Báo cáo Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước - Thực trạng và những vấn đề đặt ra

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 7

Phần thứ nhất: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 23

1.1. TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 23

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước 23

1.1.2. Trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước 31

1.2. PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 45

1.2.1. Khái niệm và nội dung điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước 45

1.2.2. Vai trò của pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước 46

1.3. TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 50

1.3.1. Tiêu chí hoàn thiện 50

1.3.2. Các điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước 55

1.4. PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 64

1.4.1. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Trung quốc 65

1.4.2. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Anh 67

1.4.3. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Hoa Kỳ 68

1.4.4. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Nhật Bản 71

1.4.5. Những giá trị tham khảo cho hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam 76

Phần thứ hai: PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 78

2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 78

2.1.1. Hệ thống văn bản pháp luật về trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước 78

2.1.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước theo pháp luật hiện hành 91

2.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG ƯU ĐIỂM, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 112

2.2.1. Những ưu điểm của hệ thống pháp luật 112

2.2.2. Hạn chế, bất cập 114

2.2.3. Nguyên nhân 115

2.2.4. Những vấn đề đặt ra 118

Phần thứ ba: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY 120

3.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 120

3.2. YÊU CẦU HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 125

3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 127

3.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về nội dung 127

3.3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện hình thức pháp luật 138

3.3.3. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện 141

KẾT LUẬN 145

PHỤ LỤC

doc145 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3188 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước - Thực trạng và những vấn đề đặt ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h rất rõ trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thị trưởng. Hoạt động của Chính phủ Anh do các bộ triển khai, những bộ trưởng cao cấp mà điều hành các bộ thường được gọi là quốc vụ khanh. Các bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng về hoạt động của bộ mình.Các thứ trưởng chịu trách nhiệm về từng lĩnh vực hoạt động cụ thể của một bộ và có trách nhiệm báo cáo trước bộ trưởng. Thị trưởng được bầu trực tiếp vì vậy trách nhiệm của Thị trưởng được quy định chặt chẽ bảo đảm Thị trưởng là người điều hành chính quyền địa phương và chịu trách nhiệm trước cử tri. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính của Anh cũng giống như các nước có nền hành chính phát triển là đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Chế định từ chức được quy định rõ ràng và có cơ chế thực thi hiệu quả trên thực tế 1.4.3. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Hoa Kỳ Chế độ Tổng thống của nước Mỹ là một trong những mô hình đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Nhiệm vụ hàng đầu của Tổng thống được quy định trong Hiến pháp là bảo vệ Hiến Pháp và thực thi luật pháp do Quốc hội ban hành. Để gánh vác trách nhiệm này, tổng thống chủ trì ngành hành pháp của chính quyền liên bang - một tổ chức rộng lớn gồm tới bốn triệu người, trong đó có một triệu quân nhân tại ngũ. Ngoài ra tổng thống còn có những quyền quan trọng về lập pháp và tư pháp. Trong bản thân ngành hành pháp, tổng thống có những quyền hạn rộng lớn để điều hành công việc quốc gia và các hoạt động của chính quyền liên bang. Tổng thống có thể ban hành các quy định, quy chế và chỉ thị, được gọi là những chế tại hành pháp, có hiệu lực bắt buộc của luật pháp đối với các cơ quan liên bang mà không cần có sự tán thành của Quốc hội. Là tổng chỉ huy của các lực lượng vũ trang Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, tổng thống cũng có thể huy động các đơn vị Cận vệ quốc gia của bang phục vụ cho liên bang. Trong thời gian chiến tranh hay trong tình trạng khẩn cấp quốc gia, Quốc hội có thể trao cho tổng thống những quyền hạn thậm chí còn rộng hơn nữa để điều hành nền kinh tế quốc dân và bảo vệ an ninh của Hợp chủng quốc. Một trong những đặc điểm nổi bật của các quy định pháp luật về trách nhiệm của Tổng thống - người đứng đầu ngành hành pháp là Tổng thống có quyền bổ nhiệm người đứng đầu tất cả các bộ và các cơ quan hành pháp, cùng hàng trăm quan chức khác, việc bổ nhiệm bộ trưởng được Thượng viện phê chuẩn. Các quy định đảm bảo cho việc điều hành của Tổng thống tập trung, thống nhất và trách nhiệm cao của Tổng thống đối với việc quản lý điều hành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Các bộ trưởng chịu trách nhiệm trước người bổ nhiệm - Tổng thống. Tương đồng với pháp luật các nước có nền hành chính phát triển, chế định từ chức cũng được quy định rõ ràng và có cơ chế thực thi trên thực tế đối với người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước Mỹ. Mỹ là một quốc gia đô thị hóa cao độ, với khoảng 80% dân số hiện sống ở khu vực đô thị, vì vậy chính quyền các thành phố hết sức quan trọng trong bộ máy nhà nước Mỹ. Mô hình Thị trưởng là mô hình đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng ở Mỹ.Công việc điều hành các thành phố lớn ở Mỹ vô cùng phức tạp. Chỉ nói riêng về mặt dân số, thành phố New York có số dân lớn hơn 41 trong 50 bang. Người ta thường nói rằng sau chức vụ tổng thống, vị trí lãnh đạo khó khăn nhất đất nước là vị trí thị trưởng thành phố New York. Các loại hình chính quyền thành phố trên toàn quốc khác nhau rất nhiều. Tuy nhiên, hầu như tất cả các chính quyền đều có một loại hội đồng trung tâm nào đó do cử tri lựa chọn bầu ra, và một quan chức điều hành được sự hỗ trợ của những người đứng đầu các sở (ban, ngành) để giải quyết các vấn đề của thành phố. Có ba dạng tổng quát của chính quyền thành phố: thị trưởng - hội đồng, ủy ban và nhà quản lý thành phố. Đây là những hình thái thuần tuý; nhiều thành phố đã phát triển một mô hình kết hợp hai hay ba hình thái đó. Tuy được thiết kế theo mô hình nào thì việc đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu và việc giám sát đối với người đứng đầu được quy định rất rõ nét. Thị trưởng - Hội đồng: Đây là hình thái lâu đời nhất của chính quyền thành phố tại Hợp chủng quốc, và cho tới đầu thế kỷ XX, nó được hầu hết các thành phố ở Mỹ áp dụng. Cơ cấu của nó tương tự cơ cấu của chính quyền bang và quốc gia, với một thị trưởng đắc cử là người đứng đầu ngành hành pháp, và một hội đồng được bầu ra, đại diện cho các vùng lân cận, hình thành nên ngành lập pháp. Thị trưởng bổ nhiệm những người đứng đầu các sở của thành phố và các quan chức khác, đôi khi với sự phê chuẩn của hội đồng. Thị trưởng có quyền phủ quyết các sắc lệnh của thành phố và thường xuyên chịu trách nhiệm chuẩn bị ngân sách của thành phố. Hội đồng thành phố phê chuẩn các sắc lệnh, các luật lệ của thành phố, ấn định thuế suất trên tài sản và phân chia ngân sách giữa các ngành khác nhau của thành phố. Uỷ ban: Hình thái này kết hợp hai chức năng lập pháp và hành pháp trong một nhóm quan chức, thường là ba người hay nhiều hơn, được bầu ra trên phạm vi toàn thành phố. Mỗi ủy viên của ủy ban này giám sát hoạt động của một hay nhiều sở của thành phố. Một người được chỉ định là người đứng đầu của tổ chức này và thường được gọi là thị trưởng, mặc dù quyền lực của thị trưởng chỉ tương đương quyền của các ủy viên đồng nhiệm khác trong ủy ban. Nhà quản lý thành phố: Nhà quản lý thành phố là một sự đáp ứng đối với tình trạng ngày càng phức tạp của các vấn đề đô thị đòi hỏi có sự tinh thông về quản lý mà thường không có được ở các quan chức được bầu chọn. Giải pháp cho vấn đề đó là ủy thác hầu hết quyền hành pháp, bao gồm việc cưỡng chế thực thi pháp luật và việc cung cấp các dịch vụ, cho một nhà quản lý thành phố có tính chuyên nghiệp, có kinh nghiệm và được đào tạo cẩn thận. Phương án nhà quản lý thành phố đã ngày càng được nhiều thành phố chấp nhận. Theo phương án này, một hội đồng nhỏ được bầu ra để soạn thảo các sắc lệnh cũng như hệ chính sách của thành phố, nhưng hội đồng này sẽ thuê một nhà quản lý hành chính được trả lương, còn gọi là nhà quản lý thành phố, để thực thi các quyết định của hội đồng. Nhà quản lý lập ra ngân sách thành phố và giám sát hầu hết các sở. Nhiệm kỳ của nhà quản lý phụ thuộc vào sự tín nhiệm của hội đồng. 1.4.4. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Nhật Bản Chế độ công chức của Nhật Bản trong đó có chế độ trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN được xây dựng muộn hơn các nước tư bản phương Tây. Thang 10 năm 1947, Chính phủ Nhật Bản đặt ra Luật công chức nhà nước. Sau đó Quốc hội và Nội các lại lần lượt ban bố Luật tổ chức hành chính nhà nước (7.1948); và Điều lệ riêng về giáo dục công chức (1.1949); Luật lương bổng của viên chức nói chung (4.1950); Luật công chức địa phương (12. 1950); Pháp lệnh liên quan đến việc đối xử với các công chức trong nền công vụ làm việc cho các tổ chức quốc tế (12.1970); Điều khoản bổ sung của Luật công vụ quốc gia về hệ thống giới hạn tuổi đối với quan chức chính phủ (6. 1981). Tháng 5. 1992 hệ thống làm việc năm ngày trong tuần đối với công chức nhà nước có hiệu lực. Cơ quan Nhân sự đã quy định nhiều quy tắc cụ thể quy định chế độ đối với công chức nói chung và người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước nói riêng, hình thành mọt chế độ công chức hiện đại đồng bộ và khá hoàn chỉnh, trong đó vấn đề trách nhiệm trong thi hành công vụ của công chức được xác định hết sức chặt chẽ. Một trong những đặc điểm nổi bật của nền công vụ Nhật Bản là trách nhiệm trong nền công vụ nói chung và trong từng tổ chức cụ thể của công chức được xác định rõ. Mỗi công chức trong đó có công chức lãnh đạo phải đặt mình trong hệ thống công vụ nói chung và phải có ý thức phối hợp liên ngành, liên bộ. Trong các năm từ 1981 đến 1994 đã có 172 luật liên quan đến cải cách quản lý hành chính được thông qua.Tháng 10-1996, Nhật Bản thành lập Hội đồng Cải cách hành chính và cải cách cơ cấu để tiến hành nghiên cứu, soạn thảo một báo cáo để trình lên Chính phủ. Hơn một năm sau, tháng 12-1997, bản báo cáo cuối cùng của Hội đồng đã hoàn tất và được Chính phủ thông qua. Dựa vào kết quả khảo sát, nghiên cứu trên, tháng 6-1998, Nhật Bản đã ban hành một đạo luật (cơ bản) về cải cách cơ cấu Chính phủ Trung ương và lập ra Ban Chỉ đạo Cải cách cơ cấu Chính phủ Trung ương. Trên cơ sở Luật Cải cách Chính phủ, Nhật Bản đã ban hành liên tiếp 17 luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trung ương và cơ quan hành chính độc lập (7-1999), 61 luật quy định vai trò, chức năng của các bộ và các cơ quan mới dự kiến sẽ thành lập (12-1999) và 90 nghị định của Chính phủ về tổ chức bên trong của các bộ, các hội đồng và các tổ chức khác (5-2000). Sau gần 4 năm tiến hành từng bước những công việc trên, một bộ luật cơ bản, các luật khác và nhiều văn bản dưới luật về cải cách hành chính và cơ cấu của Nhật Bản đã lần lượt được ban hành và tất cả bắt đầu có hiệu lực từ ngày 6-1-2001. Với việc ban hành một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật như vậy, cuộc cải cách hành chính và cơ cấu tại Nhật Bản, về cơ bản được xem là thành công. Các tổ chức lâm thời được lập ra để làm nhiệm vụ cải cách đã hoàn thành công việc và đã giải tán. Mục tiêu cải cách của Nhật Bản là xây dựng một chính phủ có bộ máy gọn nhẹ, hiệu quả; hoạch định được những chính sách mang tầm chiến lược, toàn diện để đáp ứng với sự thay đổi thường xuyên của tình hình; có những quan điểm linh hoạt, mềm dẻo để quản lý tốt những vấn đề khẩn cấp, bất thường và có những quan điểm rõ ràng, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao đối với nhân dân. Nội dung cơ bản của cải cách cơ cấu ở Nhật Bản là tăng cường sự lãnh đạo của Thủ tướng và Nội các; tổ chức lại các bộ theo hướng giảm số lượng các bộ, tăng cường vai trò tập trung quyền lực cho Thủ tướng; xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính độc lập. Phương pháp thực hiện cải cách là quy định rõ phạm vi thẩm quyền của các bộ và thiết kế những thủ tục chặt chẽ để phối hợp công tác giữa các bộ; thiết lập một hệ thống tổ chức để đánh giá giá trị, đánh giá chính sách và đặc biệt là xây dựng các bộ phận thông tin mạnh; tách bộ phận kế hoạch, hoạch định chính sách khỏi các cơ quan có chức năng tổ chức, thực hiện và tư nhân hóa những công việc có thể tư nhân hóa được. Để xác định trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN Nhật Bản đã xác định những quan điểm chỉ đạo và nguyên tắc cơ bản làm căn cứ cho việc sắp xếp, thành lập các bộ mới và xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ là, tách chức năng soạn thảo chính sách và lập kế hoạch khỏi chức năng thực hiện chính sách; tăng cường sự hợp tác giữa các bộ phận soạn thảo và thực thi chính sách của Chính phủ trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm của từng bên và thiết lập bộ phận để đánh giá chính sách. Một trong những nguyên tắc thành lập bộ mới ở Nhật bản đó là xác định rõ trách nhiệm từng Bộ và người đứng đầu các Trên cơ sở những quan điểm, nguyên tắc đó, bộ máy Chính phủ ở trung ương hiện nay đã được thu gọn đáng kể, từ 23 bộ và một văn phòng xuống còn 12 bộ và một văn phòng. Các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước Nhật Bản hiện nay tăng cường quyền lực cũng như làm rõ trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ đối với các Bộ. Thủ tướng có thể khởi xướng các chính sách và thông qua Ban Thư ký Nội các cùng Văn phòng Nội các (với vai trò, vị trí đã được nâng lên và chính sách cho phép thu hút, điều động nhân tài từ các bộ) để hình thành các chính sách đó và tăng cường bổ nhiệm các chức vụ chính trị tại các bộ. Đây là những biện pháp nhằm tập trung quyền lãnh đạo, tăng cường vai trò của Thủ tướng. Trước đây, các chính sách nói chung được đề xuất từ các bộ, đến nay những chính sách quan trọng có tầm chiến lược chủ yếu sẽ được đề xuất từ Thủ tướng. Trước đây, không có chính trị gia trong hệ thống hành chính, nay trung bình mỗi bộ có 5 chức vụ chính trị: một số thứ trưởng được chọn trong số các đại biểu Quốc hội và được chỉ định vào Văn phòng Nội các và các bộ, có vị trí dưới bộ trưởng và trên các thứ trưởng phụ trách hành chính, có quyền thay bộ trưởng và chịu một phần trách nhiệm quan trọng của bộ. Một hệ thống các trợ lý chính trị của bộ trưởng cũng đã được chỉ định vào các bộ tham gia hoạch định chính sách và những công việc liên quan đến chính trị. Một trong những điểm nổi bật của cải cách hành chính Nhật Bản là đề cao vai trò, trách nhiệm của Phủ Nội các, Ban Thư ký nội các. Đây là mô hình bảo đảm trách nhiệm của Thủ tướng đặc biệt là trách nhiệm điều hành Chính phủ. Bộ máy Chính phủ Nhật bản gồm 12 Bộ, bộ máy còn lại của Chính phủ Nhật Bản đặt tại Phủ Nội các do Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo. Phủ Nội các có hai cơ quan khác nhau: Ban Thư ký Nội các và Văn phòng Nội các đều có chức năng giúp việc cho Thủ tướng, quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó Văn phòng Nội các là cơ quan hỗ trợ hành chính cho Ban Thư ký Nội các. Ngoài ra, tại đây còn có các cơ quan khác như Cục Pháp chế Nội các và Hội đồng An ninh Nhật Bản. Ban Thư ký Nội các là cơ quan hoạch định và điều phối có quyền lực để hỗ trợ trực tiếp cho Thủ tướng: hoạch định các chính sách cơ bản để quản lý đất nước; chịu trách nhiệm về chương trình nghị sự của Nội các và những vấn đề chung liên quan đến Nội các; phối hợp và lồng ghép các biện pháp quản lý của các bộ; thu thập, điều tra những thông tin liên quan đến chính sách quan trọng của Nội các. Chức năng hoạch định chính sách và điều phối toàn diện của Ban Thư ký nội các đã thực sự được củng cố nhờ sự cải cách về tổ chức. Văn phòng Nội các là cơ quan hành chính có vai trò kép. Một mặt, có trách nhiệm hỗ trợ cho Nội các (trong vai trò này, Văn phòng Nội các có vị trí cao hơn so với các bộ); mặt khác, Văn phòng Nội các được xếp ngang các bộ trong việc tiếp nhận, xử lý các vấn đề của các cơ quan trong bộ máy hành chính. Văn phòng Nội các có nhiều hội đồng chuyên môn như Hội đồng chính sách kinh tế và tài chính; Hội đồng nghệ thuật, khoa học và công nghệ; Hội đồng bình đẳng giới; Hội đồng phòng chống thiên tai; ủy ban năng lượng nguyên tử và một cơ quan đặc biệt phụ trách những vấn đề của Hoàng gia. Ngoài ra, Văn phòng Nội các còn có một số cơ quan độc lập như: Cục Phòng vệ, ủy ban an toàn công cộng quốc gia, Cơ quan giám sát tài chính (thanh tra, giám sát mọi vấn đề về tài chính), Cục Nhân sự quốc gia. Văn phòng Nội các là cơ quan phối hợp toàn diện về chính sách kinh tế, tài chính; nghệ thuật và khoa học - công nghệ; phòng chống thiên tai; bình đẳng giới, phát triển vùng Ô-ki-na-oa và Hô-kai-đô... Trong việc ban hành các quyết định quản lý, chức năng soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu thuộc về các bộ, Văn phòng Nội các và Ban Thư ký Nội các (thực tế, 90% các dự thảo luật do các cơ quan này đề xuất, soạn thảo; 10% còn lại do các đại biểu Quốc hội đề xuất và soạn thảo). Chức năng thẩm định văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện tập trung, chủ yếu thuộc về Cục Pháp chế Nội các (Cục này là một cơ quan độc lập, đặt tại Phủ Nội các, do người có chức vụ tương đương Bộ trưởng nhưng không phải là chính trị gia đứng đầu) và Ban Thư ký Nội các. Bộ Tư pháp không có chức năng thẩm định các văn bản luật, trừ những nội dung liên quan đến lĩnh vực quản lý của bộ. Quy trình xây dựng và trình, ban hành các văn bản luật được quy định chặt chẽ, bao gồm nhiều bước rất cụ thể: Bước 1, các văn bản dự thảo luật do các bộ soạn thảo sẽ được chuyển tới Cục Pháp chế Nội các để thẩm tra, nghiên cứu, lấy ý kiến các cơ quan liên quan và trình lên Ban Thư ký Nội các. Bước 2, Ban Thư ký Nội các xem xét các văn bản dự thảo đó và có quyền quyết định việc trình Nội các hoặc đình lại. Bộ trưởng chủ trì việc dự thảo luật phải có tờ trình Thủ tướng, xin trình bày dự luật trước Nội các và đích thân trình bày trước Nội các. Nếu được 100% thành viên Nội các nhất trí, dự thảo được thông qua sẽ được trình Quốc hội. Bước 3, Hội nghị toàn thể của Quốc hội thông qua dự án luật. Trong trường hợp có vấn đề cần xem xét thêm, dự thảo sẽ được chuyển đến ủy ban chuyên trách của Quốc hội để thẩm định và đích thân Bộ trưởng sẽ phải giải thích trước ủy ban này. Dự luật được ủy ban chuyên trách của Quốc hội bỏ phiếu nhất trí sẽ được đưa ra Hội nghị toàn thể của Quốc hội một lần nữa để thông qua. Bước 4, mỗi dự thảo luật đều phải thông qua hai Viện (không quan trọng thứ tự trước sau) là Thượng viện và Hạ viện với quy trình giống nhau. Bước 5, thực hiện các thủ tục để ban hành. Quy trình xây dựng, ban hành các văn bản dưới luật (Nghị định của Nội các để hướng dẫn thi hành luật, Thông tư của bộ để hướng dẫn thực hiện nghị định) cũng có những quy định tương tự. Nghị định do các bộ soạn thảo, chuyển qua Cục Pháp chế Nội các để thẩm định và thông qua Ban Thư ký Nội các, trình lên Nội các. Thông tư do các bộ trưởng tự quyết theo những chỉ dẫn của nghị định. 1.4.5. Những giá trị tham khảo cho hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam Qua nghiên cứu pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính của một số nước cho thấy rằng. Một, đa phần các nước trên thế giới đều xác định pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là một chế định, một bộ phận quan trọng trong Luật công vụ, công chức, Luật Đạo đức công vụ. Luật pháp các nước thường quy định cụ thể về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN trong các văn bản pháp luật theo từng đối tượng, vị trí, cơ quan (Thủ tướng, Bộ trưởng, Vụ trưởng, Cục trưởng, Trưởng phòng...) Hai, về tuyển chọn người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước nhiều nước thực hiện bằng phương thức thi tuyển công khai (trừ Thủ tướng). Ví dụ như Trung quốc từ năm 2000 đã thí điểm thi tuyển các chức danh Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng. Pháp luật các nước có quy định thẩm quyền cấp trưởng được chọn cấp phó. Ba, pháp luật về trách nhiệm đứng đầu của nhiều nước đều coi trọng và qui định khá cụ thể về trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức của người đứng đầu. Bốn, các nước đều qui định khá cụ thể cơ chế kiểm tra, giám sát về thực hiện chức năng, nhiệm vụ... lãnh đạo, quản lý của người đứng đầu. Năm, Việc thực hiện trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN gắn với việc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước theo các nguyên tắc công khai, dân chủ và minh bạch, theo đó việc giao vị trí đứng đầu cơ quan hành chính cho một cá nhân được thực hiện theo nguyên tắc cạnh tranh (thông qua thi tuyển) và các cơ chế bổ nhiệm mang tính minh bạch. Phần thứ hai pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước - thực trạng và những vấn đề đặt ra 2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước 2.1.1. Hệ thống văn bản pháp luật về trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN cũng có những bước phát triển đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ trong việc xác định trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính đã được quy định trong nhiều văn bản pháp luật, tạo thành một hệ thống các quy định về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN. Có thể đánh giá sự phát triển và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN qua các giai đoạn theo các bản Hiến pháp. 2.1.1.1. Giai đoạn Hiến pháp 1946 đến 1959 Trong giai đoạn này số lượng văn bản và cỏc qui định phỏp luật về trỏch nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chớnh nhà nước cũn ớt. Chủ yếu là tập trung trong Sắc lệnh 76 do Chủ tịch Hồ Chớ Minh ký ngày 20-5-1950. Đây là văn bản đặt nền móng cho việc xây dựng đội ngũ công chức hành chính trong đó có người đứng đầu các cơ quan hành chính trong thực thi công vụ với những quy định đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các có quan hành chính nhà nước cả ở trung ương và địa phương bao gồm Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Kỳ, Liên khu, Giám đốc các Nha. Cụ thể, trong Sắc lệnh 76 qui định khá rõ trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước trên các mặt: “Quản trị: Công chức thuộc Bộ nào do Bộ trưởng Bộ ấy quản trị. Những công chức làm việc tại các cơ quan Trung ương không thuộc Bộ nào sẽ do Thủ tướng quản trị. Các Bộ trưởng có thể uỷ quyền cho Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Kỳ hay Liên khu, quyền quản trị những công chức làm việc trong các cơ quan thuộc phạm vi Kỳ hay Liên khu. Sử dụng: Tuỳ nhu cầu công việc, Bộ trưởng sẽ giao quyền sử dụng một số công chức do Bộ quản trị cho Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Kỳ hay Liên khu, hay Giám đốc Nha. Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Kỳ hay Liên khu sẽ giao quyền sử dụng một số công chức do Uỷ ban được uỷ quyền quản trị cho Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh hay các Giám đốc chuyên môn Kỳ hay Liên khu”. Nhận xét chung: Mặc dù ngoài đoạn này số lượng các văn bản và các qui định pháp luật điều chỉnh liên quan đến trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước còn ít. Nhưng điểm nổi bật trong thời kỳ này là đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước trong quản lý và sử dụng công chức thuộc quyền. 2.1.1.2. Giai đoạn Hiến pháp 1959 đến năm 1980 Giai đoạn này pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN tiếp tục được ghi nhận cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật. Trong đó phải kể đến các quy định của Hiến pháp 1959 và Luật Tổ chức HĐND và ủy ban hành chính các cấp. - Điểm nổi bật trong các quy định về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN là tiếp tục bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và chế độ thủ trưởng trong các cơ quan hành chính nhà nước. Các quy định của Luật Tổ chức HĐND và ủy ban hành chính quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương: “Hội đồng Chính phủ, Uỷ ban hành chính cấp trên trực tiếp có quyền đình chỉ công tác của thành viên Uỷ ban hành chính phạm lỗi. Uỷ ban hành chính có thành viên phạm lỗi sẽ đưa việc phạm lỗi của thành viên đó ra HĐND cùng cấp xét định.  Uỷ ban hành chính các cấp làm việc theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, phân công phụ trách. Mỗi thành viên của Uỷ ban hành chính chịu trách nhiệm chung về công tác của Uỷ ban hành chính và chịu trách nhiệm riêng về phần công tác của mình. Chủ tịch Uỷ ban hành chính lãnh đạo công tác của Uỷ ban hành chính, triệu tập và chủ toạ các cuộc họp của Uỷ ban hành chính; bảo đảm việc chấp hành các nghị quyết của HĐND cấp mình, các nghị quyết, nghị định, quyết định, thông tư và chỉ thị của Uỷ ban hành chính và của cơ quan Nhà nước cấp trên. Phó chủ tịch giúp Chủ tịch lãnh đạo công tác của uỷ ban hành chính, có thể được Uỷ ban hành chính phân công chỉ đạo từng khối công tác của Uỷ ban hành chính và uỷ nhiệm thay Chủ tịch khi Chủ tịch vắng mặt. Uỷ viên thư ký lãnh đạo văn phòng của uỷ ban hành chính, giải quyết công việc hàng ngày của Uỷ ban hành chính dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch và các Phó chủ tịch. Chủ tịch, các Phó chủ tịch, uỷ viên thư ký họp thành bộ phận thường trực của Uỷ ban hành chính”. Nhận xét chung: Từ những qui định trên cho thấy pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước giai đoạn này mang nặng dấu ấn trách nhiệm tập thể (Hội đồng). Các qui định về trách nhiệm cá nhân còn ít và chỉ dừng ở những qui định mang tính nguyên tắc, thiếu tính cụ thể. Tuy nhiên, pháp luật thời kỳ này có những bước phát triển hơn thời kỳ trước cả số lượng văn bản và phạm vi điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Ví dụ: trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước bao gồm trách nhiệm của Chủ tịch (Thủ trưởng) và phó Chủ tịch… 2.1.1.3. Giai đoạn Hiến pháp 1980 - 1992 Pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN giai đoạn Hiến pháp 1980 tiếp tục ghi nhận và cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ và chế độ thủ trưởng trong các cơ quan hành chính nhà nước. Các quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước được xây dựng và tổ chức thực hiện trong điều kiện nền hành chính nhà nước trong giai đoạn tập trung và từng bước chuyển đổi. Vì vậy các quy định về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN được quy định chủ yếu trong Hiến pháp và các Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng, Luật Tổ chức HĐND và UBND các cấp và một số văn bản pháp qui do Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền khác ban hành. Việc quy định cụ thể trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN trong từng lĩnh vực công tác gắn với nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm pháp lý của NĐĐCCQHCNN chưa có bước phát triển đồng bộ. - Dấu ấn của chế độ trách nhiệm thủ trưởng (trách nhiệm tập thể lãnh đạo) trong các quy định về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN vẫn còn đậm nét. Tuy nhiên ở mức độ nhất định các quy định pháp luật cũng tiếp tục khẳng định và kế thừa nguyên tắc trách nhiệm cá nhân NĐĐCCQHCNN giai đoạn trước đó. Luật Tổ chức Hội đồng bộ trưởng 1981 quy định: “Hội đồng bộ trưởng chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng Nhà nước. Hội đồng bộ trưởng tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, đồng thời phát huy tính chủ độn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC tong hop cap Bo (Sua lan cuoi).doc
Tài liệu liên quan