành phụ thuộc hoàn toàn vào làn sóng đầu tư của tư bản tư nhân trong nước và quốc tế.
Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào do dân số trẻ, nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên 1 dây chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất lao động của người Nhật, 1/30 củaThái Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của Indonesia.
Hiện nay trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở mức trung bình và trung bình khá, song khá lệ thuộc vào nước ngoài về trang bị máy móc. Khả năng đầu tư và chuyển giao công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn tài chính hạn hẹp, đội ngũ chuyên gia hiểu biết sâu và cập nhật công nghệ còn quá ít và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, kinh nghiệm và khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng về công nghệ còn hạn chế...Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Điều này còn dẫn đến việc ngành có nguy cơ mất khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
So với Quy hoạch, giai đoạn 2000 - 2010, xuất khẩu giày dép chỉ đạt được 85,5%, tỷ lệ nội địa hoá nguyên phụ liệu đạt 40%, không xây dựng được các cụm công nghiệp, trung tâm xúc tiến thương mại chuyên ngành, cũng chưa đầu tư được dây chuyền thiết bị tự động hoá trong thiết kế sản phẩm...
Các DN lớn của Ngành Da giày VN có quy mô đồng bộ hiện cũng chỉ chú trọng làm hàng xuất khẩu mà không chú trọng tới tiêu thụ trong nước. Thậm chí, trong mục tiêu phát triển ngành da giày VN đến 2010 cũng nhấn mạnh tới xuất khẩu... Chính vì vậy mà ngươì tiêu dùng trong nước cũng không mặn mà gì đối với hàng nội, mặc dù chất lượng giày, dép của VN không thua kém gì hàng ngoại, thậm chí có phần còn trội hơn. Hàng ngoại làm tốt công tác tiếp thị nên đã tràn lan trên thị trường giày, dép của Việt Nam với mẫu mã, kiểu dáng phong phú, giá rẻ... nên đã gây không ít khó khăn cho các DN lấy thị trường trong nước làm mục tiêu phục vụ.
Bỏ trống thị trường trong nước, không chú ý làm tốt công tác marketing cũng như tự hoàn thiện, chấp nhận gia công cho các tập đoàn giày, dép nước ngoài... Đó đang là những điểm yếu mà ngành Giày da Việt Nam cần biết và có biện pháp khắc phục để phát triển bền vững./.
Nguyên nhân là nguyên vật liệu phải nhập, sản phẩm chưa có thương hiệu, nội lực của các doanh nghiệp, đặc biệt là DN trong nước còn yếu, đầu tư không có chất lượng.
Ngoài ra, xuất khẩu da giày còn bị hạn chế vì bị EC áp thuế giày mũ da và không được hưởng thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP) dành cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, trong đó chủ yếu là giày dép, bình quân mỗi đôi giày xuất sang EU phải tăng thuế từ 3,5 – 5%. Như vậy, nếu tính gộp cả thuế này và thuế chống bán phá giá, giày da Việt Nam vào EU chịu thuế 15%, mất lợi thế cạnh tranh với các nước khác như Indonexia, Bangladesh
Da giày là ngành xuất khẩu lớn, tạo nhiều việc làm cho lao động, nhưng thực tế là lao động chủ yếu chưa qua đào tạo, thu nhập bình quân thấp... Trong khi giá cả biến động, mức lương bình quân trong ngành da giày là 1.640.000 đồng/tháng chưa hấp dẫn với người lao động. Đây cũng là lý do xảy ra biến động lao động thường xuyên trong ngành da giày. Tuy nhiên, trong bối cảnh chi phí đầu vào sản xuất gia tăng, lợi nhuận của ngành cũng bị giảm đáng kể (năm 2000 đạt 425,8 tỷ đồng, thì đến năm 2008 chỉ đạt 378,5 tỷ đồng), việc tăng thu nhập cho người lao động là bất khả thi.
Ngành da giày nước ta đang phải đối mặt với những điểm yếu lớn và tồn tại dai dẳng, đó là phương thức sản xuất gia công không toàn diện, gia công là chủ yếu; lợi nhuận gia công thấp; khả năng cung ứng nguyên phụ liệu kém; chưa có đội ngũ thiết kế giày dép và thiếu lao động quản lý có trình độ cao; thiếu liên kết giữa các DN trong ngành.
Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giầy da của nước ta còn quá chú trọng vào hoạt động xuất khẩu. Trong khi đó thị trường trong nước đang ‘bỏ trống, chưa khai thác được hết tiềm năng từ thị trường nội địa.
DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG GIẦY DA
Năm 2010, ngành da giày đề ra kế hoạch tăng trưởng từ 10 – 15%, đảm bảo doanh số xuất khẩu 4,5 – 5 tỷ USD.
1. THỊ TRƯỜNG CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG
Tổng doanh thu của thị trường giày dép tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương phần lớn thu được từ việc bán các loại giày dép nam, nữ và trẻ em. Năm 2008, tổng doanh thu mặt hàng giày dép tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là 34.321,4 triệu đôla Mỹ, đạt tốc độ tăng trưởng lũy kế hàng năm (CAGR) là 4,3% trong giai đoạn 2004 - 2008.
Dự báo trong thời gian tới thị trường giày dép tại đây sẽ tăng trưởng mạnh hơn, với tốc độ tăng trưởng lũy kế hàng năm CAGR đạt 4,5% trong giai đoạn 5 năm từ 2008 đến 2013, và tính đến cuối năm 2013 sẽ đạt 42.670,3 triệu đô la Mỹ. Tốc độ tăng trưởng của thị trường Trung Quốc là 10,7% (tương đương 11.683,1 triệu đô la Mỹ) và Hàn Quốc là 4% (tương đương 1.868,4 triệu đô la Mỹ).
Các nhà bán lẻ quần áo, giày dép, trang phục thể thao và phụ kiện thời trang là các nhà phân phối thu được lợi nhiều nhất từ thị trường thị trường giày dép tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương trong năm 2008 với tổng doanh thu là 22.623,9 triệu USD, tương đương 65,9% tổng giá trị doanh thu của của tất cả loại hàng hóa. Trong khi đó, doanh thu bán hàng từ các cửa hàng bách hóa năm 2008 đạt 7.207,5 triệu đô la Mỹ, tương đương 21% tổng doanh thu của cả thị trường.
Giá trị thị trường Giày dép Châu Á - Thái Bình Dương
Trong năm 2008, thị trường giày dép Châu Á-Thái Bình Dương tăng 3,9% đạt 34,3 tỉ đôla Mỹ.
Tốc độ tăng trưởng lũy kế hàng năm của thị trường này trong giai đoạn 2004 - 2008 đạt 4,3%.
Dự báo thị trường giày dép Châu Á-Thái Bình Dương
Năm 2013, thị trường giày dép châu Á-Thái Bình Dương được dự báo sẽ đạt giá trị 42,7 tỉ đôla Mỹ, tăng 24,3% so với năm 2008.
Tốc độ tăng trưởng lũy kế hàng năm của thị trường trong giai đoạn 2008 - 2013 ước đạt 4,5%.
(Châu Á - Thái Bình Dương bao gồm Úc, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan.)
THỊ TRƯỜNG EU
Kim ngạch giày da có nguy cơ tiếp tục giảm
Bắt đầu từ 3/1/2010, sản phẩm giày mũ da xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU tiếp tục “mắc cạn” 10% "thuế chống bán phá giá".
Mặc dù, suốt ba năm qua, việc EU áp thuế mức thuế 10% đối với mặt hàng giày da của Việt Nam, đồng thời quyết định loại bỏ ngành giày da Việt Nam khỏi diện được hưởng Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) giai đoạn 2009 – 2011 mà EC đưa ra vào tháng 6/2008 đã gây ra những thiệt hại rất lớn cho ngành công nghiệp giày da của Việt Nam.
Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU đã giảm sút rất lớn. Cụ thể những năm bị áp thuế chống bán phá giá, kim ngạch của lĩnh vực này xuất khẩu vào EU trung bình giảm trên 20%/năm. Riêng trong 9 tháng đầu năm 2009, tổng kim ngạch giày dép xuất khẩu đã giảm 11,2% so với cùng kỳ năm 2008.
Đồng thời cũng làm giảm đi đáng kể sức cạnh tranh của sản phẩm gia dày Việt Nam so với sản phẩm cùng loại của các nước khác.
Nguy cơ lớn tới đây, trong điều kiện kinh tế thế giới và tiêu dùng của người dân vẫn còn khó khăn, với mức thuế “bị” áp trên, thì các sản phẩm cùng giá, cùng chủng loại của Việt Nam so với sản phẩm giày mũ da của các nước khác giá sẽ cao hơn, như thế các nhà nhập khẩu của châu Âu phải tính toán đến nhập khẩu ở các quốc gia khác không bị áp thuế.
“Nên nguy cơ giảm kim ngạch xuất khẩu sản phẩm giầy mũ da của Việt Nam vào thị trường EU so với tiềm năng là rất lớn”
Nếu EC không thay đổi chính sách thuế đối với giầy da xuất khẩu của Việt Nam thì kim ngạch xuất khẩu sản phẩm giầy da trong những năm tới sẽ sụt giảm.
Thị trường Châu Mỹ.
Gần đây, một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đang chuyển hướng vào những thị trường mới ‘dễ chịu hơn’. Đó là thị trường ở Châu Mỹ.
Tuy nhiên khi xâm nhập vào các thị trường mới này, cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro.vì vậy công tác dự báo về thị trường này là rất khó khăn, nhất là trong bối cảnh nên kinh tế như hiện nay
Tóm lại, khả năng dự báo về kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường chính ở nước ngoài là khó lường, bởi chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước và sự thay đổi diễn ra thường xuyên và có xu hướng mạnh mẽ hơn. Điều này làm cho các doanh nghiệp đứng trước nhiều rủi ro và những thách thức mới.
Thị trường nội địa
Trong những năm qua, các doanh nghiệp đã quá chú trong vào xuất khẩu, thị trường nội địa bị ‘bỏ trống’. Các doanh nghiệp đã không đánh giá đúng tiềm năng của thị trường này. Gần đây thị trường xuât khẩu và thâm nhập vào thị trường nước ngoài gặp nhiều khó khăn, sản lượng xuất khẩu sụt giảm mạnh nên các doanh nghiệp bắt đầu ‘hướng nội’.
Với dân số Việt Nam đông nên sẽ là thị trường có mức tiêu thụ lớn. Vì vậy trong những năm tới thị phần của các doanh nghiệp trong nước có xu hướng tăng hơn
Thị trường nội địa sẽ được nhà nước khuyến khích và hỗ trợ phát triển nên việc đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm giầy da trong nước sẽ dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp. và lại tiết kiệm được chi phí, mức độ an toàn cao hơn
Vấn đề đặt ra cho nhà nước là việc hạn chế việc nhập khẩu trái phép của giầy da Trung Quốc, nều làm tốt điều này thì thị trường trong nước sẽ thu hút được các doanh nghiệp trong nước.
NHỮNG ĐIỂM CẦN QUAN TÂM KHI ĐÂU TƯ VÀO THI TRƯỜNG GIẤY DA
1. Một số giải pháp đê phát triển tốt thị trường giầy da
Để phát triển tốt trong những năm tới, ngành da giày nên nghiên cứu một số giải pháp như sau:
Hình thành chợ nguyên phụ liệu cho ngành dệt may và da giày để phục vụ tốt cho hoạt động sản xuất của hai ngành này. Xem xét việc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư xây dựng và kinh doanh chợ nguyên phụ liệu cho dệt may, da giày.
Tăng cường tìm kiếm bạn hàng, mở rộng thị trường ra những thị trường mới, tăng cường ký kết hợp đồng xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở tăng cường năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm và gia tăng tỷ lệ nguyên phụ liệu trong nước tự đáp ứng được. Đẩy mạnh khai thác những thị trường ngách, thị trường nhỏ nhưng chấp nhận mức giá cao và ưa thích các sản phẩm đặc thù.
Đầu tư cho việc nghiên cứu mẫu, mã, mốt thời trang quốc tế, nắm bắt kịp thời xu thế lớn trong ngành thời trang. Nhà sản xuất phải thể hiện được phong cách riêng với khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm, phương thức kinh doanh.
2. Một số yêu cần khi thâm nhập vào thị trường giầy da chính
Thông thường DN cần quan tâm đến ba nhóm yêu cầu cơ bản:
Yêu cầu pháp lý: các luật, qui định liên quan đến nhập khẩu giày dép vào nước sở tại
Yêu cầu thuế quan: các qui định về thuế suất nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan, thuế chống bán phá giá...
Yêu cầu thị trường: Các yêu cầu do nhà mua tại thị trường đó đặt ra, như chất lượng sản phẩm, điều kiện giao hàng, dịch vụ hỗ trợ ...
2.1. Thị trường EU
Giày dép xuất khẩu sang thị trường EU phải đáp ứng các yêu cầu về thuế quan, pháp lý và thị trường. uy là cùng nằm trong khối EU, từng nước nhập khẩu cụ thể có thể có thêm các yêu cầu đặc thù. Các nhà xuất khẩu cần xem xét kỹ yêu cầu pháp lý cụ thể ở từng nước trước khi đưa sản phẩm vào nước đó.
Trang web hỗ trợ các nhà xuất khẩu từ các nước đang phát triển của CBI giúp cung cấp thông tin về mức thuế nhập khẩu, thủ tục hải quan theo từng mã hàng cụ thể:
2.1.1 Yêu cầu pháp lý
Yêu cầu pháp lý EU đối với các sản phẩm là bắt buộc đối với tất cả các nguyên liệu và sản phẩm giày dép được xuất khẩu sang EU. Các yêu cầu này bao gồm tiêu chuẩn về dán nhãn mác và bao gói phù hợp với môi trường, sức khoẻ và an toàn của người tiêu dùng.
DN có thể tham khảo các yêu cầu pháp lý cập nhật của EU và từng nước cụ thể, ví dụ luật mới về hóa chất REACH (có hiệu lực 1/6/2007) ở đây:
2.1.1.1. Nhãn mác
Việc dán nhãn trên giày dép hoặc trên các phụ kiện chính được bán riêng lẻ, phải tuân thủ theo các quy định về dán nhãn của Liên minh Châu Âu (EU). Cơ sở pháp lý của yêu cầu nhãn mác là Chỉ thị 94/11/EC của Nghị viện Châu ÂU và của Uỷ ban ngày 23 tháng 3 năm 1994 về các luật lệ, quy định và các điều khoản hành chính của các quốc gia thành viên liên quan đến dán nhãn nguyên vật liệu được sử dụng trong các bộ phận chính của giày dép để bán cho người tiêu dùng (OJ L-100 19/04/1994).
Nội dung: Nhãn mác phải miêu tả rõ những nguyên vật liệu của 3 phần chính trên mặt hàng giày dép (phần mặt trên, phần vải lót và đế giày), nêu rõ trong từng trường hợp là "da", "da thuộc", "vải" hay "loại khác". Nếu không có loại vật liệu nào chiếm ít nhất 80 % sản phẩm thì nhãn mác phải nêu rõ thông tin về 2 vật liệu chính đã được sử dụng tạo thành sản phẩm.
Ngôn ngữ: DN phải chọn lựa sử dụng ký hiệu hay ngôn ngữ chữ viết trên nhãn mác của sản phẩm phù hợp với qui định của nước nhập khẩu.
Vị trí đặt nhãn mác: Nhãn mác phải được đặt trên giày dép, ít nhất là phải đặt trên một điểm nào đó của mỗi đôi, có thể bằng cách in, dính, thêu hoặc sử dụng nhãn đính kèm. Nhãn mác phải được nhìn thấy rõ, được đính kèm chắc chắn và dễ tiếp cận, kích thước của các ký hiệu phải đủ lớn để người sử dụng dễ dàng hiểu được.
Trách nhiệm: Người chịu trách nhiệm cung cấp nhãn mác và bảo đảm tính chính xác của nhãn mác đó là:
Nhà sản xuất, khi công ty đó được thành lập tại EU, hoặc
Đại lý có thẩm quyền của công ty, khi DN không được thành lập tại EU, hoặc
Người chịu trách nhiệm cho lần đầu tiên đem sản phẩm giày dép vào thị trường EU, nếu như cả nhà sản xuất và đại lý của họ không được thành lập tại EU,
Nhà bán lẻ sẽ chịu tiếp phần trách nhiệm về việc đảm bảo giày dép mà họ bán có nhãn mác thích hợp.
Trường hợp ngoại trừ: Những yêu cầu nhãn mác trên không áp dụng với những loại giày dép là đối tượng của những luật lệ đặc biệt dưới đây:
Giày dép bảo hộ dưới Thông tư 89/686/EEC đối với thiết bị bảo hộ cá nhân (Ví dụ: một số loại ủng có đầu bọc ngón chân bằng thép-CN 6401.10) (OJ L-339 30/12/1989);
Giày dép được xác định theo Chỉ thị 76/769/EEC về các chất nguy hiểm (ví dụ giày dép có chứa chất amiăng- CN 6812.50) (OJL-262 27/09/1976).
2.1.1.2. Nhãn sinh thái
Nhãn sinh thái hay còn gọi là "lô-gô hoa" là nhãn hiệu chính thức ở EU đối với các sản phẩm có tác động thấp nhất với môi trường. Mục đích của nhãn này nhằm quảng bá và giúp người tiêu dùng xác định những sản phẩm có đóng góp đáng kể trong việc cải thiện môi trường.
Việc tham gia chương trình dán nhãn sinh thái là hoàn toàn tự nguyện, có nghĩa là các sản phẩm có thể tiêu thụ ở thị trường EU mà không cần có "lô-gô hoa" và không có quy định bắt buộc đối với việc sử dụng nhãn sinh thái.
Theo Quyết định số 2002/231/EC (OJ L-77, 20/03/2002) của Ủy ban Châu Âu, nhóm sản phẩm giày dép có thể tham dự chương trình nhãn sinh thái bao gồm tất cả những sản phẩm được làm bằng vải, được thiết kế để che hoặc bảo vệ bàn chân có đế ngoài cố định và tiếp xúc với mặt nền.
2.1.1.3 Bao gói
Tất cả các sản phẩm nhập khẩu vào EU phải tuân thủ tiêu chuẩn bao gói EU trên cơ sở pháp lý của chỉ thị 94/62/EC và các chỉ thị sửa đổi:
+ có thể tái sử dụng, tái chế, thu hồi nhiên liệu hoặc tự hủy;
+ có trọng lượng và khối lượng phù hợp độ an toàn, vệ sinh theo yêu cầu của người tiêu dùng;
+ bảo đảm lượng kim loại nặng hoặc các chất độc hại khác ở mức độ tối thiểu
+ bảo đảm mức độ tối đa và các yêu cầu đặc thù đối với bao gói nguyên liệu gỗ (chỉ thị 2004/102/EC & 2006/14/EC sửa đổi chỉ thị 2000/29/EC).
Ngoài ra, EU còn có các yêu cầu pháp lý cụ thể với giày dép nhập khẩu như qui định về buôn bán sản phẩm da có nguồn gốc từ các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng CITES- (EC 338/97) và qui định về chống bán phá giá.
2.1.2. Yêu cầu thuế quan
Từ 6/10/2006, EU áp đặt thuế chống bán phá giá giầy mũ da sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu sang EU là 10%. Các nhóm giày dép khác chưa bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, từ 1/1/2009, các nhà xuất khẩu Việt Nam không còn được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập GSP nữa.
2.1.3. Yêu cầu thị trường
1.3.1. Chất lượng
Nhà xuất khẩu phải đảm bảo cung ứng thường xuyên với số lượng sản phẩm nhất định. Thị trường mỗi nước sẽ có những yêu cầu khác nhau về chất lượng, kích cỡ, màu sắc và vật liệu của giày dép (vải, da,...) Các phương pháp kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm phải tuân thủ chuẩn của EU, nước nhập khẩu hoặc chuẩn ISO.
Một yêu cầu nữa về chất lượng là sự truy nguyên nguồn gốc sản phầm (traceability). Toàn bộ sản phẩm phải có thể được truy nguyên theo chuỗi cung ứng, theo những trình tự và qui trình thực hiện được kiểm soát chặt chẽ.
2.1.3.2. Độ tin cậy
Một trong những đặc trưng của thị trường EU là yêu cầu cao về phân phối và hậu cần. Thời gian giao hàng ngày càng trở nên ngắn hơn và độ ổn định trong giao hàng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nhà cung ứng cần phải hết sức linh hoạt và có thời gian phản hồi (từ khi nhận được yêu cầu của khách hàng cho đến khi nhận đơn đặt hàng) phải là ít nhất và phải được kiểm soát chặt chẽ. Việc có khả năng cung ứng đơn hàng theo đúng hạn là rất quan trọng.
Nhà cung cấp cần luôn luôn tuân thủ các yêu cầu chất lượng, nghĩa là họ phải luôn đầu tư vào thiết bị, công nghệ mới và đào tạo cập nhật nguồn nhân lực.
Độ tin cậy là điều quan trọng nhất đối với các nhà cung ứng từ các nước phát triển vì để vào được thị trường EU là rất gian nan và nếu nhà cung ứng không giữ được lời hứa thì trước sau gì cũng sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi.
2.1.3.3. Giá cả cạnh tranh
Khi nhập hàng từ các nhà sản xuất ở nước phát triển, các nhà phân phối hoặc bán lẻ ở EU thường yêu cầu mức giá rất cạnh tranh. Mặc dù giá cả là một yếu tố rất quan trọng, một điều quan trọng không kém là nhà cung ứng không nên chỉ để bị nhìn nhận là nhà cung ứng sản phẩm giá thấp. Điều này làm giảm vị thế và lợi thế thương lượng (negotiation power) của nhà cung ứng.
2.1.3.4. Phong cách chuyên nghiệp
Nhà cung ứng vào thị trường EU cần cởi mở và rõ ràng trong các trình bày và giao tiếp của mình, cũng như là việc giữ đúng hẹn, phản hồi kịp thời các câu hỏi và thắc mắc của khách hàng, giải quyết các vấn đề khách hàng đưa ra một cách chính xác, thỏa đáng. Đó là những yếu tố cơ bản gây dựng phong thái chuyên nghiệp và tăng độ tin cậy trong kinh doanh với thị trường cao cấp EU.
Đại diện thương mại của nhà cung ứng phải nói thông thạo một trong các ngôn ngữ kinh doanh phổ biến là tiếng Anh và tiếng Pháp.
2.2. Thị trường Bắc Mỹ
2.2.1. Thị trường Mỹ
Các yêu cầu đối với xuất khẩu giày dép sang Mỹ tương tự như các yêu cầu của Châu Âu, tuy nhiên vẫn có một số khác biệt. Từ quan điểm của các nhà xuất khẩu của các nước đang phát triển, việc xuất khẩu sang Mỹ ngày càng trở nên khó khăn và phức tạp hơn. Trước tiên, có vô số các quy định mới với giấy chứng nhận đòi hỏi khắt khe và các yêu cầu điều tra an ninh. Thứ hai, rất nhiều thông tin do các nhà chức trách Mỹ yêu cầu nhà xuất khẩu phải xử lý và gửi theo đường điện tử. Có rất nhiều quy định do mỗi bang ở Mỹ đặt ra. Do đó, các nhà nhập khẩu không chỉ phải chú ý đến luật pháp của liên bang mà còn đến luật pháp của mỗi bang cụ thể nơi mà sản phẩm được bán ra.
Yêu cầu pháp lý
Các vấn đề về y tế, an toàn và môi trường hiện đang được quan tâm hơn bao giờ hết tại Mỹ. Đặc biệt là sau sự kiện tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, các mối lo ngại về y tế công cộng ngày càng tăng vì các nhà chức trách Mỹ phải đối mặt với mọi nguy cơ có thể và có thể nhận thấy về hành động khủng bố đe dọa tới an toàn cộng cộng, đặc biệt liên quan đến việc nhập khẩu.
Tại Mỹ, các điều luật ảnh hưởng tới giày dép liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau: Luật nhãn mác, Luật chất thải rắn, Luật sở hữu trí tuệ, Luật địa phương, bang, liên bang, Các quy định về vật liệu làm giày dép.
Tập hợp các luật và quy định hiện hành có thể được tìm thấy từ các cơ sở dữ liệu của chính phủ liên bang và
Yêu cầu thuế quan
Từ khi Việt Nam có hiệp định thương mại song phương giữa hai nước và là thành viên của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO), giày dép của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ được hưởng mức thuế tối huệ quốc (MFN) hay còn gọi là mức thuế dành cho các nước có quan hệ thương mại bình thường (NTR).
Các DN có thể tra cứu mức thuế cập nhật cụ thể đối với từng mã hàng (theo mã HS) ở trang web này của Cơ quan thương mại quốc tế của chính phủ Mỹ:
Yêu cầu thị trường
Bên cạnh các yêu cầu tương tự như của thị trường EU, các nhà mua hàng có thể đặt ra các yêu cầu cụ thể. DN cần trực tiếp trao đổi với các khách hàng tiềm năng để biết rõ về những yêu cầu của họ.
2.2. Thị trường Canada
Về yêu cầu thị trường, các doanh nghiệp Canada khi tiến hành nhập khẩu, bán và phân phối các sản phẩm giày dép đều mong đợi sự hỗ trợ kinh doanh cũng như sự tuân thủ các quy định pháp luật, các nỗ lực tiếp thị và quảng bá của các nhà cung cấp nước ngoài. Là một trong những quốc gia có giá trị nhập khẩu bình quân đầu người cao nhất, Canada hiện là thị trường mà rất nhiều nhà cung cấp giày dép muốn thâm nhập, điều này đồng nghĩa với sức ép cạnh tranh khốc liệt đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Vì vậy, để có thể chiếm lĩnh được thị trường này, doanh nghiệp Việt Nam cần phải (1) cung cấp một dòng sản phẩm hoàn toàn mới; hoặc (2) cạnh tranh với các đối thủ khác về chất lượng, dịch vụ, giá cả, bao bì hoặc dán nhãn. Các nhà xuất khẩu Việt Nam có thể tham khảo các tiêu chí sau đây:
Ngoài ra, DN phải chắc chắn là đại diện của mình thường xuyên liên hệ với người mua hàng; có khả năng nói và tiếng Anh và hoặc tiếng Pháp lưu loát.
Sự đa dạng về sắc tộc và khí hậu/thời tiết của Canada ảnh hưởng rất nhiều đến ngành công nghiệp giày dép như kích cỡ, xuất xứ hàng nhập, màu sắc. Trong khi giới trẻ nhiều nước thích các loại giày thoải mái, hợp thời trang và sẵn sàng trả giá để mua hàng chất lượng cao thì giới trẻ Canada lại có xu hướng mua các loại giày giá thấp. Tuy nhiên, đối với các loại giày thể thao, thì càng đắt tiền lại cà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_nhung_van_de_ve_thi_truong_giay_da_viet_nam.doc