Báo cáo Quản lý bệnh Phytophthora hại cây trồng ở Việt Nam CARD

Mục lục

1. Thông tin vềcác tổchức tham gia dựán.1

2. Trích lược dựán (Project Abstract).2

3. Tóm tắt (Executive Summary).2

4. Giới thiệu và thông tin cơbản.6

5. Tiến độdựán đến kỳbáo cáo (Progress to Date).7

5.1. Những hoạt động nổi bật (Implementation Highlights).7

5.2. Lợi ích của nông dân (Smallholder Benefits).9

5.3. Xây dựng năng lực (Capacity Building).11

5.4. Quảng bá.15

5.5. Quản lý dựán.16

6. Báo cáo vềnhững vấn đềliên quan( Cross-Cutting Issues).17

6.1. Môi trường.17

6.2. Giới và vấn đềxã hội.19

7. Những vấn đềthực hiện và khảnăng bền vững của dựán.19

7.1. Những vấn đềvà những tồn tại (Issuesand Constraints).19

7.2. Khảnăng bền vững.20

8. Các bước then chốt tiếp theo.20

9. Kết luận.21

10. Lời cam đoan (StatutoryDeclaration).

11. Phụlục I. Khung dựán

12. Phụlục II. Các bài báo cáo của học viên

13. Phụlục III. Những khảo nghiệm của nông dân điển hình

14. Phụlục IV. Những tài liệu tuyêntruyền khuyến nông

15. Phụlục V. Kết quả điều tra dựán

pdf75 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1902 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Quản lý bệnh Phytophthora hại cây trồng ở Việt Nam CARD, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã thực hiện ở những lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học tổ chức tại Viện BVTV, Viện NCCAQMN và TTCAQTTH vào năm 2005 và 2007. b. Nhận biết về nơi để thu thập thông tin về quản lý bệnh hại cây trồng. c. An toàn hơn, thích hợp hơn, và sử dùng hoá chất đúng mục đích . • Bây giờ nhiều biện pháp canh tác hơn được áp dụng để quản lý bệnh trên cây trồng (hình 6). Sử dụng hoá chất giảm, hoặc đúng mục đích hơn. 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Chemical Hygiene Drainage Mulch Cultivar selection Fertiliser None Pa rt ic ip an ts (% ) 2005 2007 (Chemical: hoá chất. Hygiene: vệ sinh. Drainage: thoát nước. Mulch: tủ gốc. Cultivar selection: chọn giống. Fertiliser: phân bón. None: không) Hình 6. Những phương pháp chủ yếu dùng để phòng trừ bệnh ở các địa phương của các học viên tham dự lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học, do các học viên xếp hạng. Sự áp dụng nhiều biện pháp canh tác hơn đã phổ biến hơn sau lớp huấn luyện thứ nhất. Sự sử dụng hoá chất đã giảm qua các khoá Huấn luyện của dự án. Số liệu trình bày giá trị trung bình thu được từ những câu hỏi kết hợp trong những phiếu điều tra đã thực hiện ở những lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học tổ chức tại Viện BVTV, Viện NCCAQMN và TTCAQTTH vào năm 2005 và 2007. d. Giảm tỉ lệ bệnh • Những kết quả từ những khảo nghiệm nông dân cho thấy những biện pháp phòng trừ mới là có hiệu quả làm giảm tỉ lệ bệnh (phụ lục II) e. Chất lượng sản phẩm tốt hơn. f. Tăng năng suất (phụ lục III) g. Thu nhập cao hơn. 10 5.3. Xây dựng năng lực (Capacity Building) Dự án này đã nâng cao kiến thức cơ bản, những kỹ năng và sự tự tin về chẩn đoán bệnh cho các nhà khoa học, các cán bộ Khuyến nông và nông dân Việt Nam tham gia dự án. Chẩn đóan bệnh đúng, kết hợp với những kiến thức về các biện pháp quản lý bệnh đã làm giảm tỉ lệ bệnh và nâng cao chất lượng và số lượng sản phẩm. 1. Những lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học ở Viện BVTV, TTCAQTTH, Viện NCCAQMN Tổ chức vào tháng 6 năm 2005 (bắt đầu) và tháng 1 và tháng 4 năm 2007 (kết thúc) 77 học viên của lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học đầu tiên đã xác định những khó khăn chính mà nông dân đang đối đầu. Dựa vào những phân tích này, học viên đã học về sinh học Phytophthora, nguyên nhân gây bệnh và các biện pháp phòng trừ sẵn có và biết tại sao chúng lại có hiệu quả. Học viên đã được huấn luyện về chẩn đoán bệnh ngoài đồng và trong phòng thí nghiệm, nâng cao năng lực của các cơ quan về chuẩn đoán triệu chứng bệnh, phân lập nấm bệnh, giám định nấm bệnh, nghiên cứu và những biện pháp quản lý bệnh. Tầm quan trọng đối với cả nhà nghiên cứu khoa học và cán bộ Khuyến nông được đặt trên những lợi ích làm việc trực tiếp với nông dân để phát triển và thử nghiệm các biện pháp quản lý trang trại thích hợp và mang lại hiệu quả kinh tế. Kết quả điều tra vào đầu và cuối lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học cho thấy rằng các học viên đã trở nên tự tin hơn về sự hiểu biết, chuẩn đoán bệnh và quản lý bệnh Phytophthora của họ (hình 7). Ở lớp huấn luyện cuối cùng chúng tôi đã thấy những học viên dự lớp huấn luyện đầu tiên đã học và thực hành các kỹ thuật đã học để phân lập và giám định Phytophthora từ mẫu cây bệnh và từ đất. 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 No knowledge Below average Average Good Excellent Pa rti ci pa nt s (% ) 2005 2007 Hình 7. Tỉ lệ % học viên mô tả sự hiểu biết hiện có của họ về quản lý bệnh như không biết (no knowledge) , dưới trung bình (below average), trung bình (average), tốt (good), rất tốt (excellent). Các học viên đã xếp hạng sự hiểu biết của họ về quản lý bệnh cao hơn vào giai đoạn kết thúc dự án. Những số liệu biểu thị giá trị trung bình thu được từ những câu trả lời kết hợp trong bảng câu hỏi ở các lớp Huấn luyện cán bộ Nghiên cứu Khoa học được tổ chức ở Viện BVTV,Viện NCCAQMN, và TTCAQ Thừa Thiên Huế năm 2005 và 2007. Trong suốt lớp huấn luyên đầu tiên, học viên đã được giới thiệu những biện pháp quản lý bệnh do những loài Phytophthora gây ra. Ở lớp Huấn luyện đầu tiên, biện pháp hoá học đã được khẳng định là phương pháp phổ biến nhất để phòng trừ bệnh. Nhưng ở lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học cuối cùng học viên đã đề nghị áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác, như vệ sinh đồng ruộng, thoát nước tốt và chọn giống kháng, đã gia tăng các biện pháp phòng trừ bệnh Phytophthora (Hình 8) 11 010 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Chemical Hygiene Drainage Mulch Cultivar selection Fertiliser None Pa rt ic ip an ts (% ) 2005 2007 (Chemical: hoá chất. Hygiene: vệ sinh. Drainage: thoát nước. Mulch: tủ gốc. Cultivar selection: chọn giống. Fertiliser: phân bón. None: không) Hình 8. Những phương pháp phòng trừ bệnh hiệu quả nhất, do các học viên xếp hạng. Trong khi biện pháp hoá học vẫn được xem là những phương tiện phòng trừ bệnh hiệu quả nhất, nhưng bây giờ việc sử dụng hoá chất thường được kết hợp với các biện pháp quản lý bệnh khác. Những số liệu biểu thị giá trị trung bình thu được từ những câu trả lời kết hợp trong bảng câu hỏi ở cáclớp Huấn luyện cán bộ Nghiên cứu Khoa học được tổ chức ở Viiên BVTV,Viên NCCAQMN, và TTCAQ Thừa Thiên Huế năm 2005 và 2007. 2. Tài liệu huấn luyện (Training Manual) Một bộ tài liệu huấn luyện đã được phát triển cho những lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học đầu tiên. Các học viên được phát tài liệu học tập copy và một đĩa CD (đã nộp với báo cáo tiến độ dự án lần đầu tiên). Tài liệu bao gồm các bản copy của tất cả các bài báo cáo, trong đó có một số tài liệu được dịch sang tiếng Việt và một số chương thích hợp được chọn lọc từ tài liệu chuyên khảo số 114 của ACIAR (Drenth A & Guest DI, 2004. Diversity and Management of Phytophthora in Southeast Asia) cũng được dịch sang tiếng Việt. Sự biên soạn và phân phối bộ tài liệu và sách chuyên khảo số 114 của ACIAR đã cung cấp cho học viên một tài liệu hướng dẫn để có thể tham khảo lâu dài. 3. Những lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông (Extension Training Workshops) Những lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông trong dự án này mục đích là phát triển những kiến thức đã tiếp thu từ những lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học ở tất cả các mức về cây trồng Việt Nam. Những lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông đã được Viện BVTV, Viện NCCAQMN, và TTCAQTTH tổ chức. Những học viên đã được dạy về nhận biết những triệu chứng bệnh và được giới thiệu những chiến lược quản lý tổng hợp bền vững và hiệu quả. Sau khi tham gia lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông đầu tiên, các học viên đã nâng cao hơn sự hiểu biết của họ về quản lý bệnh so với trước khi tham dự lớp huấn luyện (hình 9). Như mong đợi, các học viên của lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông do TTCAQTTH tổ chức đã xếp hạng những yếu tố quan trọng gây ra mất mùa. Sự nhận thức về sâu bệnh hại gây ra mất mùa đã tăng lên sau khi huấn luyện. Hoặc là thời tiết cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho bệnh phát triển, làm cho tỷ lệ bệnh cao hơn và hậu quả là tăng mất mùa (hình 10). Một bộ tài liệu dựa vào những gì phát triển ở lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học đã cung cấp cho học viên lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông. Các học viên từ những lớp huấn luyện này đã giám sát các khảo nghiệm đồng ruộng có nông dân tham gia và thực hiện các hoạt động Khuyến nông liên quan đến nông dân. Những kết quả của các khảo nghiệm đồng ruộng có nông dân tham gia được trình bày ở những lớp Huấn luyện cuối cùng trong tháng 1 và tháng 4 năm 2007. 12 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 No knowledge Below average Average Good Excellent Pa rt ic ip an ts (% ) First workshop Second workshop Hình 9. Tỉ lệ % học viên mô tả sự hiểu biết hiện có của họ về quản lý bệnh như không biết (no knowledge) , dưới trung bình (below average), trung bình (average), tốt (good), rất tốt (excellent). Các học viên đã xếp hạng sự hiểu biết của họ về quản lý bệnh cao hơn ở lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông lần 2. Những số liệu biểu thị giá trị trung bình thu được từ những câu trả lời kết hợp trong bảng câu hỏi ở các lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông do TTCAQ Thừa Thiên Huế tổ chức. 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Weather Management Diseases & pests Lack of fertiliser Water Pa rt ic ip an ts First workshop Second workshop Hình 10. Nguyên nhân quan trọng nhất gây ra mất mùa theo các học viên lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông do TTCAQTTH tổ chức. Những nguyên nhân gây mất mùa đã thay đổi. Sự nhận thức về dịch hại gây mất mùa đã tăng lên sau khi được huấn luyện. Những số liệu biểu thị giá trị trung bình thu được từ những câu trả lời kết hợp trong bảng câu hỏi ở cáclớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông do TTCAQTTH tổ chức. Dựa trên những câu trả lời từ học viên lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông, biện pháp hoá học vẫn là phương pháp phổ biến nhất để phòng trừ bệnh (hình 11) và vẫn được xếp hạng là phương pháp hiệu quả nhất để phòng trừ bệnh (hình 12). Sự khác nhau này từ những câu trả lời của các học viên lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học, đề nghị rằng các nông dân và cán bộ Khuyến nông có thể miễn cưỡng để thử các phương pháp mới cho đến khi họ tự tin những gì họ làm, hoặc những chẩn đoán đúng tạo điều kiện chọn hoá chất thích hợp và sử dụng hoá chất hiệu quả hơn những gì họ làm trước đây. Điều này được xác nhận từ những báo cáo về hiệu quả thấp của hoá chất đã báo cáo trong lớp huấn luyện đầu tiên. Sự áp dụng biện pháp canh tác được tăng lên trong quá trình thực hiện dự án (hình 11), cho thấy rằng nông dân đang mong muốn được áp dụng thử các biện pháp phòng trừ mới. Thật là thú vị, mặc dù biện pháp thoát nước và tủ gốc được xếp hạng là những biện pháp phòng trừ hiệu quả (hình 12), nhưng nó không được ghi nhận là những phương pháp chính để quản lý bệnh. Các học viên thấy sử dụng giống kháng thì có nhiều tiềm năng (hình 11,12). Tuy nhiên, hiện tại, nếu có, ở Việt Nam đang thu thập tập đoàn giống để chọn lọc và lai tạo. 13 010 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Chemical Hygiene Drainage Mulch Cultivar selection Fertiliser None Pa rt ic ip an ts (% ) First workshop Second workshop (Chemical: hoá chất. Hygiene: vệ sinh. Drainage: thoát nước. Mulch: tủ gốc. Cultivar selection: chọn giống. Fertiliser: phân bón. None: không) Hình 11: Những phương pháp chính mà nông dân áp dụng để quản lý bệnh, do các học viên lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông xếp hạng. Những số liệu biểu thị giá trị trung bình thu được từ những câu trả lời kết hợp trong bảng câu hỏi ở các lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông do TTCAQTTH tổ chức. 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Chemical Hygiene Drainage Mulch Cultivar Pa rt ic ip an ts (% ) First workshop Second workshop Hình 12. Các phương pháp quản lý bệnh được xếp hạng là hiệu quả nhất do các học viện lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học tổ chức tại Viện BVTV, TTCAQTTH và Viện NCCAQMN năm 2005 và 2007. Giai đoạn cuối của dự án, các biện pháp vệ sinh đồng ruộng đã được xem là quản lý bệnh hiệu quả hơn. Những số liệu biểu thị giá trị trung bình thu được từ những câu trả lời kết hợp trong bảng câu hỏi ở các lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông do TTCAQTTH tổ chức. 4. Các Khảo nghiệm Đồng ruộng Có Nông dân Tham gia (Farmer Participatory Action Research Trials) Ở lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học đầu tiên, học viên đã được giới thiệu về Khảo nghiệm Đồng ruộng Có Nông dân Tham gia như là một công cụ để huấn luyện nông dân và truyền đạt các biện pháp phòng trừ bệnh. Việc này đã phát triển năng lực tổ chức huấn luyện khuyến nông và phổ biến các chiến lược quản lý bệnh đến cộng đồng nông thôn. Các Khảo nghiệm Đồng ruộng Có Nông dân Tham gia đã được thiết lập do các cán bộ Nghiên cứu Khoa học, cán bộ Khuyến nông và các học viên ở mỗi vùng của 3 miền và trên 450 nông dân ở 16 tỉnh. Những kết quả khảo nghiệm đã được báo cáo ở các lớp Huấn luyện Cán bộ Nghiên cứu Khoa học cuối cùng tại mỗi Viện/Trung tâm và các bài báo cáo này đã được nộp bằng đĩa CD (phụ lục II). Đến bây giờ các kết quả cho thấy có triển vọng giảm tỉ lệ bệnh và tăng năng suất cho nông dân (phụ lục III). Do sản xuất cây trồng theo mùa tự nhiên (cây lâu năm), nhất là cây thân gỗ, và do cần có thời gian để phổ biến và thực hiện các biện pháp quản lý bệnh và thu kết quả (như những thay đổi về năng suất), thu nhập thật và những lợi ích của những biện pháp quản lý mới sẽ trở thành rõ ràng hơn chỉ sau khi dự án đã kết thúc. Các nông dân tham gia khảo nghiệm đồng ruộng sẽ là một đầu mối liên lạc có giá trị cho các hoạt động khuyến nông sau này. 14 5. Chuyến viếng thăm Úc của các nhà khoa học Việt Nam Thạc sĩ Nguyễn Thị Ly và Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoà đến thăm Úc vào tháng 7 /2005, Thạc sĩ Đoàn Nhân Ái đến Úc vào tháng 7/ 2006. Các lãnh đạo dự án Việt Nam đã chọn 3 nhà khoa học Việt Nam tham dự chuyến tham quan học tập tại Úc về các biện pháp kỹ thuật tốt nhất trong vườn uơm và trên vườn trồng, và chuẩn bị cho việc huấn luyện chẩn đoán bệnh Phytophthora sau này. Chuyến tham quan này đã xây dựng năng lực cho các đơn vị (Viện, Trung tâm), cho các nhà khoa học thấy rõ các kỹ thuật trồng trọt thế giới và mục đích là làm tăng tối đa những lợi ích lâu dài cho mỗi đơn vị. 6. Các nhà khoa học Việt Nam từ Viện BVTV và Viện NCCAQMN và các đối tác Úc đến thăm Huế Tiến sĩ Nguyễn Minh Châu (Viện NCCAQMN), Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoà (Viện NCCAQMN), Thạc sĩ Nguyễn Thị Ly (Viện BVTV), Thạc sĩ Nguyễn Vĩnh Trường (trường Đại học Nông Lâm Huế) và các thành viên dự án phía Úc đã thăm các Khảo nghiệm Đồng ruộng Có Nông dân Tham gia do TTCAQTTH (ông Đoàn Nhân Ái) tổ chức. Chuyến thăm này tạo ra một cơ hội độc nhất vô nhị cho các thành viên dự án Việt Nam được gặp nhau và thiết lập những mạng lưới mạnh mẽ hơn. Nó cũng tạo cơ hội cho các nhà khoa học từ miền bắc và miền nam đến quan sát bệnh và các thực hành quản lý bệnh hại cây trồng mà những loài cây này không được trồng hoặc không có ở miền bắc hay nam. 7. Những hoạt động khác kết hợp với dự án 7.1 Toạ đàm ở trường Đại học Nông Lâm Huế Tiến sĩ Andre Drenth và Giáo sư David Guest đã trình bày về Phytophthora tại các buổi toạ đàm (seminars) ở trường Đại học Nông Lâm Huế vào tháng 2 năm 2006. 7.2 Đề tài nghiên cứu sinh của cô Phạm Ngọc Dung và ông Nguyễn Vĩnh Trường Cô Dung (Viện BVTV) đã bắt đầu thực hiện đề tài nghiên cứu sinh về " Nghiên cứu bệnh Phytophthora trên cây tiêu" ở tỉnh Dak Nông. Giáo sư Guest và Tiến sĩ Drenth đã góp ý cho cô Dung chọn đề tài và các phương pháp nghiên cứu. Cô Dung đã tham dự lớp Huấn luyện cuối cùng ở TTCAQTTH vào tháng 4 năm 2007 và tham quan học tập ở Úc vào tháng 7 năm 2007. Ở miền Trung Việt Nam cô ta có thể đã thăm nhiều vườn tiêu và thảo luận về đề tài của cô với ông Nguyễn Vĩnh Trường, ông Trường hiện đang thực hiện đề tài nghiên cứu sinh tại trường Đại học Sydney-Úc về bệnh Phytophthora trên cây tiêu ở miền trung Việt Nam. 7.3. Thạc sĩ Đoàn Nhân Ái (TTCAQTTH) đã trình bày " Quản lý Tổng hợp các bệnh Phytophthora trên cây tiêu" ở 3 lớp Huấn luyện Nông dân do Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Quảng Trị tổ chức vào tháng 3 năm 2007, và ở diễn đàn " Các giải pháp kỹ thuật nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị hồ tiêu" do Cục Khuyến Nông Quốc gia tổ chức tháng 5/2007 tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. 5.4. Quảng bá - Những tập tài liệu kỹ thuật, áp phích, tờ rơi (bướm) và tài liệu kỹ thuật khác do Viện BVTV, TTCAQTTH và Viện NCCAQMN biên soạn và truyền bá các pf quản lý bệnh cho các cán bộ Khuyến nông và nông dân (phụ lục IV) - Bài báo viết về 14 cách phòng trừ bệnh Phytophthora trên cây bưởi do cô Trần Thị Phương Chi (Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Đồng Nai) biên soạn được đăng trên báo Nông nghiệp ngày 16 tháng 1 năm 2006. 15 - Thạc sĩ Đoàn Nhân Ái (TTCAQTTH) đăng bài Quản lý Tổng hợp Bệnh Phytophthora hại cây tiêu (16 trang) trong tạp chí Khuyến Nông ngày 11 tháng 5 năm 2007 (Phụ lục IV) 5.5. Quản lý dự án Chúng tôi có vài ý kiến về quản lý dự án như sau: 1. Một vấn đề quan trọng là trong việc quản lý nội bộ dự án của chúng tôi đã là thường xuyên, hoặc trong vài trường hợp, thông tin không thường xuyên giữa các lãnh đạo của mỗi đơn vị tham gia dự án. Một điều rất quan trọng là các thành viên Việt Nam liên lạc với nhau và với các thành viên dự án phía Úc để có thể thảo luận về các hoạt động và tiến trình thực hiện dự án. Liên lạc đều đặn về các hoạt động dự án thúc đẩy dự án dễ dàng và thành công. Củng cố mối thông tin liên lạc giữa các tổ chức Việt Nam nên được đảm nhiệm bởi Ban Quản Lý dự án (PMU). 2. Trách nhiệm báo cáo nên giao cho đối tác Việt Nam. Trong dự án này tất cả các báo cáo hoạt-động-chính đều đã do đối tác Úc chuẩn bị. Nói về khoảng cách địa lý giữa Úc và Việt Nam, điều hợp lý hơn là để các đối tác Việt Nam chuẩn bị các báo cáo về các hoạt động địa phương như là các lớp huấn luyện khuyến nông, các sách báo khuyến nông và những khảo nghiệm nông dân. Từ đó người Việt Nam có quyền làm chủ hơn các thành quả của dự án. 3. Mẫu báo cáo dự án nên được thay đổi để báo cáo kết quả dự án được ngắn gọn và rõ ràng hơn. Yêu cầu về giới thiệu và thông tin cơ bản cho mỗi báo cáo 6 tháng là không cần thiết. 4. Chúng tôi đã trông đợi sự phản hồi tốt hơn từ Ban Quản lý dự án sau các báo cáo hoạt- động-chính. Những thông tin phản hồi hạn chế và chúng tôi đã nhận những thông tin phản hồi rời rạc, khó hiểu, có vẻ tiêu cực, và không có tính cách xây dựng đối với sự quản lý, các hoạt động khoa học hoặc khuyến nông của dự án. Tất cả những thẩm tra để làm rõ hay giải thích các nhận xét đưa ra trong các ý kiến phản hồi đã bị che dấu những khuyết điểm do Cố vấn Kỹ thuật Trưởng (Chief Technical Advisor) (CTA) mà không có bằng chứng là đã tham khảo ý kiến với Ban Quản lý dự án (CARD-PMU), tạo ra sự nghi ngờ về tính hiệu quả của Ban Quản lý dự án về sự bảo đảm "quyền làm chủ" chương trình về phía Việt Nam. 5. Một số điều kiện trong báo cáo, trong đó có một vài điều đã không chân thật, đã được đưa vào sau khi dự án bắt đầu khởi động một cách tuỳ tiện, làm tăng thêm gánh nặng cho các thành viên tham gia dự án phía Úc trong việc quản lý. Ví dụ, các lãnh đạo dự án phía Úc đã bị yêu cầu kiểm tra tính chính xác của các báo cáo hoạt-động-chính (milestone) dịch sang tiếng Việt do Lãnh đạo dự án phía Việt Nam nộp cho Ban Quản lý dự án (PMU). Đã một lần các nhà lãnh đạo Úc yêu cầu tổ chức sắp xếp lại việc báo cáo bằng cách kết hợp các báo cáo hoạt-động-chính nhưng đã bị khước từ, buộc chúng tôi phải nhắc lại những thông tin đã được đệ trình trước đây trong một báo cáo riêng lẻ khác. Mặc dù đã có những báo cáo chi tiết về các hoạt-động-chính nhưng các lãnh đạo dự án Úc vẫn bị yêu cầu cung cấp những mẫu chuyện cho bản tin Hassals and Associates Incorporated (HAI)-CARD1, một hoạt động quảng cáo không mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân. 6. Vì những lý do không được giải thích, HAI đã cung cấp một khuôn mẫu với những thông số rất nghiêm ngặt để chuẩn bị kinh phí dự án. Khuôn mẫu này đã bất di bất dịch và 1 là công ty mà AusAID thuê để quản lý những người quản lý dự án. (ND: Đoàn Nhân Ái) 16 không thích hợp đối với loại dự án này. Những nổ lực để đàm phán với CARD CTA nhằm làm cho khuôn mẫu này linh động hơn đã bị từ chối. 7. Sự thanh toán phần lớn kinh phí vào giai đoạn cuối của dự án là không thực tế. Nhiều hoạt-động-chính của phía đối tác Việt Nam đã được thực hiện trước khi họ nhận được kinh phí. Ví dụ, ở Viện BVTV đã nhận $12,000 sau khi họ hoàn thành lớp Huấn luyện cuối cùng. Các thành viên tham gia dự án của Viện BVTV phải dùng nguồn tài chính của riêng họ để trang trải một phần kinh phí tổ chức lớp Huấn luyện cuối cùng vì nguồn kinh phí tài trợ không được gửi đến đúng thời hạn. Vấn đề này không gây ra hạn chế cho phía đối tác Úc, bởi vì trường Đại học Sydney bảo đảm nguồn tài chính của dự án (những cũng phải chấp nhận rủi ro không thanh toán được). Nhưng phía đối tác Việt Nam chủ yếu dựa vào nguồn tài chính tài trợ từ dự án để họ hoạt động. 8. Nếu không có bề dày kiến thức của những chuyên gia Úc tham gia dự án, những người đã hơn một thập niên kinh nghiệm nghiên cứu nhiều cây trồng khác nhau ở Việt Nam và đã thâm nhập nhiều vùng nông thôn trên thế giới, thì dự án này không đạt được những kết quả có ý nghĩa. Kinh nghiệm của HAI hạn chế trên đất nước Việt Nam và đã có thể giúp đỡ ít thôi. Một câu hỏi cần đặt ra là tại sao những loại dự án này không được ACIAR quản lý? 9. Thời gian thực hiện dự án hơi ngắn ngủi. Để có thể có tác động lâu dài, những dự án, nhất là những dự án liên quan đến những loài cây trồng theo mùa (cây lâu năm), nên có qui mô lớn hơn và có khung thời gian dài hơn. Cần tiếp tục huấn luyện và huấn luyện chuyên sâu để phát triển nhóm cán-bộ-nguồn (resource teams) của Việt Nam. 10. Dựa vào những hợp đồng đã trút tất cả rủi ro về tài chính, kỹ thuật và nhân sự lên tổ chức đối tác Úc và thiếu sự ủng hộ rõ ràng về khoa học và quản lý để cung cấp cho chương trình Hợp tác Phát triển Nông thôn (CARD) hiện hành, cho một vài tổ chức nghiên cứu bao gồm cả các tổ chức liên quan đến dự án, không còn cho phép nhân viên của họ bị dính líu nữa vào các dự án Hợp tác Phát triển Nông thôn (CARD) do HAI quản lý. 6. Báo cáo về những vấn đề liên quan ( Cross-Cutting Issues) 6.1. Môi trường Chẩn đoán bệnh đúng tạo cơ sở cho việc phòng trừ bệnh đúng đắn. Kết hợp các phương pháp trong các biện pháp quản lý tổng hợp bệnh hại sẽ đạt được kết quả toàn diện. Có nghĩa là hệ thống canh tác trở nên bền vững hơn. Bằng cách huấn luyện các cán bộ Nghiên cứu Khoa học, các cán bộ Khuyến Nông và các nông dân xác định đúng nguyên nhân gây bệnh, sau đó người nông dân có thế kếp hợp nhiều phương pháp phòng trừ bệnh khác nhau để giảm bớt sự trông cậy vào các biện pháp hoá học. Và họ có thể áp dụng đúng thuốc để phòng trừ nấm gây bệnh trên cây trồng của họ, do đó làm giảm sự lãng phí và tăng hiệu quả. Đưa ra những khuyến cáo về các biện pháp quản lý bệnh để họ có thể chọn ra những biện pháp thích hợp nhất với môi trường và khả năng tài chính của họ. Dựa vào kết quả điều tra ở các lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông, các học viên đã quan tâm đến môi trường bị ảnh hưởng do quá trình canh tác của họ (hình 13). Các học viên đã giảm sự quan tâm về sức khoẻ và môi trường theo thời gian. 17 010 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Income Quality Environnment Health Pa rt ic ip an ts (% ) First workshop Second workshop (Income: thu nhập. Qualty: chất lượng. Enironment: môi trường. Health: sức khoẻ) Hình 13: Những động cơ chủ yếu để nông dân cải thiện cây trồng của họ theo các học viên lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông do TTCAQTTH tổ chức. Thu nhập là động cơ lớn nhất đối với nông dân, còn các yếu tố khác gồm chất lượng sản phẩm, môi trường và sức khoẻ cũng quan trọng. Những số liệu biểu thị giá trị trung bình thu được từ những câu trả lời kết hợp trong bảng câu hỏi ở các lớp Huấn luyện Cán bộ Khuyến nông do TTCAQTTH tổ chức. Trước khi tham dự các lớp Huấn luyện, nhiều học viên và nông dân đã không nhận biết được các triệu chứng bệnh do nấm Phytophthora gây ra. Họ không có kiến thức về tác nhân gây bệnh, sự lây lan, những điều kiện thích hợp cho bệnh xâm nhiễm và phát triển. Từ đó, nhiều nông dân đã không áp dụng các chiến lược quản lý để phòng trừ bệnh hoặc họ đã thực hiện các phương pháp phòng trừ bệnh không thích hợp. Ví dụ, ở miền trung những nông dân đã nhân giống từ cây mẹ đã bị nhiễm nấm bệnh bằng phương pháp giâm cành hoặc chiết cành (đối với cây tiêu, bưởi), họ trồng cây con trên vùng đất thoát nước kém (bưởi), không tỉa bỏ, không dọn dẹp sạch sẽ những bộ phận của cây hoặc quả bị nhiễm bệnh ra khỏi vườn của họ (không làm vệ sinh đồng ruộng) và trồng xen những cây cũng nhiễm bệnh Phytophthora như khoai sọ (môn), cà chua, ớt, cà dê (cà tím), các loại dưa, dứa (thơm, khóm) hoặc dùng cây mít hoặc cây bơ làm trụ (choái, cọc) tiêu. Vài nông dân chỉ áp dụng biện pháp hoá học như dùng thuốc trừ nấm Alliette, Ridomil hoặc Bordeaux để phòng trừ bệnh nhưng họ lại không chọn được loại thuốc trừ nấm có hiệu quả nhất để phòng trừ bệnh Phytophthora. Ở miền bắc Việt Nam, nông dân luân canh những cây trồng cùng nhiễm nấm Phytophthora và những nấm khác, do đó nguồn bệnh ngày càng phát triển. Sau khi bố trí các khảo nghiệm có nông dân tham gia, các cán bộ Khuyến nông và nông dân đã có thể phân biệt bệnh Phytophthora với các bệnh khác. Bây giờ họ hiểu rằng nấm có thể sống và tồn tại trong đất và trong tàn dư thực vật. Họ cũng rất hiểu rằng việc thóat nước là quan trọng đối với sự nhiễm bệnh của cây trồng, đối với sự lây lan của nấm bệnh và sự quản lý bệnh hại. Những nông dân bây giờ đã trồng cây đã chọn lọc trên những luống đất cao hoặc trên mô đất để cải thiện việc thoát nước (thoát nước tốt) (hình 14). Bằng cách dạy nông dân nhận biết các triệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfMS7_Bao cao ket thuc Du an.pdf
Tài liệu liên quan