Báo cáo thực tập ở Công ty cổ phần Cơ Điện Lạnh

Trên thực tế việc diễn biến của giá cổ phiếu thường theo diễn biến của thị trường chung , lúc thị trường sôi động thì hầu hết các cổ phiếu đều tăng còn lúc thị trường giảm thì hầu hết các mã củng giảm theo, thì trường còn bị chi phối về tâm lý rất nhiều ,một thực tế là khi trường đi lên thì nhà đầu tư thích được trả cổ tức bằng cổ phiếu ,và khi thị trường sụt giảm thì nhà đầu tư thích được trả cổ tức bằng tiền mặt nhưng đứng về mặt quản trị công ty thì doanh nghiệp trả bằng cổ phiếu trong thị truờng sụt giảm có nhiều ưu thế cho doanh nghiệp ,trong năm 2007 khi thị trường có xu hướng sut giảm công ty cơ điện lạnh trả cổ tức bằng cổ phiếu 40% điều này đã làm cho giá cổ phiếu của REE sut giảm rất nhiều và tạo hình ảnh không tốt về công ty trong con mắt nhà đầu tư, hiên nay thị trường chứng khoán Việt Nam đang năm trong giai đoạn khó khăn ảnh hưởng với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.Nhiều công ty làm ăn thua lỗ trong đó có REE năm 2008 công ty đã lỗ 153826951000 vnd ,để vượt qua được giai đoạn khó khăn này doanh nghiệp cần có một chiến lược phù hợp, xây dựng chính sách cổ tức tối ưu tạo hình ảnh công ty trong con mắt nhà đầu tư.

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3140 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo thực tập ở Công ty cổ phần Cơ Điện Lạnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tủ điện và các sản phẩm cơ khí công nghiệp. 3 . Hoạt động sản xuất kinh doanh : - Hoạt động dịch vụ cơ điện (M&E)             + Năm 2007, với nền tảng các hợp đồng lớn từ năm 2005, 2006 chuyển sang, hoạt động M&E  tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao hơn 20% so với năm 2006. Cụ thể, doanh thu đạt 574,52 tỷ đồng; LNTT đạt 66,98 tỷ đồng.             + Công trình nổi bật năm 2007 là nhà ga sân bay Tân Sơn Nhất. Với công trình trọng điểm này, REE-M&E đã chứng minh được năng lực quản lý, thi công và hệ thống cơ điện có trình độ kỹ thuật cao, ngang tầm với các nhà thầu M&E trên thế giới. Ngoài ra, năm 2007, REE-M&E cũng ký kết được một số dự án tương đối, tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội như cao ốc văn phòng Gemadept (91,5 tỷ đồng), khu phức hợp Thái Bình Plaza (102,2 tỷ), Sài Gòn Pearl phase II (70,9 tỷ), Golden westlake – HN (82,3 tỷ).             + Phương hướng sắp tới là tham gia đấu thầu các dự án có gói M&E từ trung bình trở lên (khoảng từ 3 triệu USD trở lên). - Hoạt động sản xuất, lắp ráp và kinh doanh các sản phẩm mang thương hiệu Reetech             + Khối kinh doanh hoạt động Reetech chính thức tham gia hoạt động độc lập từ năm 2005. Tuy vậy đên năm 2007, hoạt động này đã có những kết quả hết sức khả quan. Doanh thu đạt 231,42 tỷ đồng (tăng 34% so 2006); LNTT đạt 35,86 tỷ đồng (tăng 11%).             + Trong bối cảnh TT điện tử, điện lạnh nội địa đang gặp rất nhiều khó khăn khi các chi phí tăng cao và sức cạnh tranh, giành giật thị phần ngày càng gay gắt. Tuy nhiên, năm 2007, Reetech đã đạt được là con số hơn 20 ngàn bộ máy lạnh dân dụng đa được tiêu thụ trong năm 2007 cao gấp hai lần so với sản lượng tiêu thụ của năm 2006.             + Một lợi thế mà Reetech vượt trội hơn các thương hiệu khác là sản phẩm máy điều hòa nhiệt độ Reetech có đầy đủ các dãy công suất, chủng loại đa dạng và có nhiều dòng sản phẩm với giá thành hợp lý để người tiêu dùng lựa chọn, và đội ngũ dịch vụ bảo hành bảo trì rộng khắp trên các tỉnh thành. Bên cạnh các dòng sản phẩm máy lạnh dân dụng, Reetech còn có các dòng sản phẩm dành cho thương mại, công nghiệp và dược phẩm như hệ thống máy lạnh trung tâm thế hệ thứ ba làm lạnh bằng gas không ảnh hưởng môi trường, máy lạnh trung tâm làm lạnh bằng nước giải nhiệt gió dạng “Modular”. - Phát triển, quản lý khai thác kinh doanh bất động sản             + Năm 2007, Công ty gặp nhiều thuận lợi khi giá thuê tăng hơn 30% so với năm 2006 đặc biệt là ở các cao ốc loại A ở vị trí trung tâm thành phố. Với sức cầu của thị trường rất lớn như vậy, tổng diện tích 66.737 m² văn phòng cho thuê của REE đa không còn một chỗ trống, như dự án etown 2 chính thức khai trương vào tháng 3/2007 chỉ chưa đầy 2 tháng sau đa lấp đầy 100% diện tích cho thuê. Kết quả đạt được cụ thể của kinh doanh bất động sản cho thuê là: doanh thu 171,14 tỷ đồng, LNTT đạt 92,00 tỷ đồng.             + Bên cạnh các hoạt động cho thuê văn phòng, sau hơn một năm thành lập, REE Land – một công ty thành viên của REE Corp chuyên đầu tư vào lĩnh vực bất động sản – đa có những bước khởi đầu tốt. Trong năm 2007, REE Land đa tham gia góp vốn vào dự án cao ốc căn hộ và văn phòng Hiệp Phú ở Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh và dự án cao ốc văn phòng cùng với Công ty HAPACO ở Hải Phòng.             + Tuy nhiên, trong nửa đầu năm 2008, hoạt động kinh doanh BĐS của REE gặp nhiều khó khăn do sự sụt giảm của TT nhà đất, chính sách cắt giảm đầu tư công của CP và việc thắt lại dòng tiền tín dụng NH đổ vào lĩnh vực được dự đoán là còn bất ổn trong thời gian tới. - Đầu tư chiến lược             + Với mô hình “Holding Company”, REE có định hướng đầu tư vào một số ngành nghề, lĩnh vực có nhiều tiềm năng và cơ hội phát triển, cụ thể danh mục đầu tư của REE bao gồm: ngân hàng, hạ tầng điện - nước - viễn thông, vận tải, địa ốc, thủy sản,… Tổng vốn đầu tư ra bên ngoài của REE tại thời điểm 31/12/2007 là 1.274 tỷ đồng.Trong năm 2007 tình hình thị trường chứng khoán có nhiều biến động, tuy nhiên kết quả đạt được từ hoạt động đầu tư của REE Corp cũng giữ mức cao và đạt được 190,39 tỷ.             + Tuy nhiên, sự sụt giảm quá mạnh của TTCK và BĐS đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động đầu tư của REE. Việc mất thanh khoản của các dự án 4. Tình hình tài chính - Năm 2007, doanh thu thuần hợp nhất của REE đạt 977 tỷ đồng, tăng 18,56% so với năm 2006; LNST hợp nhất đạt 291,5 tỷ đồng, tăng 31,01%. Tuy nhiên, việc trích lập dự phòng giảm giá CK đã làm “xói mòn” LN của REE; 6 tháng đầu năm 2008, doanh thu thuần 577,35 tỷ đồng, LNST đạt “âm” 174,47 tỷ đồng. - Về một số chỉ tiêu tài chính             + Tỷ trọng TSNH và TSDH trong tổng TS khá cân bằng. Tại ngày 30/06/2008, TSNH chiếm 45,81% trong tổng TS, giảm 10,06% so với thời điểm 31/12/2007.             + Sau khi tăng vốn, tỷ trọng VCSH trong tổng NV của REE khá cao, duy trì ở mức 77,64% vào ngày 31/12/2008. Tuy nhiên những khoản vay ngắn hạn gia tăng đã nâng tỷ trọng nợ phải trả trong tổng NV lên 30,73% (tăng 8,75%) tại thời điểm 30/06/2008 so với 31/12/2007.             + Khả năng thanh toán của REE có phần sụt giảm tại thời điểm 30/06/2008. Tuy nhiên KNTTN và KNTTHH vẫn ở mức an toàn (lớn hơn 1), lần lượt là 1,39 và 1,74.             + Tỷ số phản ánh hiểu quả sử dụng tài sản và VCSH đã giảm sút, chỉ đạt 10,08% (giảm 4,63%) và 12,99% (giảm 7,53%) tại thời điểm cuối 2007 so với cuối 2006. Phần 2 . Chính sách cổ tức 2007-2008 1 . Điều kiện xác định chính sách cổ tức : . Điều kiện chủ quan : Lợi nhuận ròng : Cổ tức là thu nhập của cổ đông được chi trả bởi doanh nghiệp trích từ phần lợi nhuận sau thuế , do đó , mức trả cổ tức sẽ phụ thuộc vào lợi nhuận ròng của doanh nghiệp . Đối với REE , năm 2007 là năm có lợi nhuận sau thuế đạt mức cao nhất từ năm 2004 đến 2008 là 291 tỷ đồng , tuy nhiên trong 392 tỷ lợi nhuận kế toán trước thuế của REE có 190 tỷ là lợi nhuận từ hoạt động đầu tư tài chính . Đầu tư tài chính của REE chiếm tới 45,8% tổng tài sản năm 2007 và 51,5% vào năm 2008 . Ta có thể thấy rằng dù lợi nhuận của REE cao nhưng sự tăng lên đột ngột trong lợi nhuận của REE những năm qua hầu hết là nhờ hoạt động đầu tư tài chính , mức tăng trưởng thu nhập từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ vẫn ổn định , tuy nhiên gần nửa tổng tài sản được sử dụng cho đầu tư tài chính cho thấy REE cũng mắc cùng 1 tình trạng chung giống các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ồ ạt trong thời kỳ lên đỉnh của thị trường là dư thừa vốn . Việc đầu tư tài chính khiến cho mức sinh lời của REE qua những năm vừa qua không phản ánh đúng tình hình sản xuất kinh doanh thực sự của REE và mức lợi nhuận biến động lớn theo sự lên xuống của thị trường , nhất là trong 2 năm 2007 2008 khi thị trường có xu hướng suy thoái , rủi ro đối với các nhà đầu tư là rất cao . Thực vậy , đến năm 2008 , do thua lỗ từ hoạt động đầu tư tài chính , lợi nhuận sau thuế của REE là -153 tỷ đồng . Tổng giá trị đầu tư ngắn hạn mà REE nắm giữ đến 30/12/08 không tính STB chỉ còn 224 tỷ đồng, trong danh mục đầu tư ban đầu không tính STB là 910 tỷ đồng đầu tư, như vậy REE đã lỗ đến 700 tỷ đồng nếu trích lập luôn cổ phiếu OTC . Nhìn vào 2 năm 2007 2008 ta có thể thấy độ bất ổn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của REE và đặc biệt chịu tác động lớn từ hoạt động đầu tư tài chính . Với 1 mức rủi ro cao như vậy REE sẽ rất khó để có 1 mức trả cổ tức cao , tuy nhiên như đã nói , REE đã dư thừa vốn và đầu tư nhiều vào hoạt động tài chính , việc giữ lại lợi nhuận giờ đây không còn thực sự cần thiết với REE , hơn nữa , việc hạ mức trả cổ tức sẽ càng làm tâm lý của nhà đầu tư xấu đi , có thể ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị thị trường của cổ phiếu . Chính sách tăng trưởng : Trong 3 năm 2006 2007 2008 , số nợ dài hạn của REE không hề gia tăng , chỉ có nợ ngắn hạn tăng đều , có thể rút ra nhận xét là REE không có thêm dự án đầu tư mà chỉ mở rộng hoạt động sản xuất của mình , dựa vào số tăng ít ỏi của nợ vay ngắn hạn so với lượng tăng khủng khiếp của vốn chủ sở hữu đặc biệt do phát hành cổ phiếu mới . Tuy nhiên khi thị trường chứng khoán nóng từ cuối 2006, với thặng dư hàng ngàn tỉ đồng từ phát hành cổ phiếu đáng lẽ REE phải dùng tiền đó để phát triển xây dựng cơ bản và cơ cấu lại công ty thì lại đi đầu tư tài chính, chạy theo bầy đàn và phong trào thời thượng lúc này, những tưởng mảng này đem lại một món lợi kết xù cho REE nhưng không. Đến cuối 2008 đã phải trích lập hơn 500 tỉ đồng cho đầu tư tài chính rồi, và nếu như thị trường chúng khoán tiếp tục èo uột trong quí 1/2009 nữa thì việc REE tiếp tục trích lập là điều không thể tránh khỏi . Tỷ lệ nợ vay của REE của REE là rất thấp và nếu xét đến cơ cấu tài sản , ta thấy tỷ lệ tài sản cố định trong tổng tài sản của REE chỉ khoảng 1-2% nhưng lượng tài sản tài chính năm 2007 chiếm 45% tổng tài sản và đến năm 2008 là 51% , vì vậy dù sử dụng ít đòn bẩy tài chính và đòn bẩy hoạt động nhưng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của REE vẫn rất cao . Mức lợi nhuận của REE cũng không cao , dù xét đến thu nhập từ đầu tư tài chính khi thị trường vẫn còn đi lên . Năm 2006 , ROE của REE đạt mức cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây là 20,5% tuy nhiên đến năm 2007 chỉ còn 13% và đó cũng là lúc thị trường chứng khoán đạt đỉnh và đang bắt đầu đi xuống . Để thực hiện chiến lược kinh doanh của mình REE cần 1 lượng vốn lớn và đặc biệt chú trọng đầu tư vào lĩnh vực bất động sản , văn phòng cho thuê . Ngoài 4 mảng hoạt động chính , từ năm 2007 đến 2010 , REE sẽ dự kiến mở thêm mảng hoạt động mới là đầu tư phát triển vào hạ tầng . Mặc dù vậy , qua phân tích về số vốn và tình hình sử dụng tài sản có thể nhận thấy REE đã có 1 lượng vốn lớn và gần nửa tổng vốn của REE đã dùng để đầu tư tài chính . Và thực sự như đã phân tích về lợi nhuận của REE , tỷ suất sinh lời của REE vẫn không phải là cao lắm , kèm theo mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh là lớn , nếu chia cổ tức ở mức thấp hoặc chia bằng cổ phiếu để giữ lại nhiều lợi nhuận tái đầu tư không phải là 1 quyết định tốt , việc trả cổ tức bằng cổ phiếu có thể hấp dẫn nhà đầu tư khi thị trường còn đi lên , tuy nhiên trong năm 2007 khi thị trường đã đạt đỉnh có nhiều biến động và đã có dấu hiệu đi xuống , và đặc biệt năm 2008 khi thị trường tụt dốc , trả cố tức thấp hoặc trả bằng cổ phiếu có thể tác động xấu đến tâm lý nhà đầu tư và làm giá cổ phiếu càng xuống thấp hơn nữa . Nguyên nhân khách quan Tâm lý nhà đầu tư : Nhìn chung trong thời gian qua , nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán đều mua và bán theo xu thế thị trường , mục tiêu đầu tư hầu hết đều mong muốn thu lãi do chênh lệch giá cổ phiếu trên thị trường chứ không phải do tác động từ mong muốn thu nhập cổ tức . Với doanh nghiệp có mức sinh lời tương đối ổn định như REE , do sử dụng ít đòn bẩy nên rủi ro hoạt động không cao , nhà đầu tư có thể không lường trước hay lo lắng về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . Do đó mức trả cổ tức có thể không ảnh hưởng lớn đến giá cổ phiếu hay tâm lý nhà đầu tư . 2. Thực trạng Phân phối lợi nhuận năm 2007 Đại hội đã nhất trí với phương án phân phối lợi nhuận năm 2007 do HĐQT đề xuất, cụ thể: Đơn vị tính: VND - Lợi nhuận sau thuế (bao gồm thuế TNDN được miễn giảm): 290.991.393.000 - Thuế thu nhập Doanh nghiệp được miễn giảm: 8.229.928.000 - Lợi nhuận được phân phối: 282.761.465.000 Lợi nhuận được phân phối là 282.761.465.000 đồng, dự kiến phân phối như sau: - Quỹ dự phòng tài chính 5%: 14.138.074.000 - Quỹ phúc lợi : 663.598.000 - Thưởng cổ phiếu ưu đãi ESOP : 3.751.810.000 (Phát hành 375.181 cổ phiếu ESOP) - Chi trả cổ tức (40%): 231.555.360.000 o Cổ phiếu phổ thông (57.259.055): 229.036.220.000 o Cổ phiếu ESOP (629.785) : 2.519.140.000 - Thưởng HĐQT, TGĐ và các GĐ điều hành vượt kế họach lợi nhuận 2007: 3.796.147.000 (10% phần LNST vượt kế hoạch theo Nghị quyết Đại hội cổ đông năm tài chính 2006 tổ chức ngày 30/03/2007) ______________ - LNST sẽ được phân phối: 253.904.989.000 ______________ - Lợi nhuận còn lại sau khi phân phối : 28.856.476.000 Phân phối cổ tức: Cổ tức 2007 được thực hiện bằng hình thức phân phối bằng cổ phiếu và với tỷ lệ 40%/năm (tính trên mệnh giá), phương án cụ thể: o Vốn điều lệ hiện hữu: 575.149.920.000 đồng o Vốn điều lệ sau khi phát hành cổ phiếu ESOP 2007: 578.901.730.000 đồng o Loại cổ phiếu phát hành: cổ phiếu phổ thông; o Hình thức cổ phiếu: chứng chỉ ghi sổ o Mệnh giá: 10.000 đồng/cp; o Tổng số cổ phiếu dự kiến phát hành: 23.155.536 cổ phiếu; o Thời gian thực hiện: trong năm 2008 o Vốn điều lệ dự kiến sau khi phát hành: 810.457.090.000 đồng; o Mục đích phát hành: dùng nguồn vốn từ lợi nhuận SXKD năm 2007 của Công ty để phát hành cổ phiếu chi trả cổ tức năm 2007 và tăng vốn điều lệ; o Tỷ lệ cổ tức: 40% (tính trên mệnh giá) 3 . Tác động 3.1 . Tác động của chính sách cổ tức của công ty tới giá cổ phiếu trên thị trường Theo lý thuyết M&M trong điều kiện thị trường hoàn hảo chính sách cổ tức không tác động đến giá trị của doanh nghiệp,đến ngày giao dịch không hưởng quyền giá cổ phiếu giảm bằng đúng giá trị trả cổ tức ,gọi Po là đóng cữa của của ngày trước ngày giao dịch không hưởng quyền ,D là cổ tức bằng tiền mặt , p là giá ngày giao dịch không hươngq quyền ta có :P= Po - D Nhưng trên thực tế thực tế việc thực hiện một chính sách cổ tức luôn ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trong ngắn hạn hoặc tác động dài hạn.Nếu trong thời kỳ thị trường chứng khoán phát triễn với một mức cổ tức cao giá cổ phiếu của công ty có thế tăng đột biến so vơi các công ty cùng ngành, nhưng nếu trả cổ tức cao thì công ty bỏ qua cơ hội đầu tư mới , tỷ lệ tăng trưởng của doanh nghiệp thấp giá cổ phiếu tăng trưởng chậm hoặc có thể sẽ giảm. Ngàn đồng Nguồn báo cáo thường niên của công ty Ta thấy theo biểu đồ trên từ năm 2004 đến năm 2007 xu hướng trả cổ tức của REE tăng dần cụ thể năm 2004 là 13% năm 2005 14% năm 2006 16% năm 2007 40% năm 2008 do kinh doanh thua lỗ nên công ty không trả cổ tức.và hình thức trả theo bảng sau. Ngàn đồng Năm 2004 2005 2006 2007 2008 cổ tức bằng tiền 14625000 36055040 50198750 0 0 Cổ tức bằng cổ phiếu 14625000 0 0 231555360 0 Nguồn báo cáo thường niên của công ty Như vậy công ty đã thực hiện chính sách cổ tức lợi nhuận giữ lại thụ động chinh sách này đã tác động như thế nào đến giá cổ phiếu của REE , ta có diễn biến của giá cổ phiếu REE trên thị trường như sau . Nguồn vndirect.com Ta thấy giá cổ phiếu của REE chào sàn năm 2000 với giá là 32800 vnd tụt xuống và đi ngang trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2004 và tăng trưởng mạnh mẽ từ năm 2005 đến đầu năm 2007 giá là 137000 vnd .Một trong những yếu tố tác động đến giá cổ phiếu là lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư nó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của doanh nghiêp ta có công thức g = ROE *b trong đó ROE suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu, b tỷ lệ lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư, từ công thức ta thấy nếu b càng cao thì g càng lớn, hay nói cách khác nếu mà doanh nghiệp trả cổ tức ít để lại lợi nhuận tái đầu tư cao thì mức độ tăng trưởng trong tương lai cao.Từ bảng số liệu và biểu đồ ta thấy mức lợi nhuận tái đầu tư giảm dần từ năm 2004 đến 2008 do đó làm giá cổ phiếu của REE tăng trưởng rất mạnh giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2007,và tụt giảm từ năm 2007 đến đầu năm 2009 điều này rất phù hợp với quy tắc giá trị . Ngoài ra ta củng thấy mức thu nhập trên mổi cổ phiếu của công ty tăng trưởng phù hợp với mức tăng của giá cổ phiếu trong từng thời kỳ. Nguồn : báo cáo thường niên của công ty Qua những phân tích trên ta thấy chinh sách cổ tức của công ty đã tác động đến giá cổ phiếu của công ty trên thị truờng theo đúng quy luật giá trị , điều này chứng tỏ chính cổ tức của công ty đã ảnh hưởng tới giá cổ phiếu trên thị trường. Diễn biến giá cổ phiếu của REE so với Vn-index nguồn Vndirect.com Trên thực tế việc diễn biến của giá cổ phiếu thường theo diễn biến của thị trường chung , lúc thị trường sôi động thì hầu hết các cổ phiếu đều tăng còn lúc thị trường giảm thì hầu hết các mã củng giảm theo, thì trường còn bị chi phối về tâm lý rất nhiều ,một thực tế là khi trường đi lên thì nhà đầu tư thích được trả cổ tức bằng cổ phiếu ,và khi thị trường sụt giảm thì nhà đầu tư thích được trả cổ tức bằng tiền mặt nhưng đứng về mặt quản trị công ty thì doanh nghiệp trả bằng cổ phiếu trong thị truờng sụt giảm có nhiều ưu thế cho doanh nghiệp ,trong năm 2007 khi thị trường có xu hướng sut giảm công ty cơ điện lạnh trả cổ tức bằng cổ phiếu 40% điều này đã làm cho giá cổ phiếu của REE sut giảm rất nhiều và tạo hình ảnh không tốt về công ty trong con mắt nhà đầu tư, hiên nay thị trường chứng khoán Việt Nam đang năm trong giai đoạn khó khăn ảnh hưởng với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.Nhiều công ty làm ăn thua lỗ trong đó có REE năm 2008 công ty đã lỗ 153826951000 vnd ,để vượt qua được giai đoạn khó khăn này doanh nghiệp cần có một chiến lược phù hợp, xây dựng chính sách cổ tức tối ưu tạo hình ảnh công ty trong con mắt nhà đầu tư. 3.2 . Tác động đến cơ cấu vốn chi phí vốn Thực trạng cơ cấu vốn và chi phí vốn : Nhìn vào đồ thị ta có thể nhận thấy tỷ trọng nợ trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp ngày càng giảm mạnh , đặc biệt nợ dài hạn chiếm tỷ trọng rất nhỏ chưa đến 6% trong tổng số vốn năm 07-08 . Như ta biết , chính sách cổ tức là chính sách phân phối tỷ lệ giữa phần lợi nhuận giữ lại và phần lợi nhuận chia cho cổ đông , do lợi nhuận giữ lại cũng là 1 nguồn vốn của doanh nghiệp nên chính sách cổ tức sẽ tác động đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp . Tuy nhiên lượng tăng mạnh của số vốn chủ sở hữu trên tổng số vốn lại không ảnh hưởng nhiều bởi phần lợi nhuận giữ lại mỗi năm : Rõ ràng số lợi nhuận chưa phân phối có quy mô rất nhỏ so với nợ và vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và có thể khẳng định phần lợi nhuận giữ lại này không ảnh hưởng nhiều đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp . Tuy nhiên xét trên quy mô đối với nợ dài hạn , lợi nhuận giữ lại có vẻ lớn hơn nhiều so với số nợ dài hạn của REE : Ta có thể nhận thấy số nợ dài hạn của REE không biến động nhiều , đặc biệt trong 3 năm 06 07 08 , nợ dài hạn chỉ xấp xỉ 100 tỷ , trong khi đó lợi nhuận giữ lại qua các năm liên tục tăng trưởng theo số tăng của lợi nhuận sau thuế . Năm 2005 , lợi nhuận sau thuế là 67.8 tỷ đồng , lượng chia cổ tức bằng tiền mặt chiếm 53% trên tổng số lợi nhuận sau thuế này , và sau khi trích lập quỹ , phần lợi nhuận tăng thêm của lợi nhuận giữ lại là 12.4 tỷ , tuy nhiên năm 2006 , lợi nhuận sau thuế tăng vọt đạt 222.4 tỷ , lượng chia cổ tức chỉ chiếm 22.5% trên tổng số lợi nhuận , do đó phần lợi nhuận giữ lại tăng thêm 150 tỷ , bằng 1.5 lần tổng số nợ dài hạn của công ty . Thực tế , số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tăng lên năm 2005 từ lợi nhuận giữ lại là 32 tỷ , năm 2006 là 172 tỷ , năm 2007 là 291 tỷ do REE không chia cổ tức bằng tiền mặt . Xét lượng lợi nhuận giữ lại với vốn chủ : Có thể thấy ngoại trừ năm 2004 , lợi nhuận giữ lại đóng vai trò chính trong gia tăng nguồn vốn chủ sở hữu thì những năm còn lại lượng tăng của lợi nhuận giữ lại không đóng vai trò lớn trong việc tăng vốn chủ sở hữu . Năm 2005 , phần lợi nhuận này chỉ góp 15% trong tổng số tăng lên của vốn chủ sở hữu so với năm 2004 . Tuy nhiên năm 2006 và 2007 , phần vốn chủ tăng lên từ lợi nhuận giữ lại chiếm khoảng 25-30% trên tổng số . Năm 2008 , phần giảm đi của vốn chủ đúng bằng phần lỗ của doanh nghiệp . Có thể thấy , trong năm 2004 , khi thị trường chưa phát triển , phần lợi nhuận giữ lại của doanh nghiệp là nguồn chính để làm tăng vốn chủ sở hữu , do đó doanh nghiệp có mức trả cổ tức tương đối thấp , tỷ lệ trả cổ tức năm 2004 là 13% , DPS/EPS là 52% nhưng do 1 nửa lượng cổ tức trả bằng cổ phiếu nên lượng trả cổ tức bằng tiền mặt thực tế chỉ chiếm 26% trên số lợi nhuận sau thuế của REE . Tuy nhiên , đến năm 2005 khi phần lớn lượng vốn chủ sở hữu được huy động thông qua phát hành cổ phiếu mới , vốn cổ phần tăng thêm 57 tỷ đồng , thặng dư vốn cổ phần là 118.3 tỷ , lợi nhuận giữ lại của năm tăng thêm 31 tỷ sau khi đã trả cổ tức với tỷ lệ 14% nhưng DPS/EPS là 53% và tất cả đều trả bằng tiền mặt . Năm 2006 và 2007 khi thị trường đang đi lên , REE chia cổ tức bằng tiền mặt ít hơn và giữ lại nhiều lợi nhuận , năm 2006 , lợi nhuận giữ lại tăng 172 tỷ đồng trong khi vốn chủ sở hữu tăng lên 572.5 tỷ , trong đó có 56 tỷ từ phát hành cổ phiếu mới trên thị trường và 336.5 tỷ thặng dư vốn cổ phần . Năm 2007 , REE không trả cổ tức bằng tiền mặt mà bằng cổ phiếu nên phần lợi nhuận sau thuế của năm là 291 tỷ được tính vào tăng vốn chủ sở hữu và tổng số vốn chủ sở hữu tăng lên trong năm là 1160 tỷ . Như vậy trong giai đoạn 2005 đến 2007 , tận dụng sự đi lên của thị trường REE tăng lượng vốn huy động chủ yếu bằng phát hành cổ phiếu mới , đặc biệt năm 2005 , REE chia cổ tức tương đối cao 14% nhằm thu hút nhà đầu tư và tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành . Mặc dù năm 2006 , mức chia cổ tức của REE còn cao hơn nữa 16% và lên đến 40% trong năm 2007 nhưng thực tế tỷ lệ lợi nhuận giữ lại trên tổng số lợi nhuận sau thuế của REE tăng lên , hơn nữa , EPS của năm 2006 và 2007 là rất cao , đạt 7624 đồng/cổ phiếu năm 2006 và 5819 đồng/cổ phiếu năm 2007 , nhưng hầu hết lợi nhuận của REE đều từ đầu tư chứng khoán , gần 50% tổng tài sản của REE là đầu tư tài chính và đến năm 2008 , REE chịu lỗ cả năm hơn 150 tỷ đồng và phần lớn do thua lỗ chứng khoán . Do mức rủi ro cao như vậy nên có thể thấy thực tế năm 2006 và 2007 , mức trả cổ tức của REE vẫn là thấp , nhất là so với bình quân trên thị trường có những doanh nghiệp trả cổ tức với tỷ lệ 20-30% , thực tế , REE vẫn giữ lại nhiều lợi nhuận và số này chiếm trên 25% số vốn chủ tăng thêm trong năm của REE . Dù lượng vốn huy động từ cổ phiếu thường mới chiếm đa số nhưng có thể thấy lượng vốn từ lợi nhuận giữ lại cũng chiếm tỷ trọng không nhỏ và đóng vai trò quan trọng trong lượng vốn của REE . Với tỷ lệ nợ rất thấp , khả năng thanh toán của REE trong những năm gần đây là khá cao , tỷ lệ thanh toán trong các năm từ 2006 đến 2008 đều đạt trên 2.7 , và vì nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số nợ của REE nên con số này càng có ý nghĩa , do tỷ lệ nợ quá thấp , gần như REE không hề gặp rủi ro thanh toán . Tuy nhiên , do sử dụng quá nhiều vốn chủ sở hữu nên đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp rất thấp và đẩy chi phí sử dụng vốn lên cao . Mặc dù phần lợi nhuận giữ lại của REE trong năm 2006 và 2007 là cao và tiết kiệm được phần chi phí phát hành và giao dịch so với vốn huy động bằng phát hành cổ phiếu thường mới nhưng xét chung , chi phí vốn của REE là khá cao khi tỷ lệ nợ trên tổng tài sản chỉ có 19.5% tính đến năm 2008 . Nhưng trong thời điểm hiện tại , khi thị trường đang thời kỳ khủng hoảng , đặc biệt từ giữa năm 2007 đến giữa năm 2008 lãi suất cho vay tăng cao , nhất là khi REE đầu tư khá nhiều vào chứng khoán , rủi ro rất cao , việc huy động vốn tín dụng khó khăn và có thể tốn nhiều chi phí hơn . Hơn nữa , khi thị trường chứng khoán đi xuống , việc huy động vốn từ phát hành cổ phiếu mới sẽ không còn thuận lợi , doanh nghiệp sẽ cần sử dụng nhiều lợi nhuận giữ lại hơn để tăng quy mô đầu tư đồng thời dự phòng để đảm bảo tính thanh khoản , uy tín và sự ổn định . Dựa trên số liệu và một vài phân tích đã cho thấy REE sử dụng chủ yếu vốn chủ sở hữu trong cơ cấu vốn của mình , điều này làm cho rủi ro về thanh toán của REE là rất thấp , so với FPT , một doanh nghiệp có tổng tài sản hơn gấp đôi REE , REE có tỷ lệ thanh toán hiện hành cao hơn , cuối năm 2006 và 2007 , khả năng thanh toán của REE là 2.73 , 3.04 trong khi của FPT là 1.78 và 1.43 . Mặc dù 2 doanh nghiệp có lĩnh vực hoạt động khác nhau nhưng có thể thấy độ rủi ro trong thanh toán của REE là thấp . Tuy nhiên , do REE đầu tư chứng khoán chiếm gần một nửa tổng tài sản nên rủi ro trong hoạt động kinh doanh hay danh mục đầu tư của REE là rất cao . Chưa kể đến việc năm 2008 thị trường chứng khoán tụt dốc nên một loạt các cổ phiếu xuống giá , giá trị tổng tài sản thực tế của REE vì thế giảm đi đáng kể , chưa kể đến có những cổ phiếu REE đang nắm giữ bị mất giá khiến khoản lỗ thực tế gia tăng nhưng REE chưa hạch toán khoản giảm giá nên không thể nhận thấy khoản lỗ này trên báo cáo tài chính , hơn nữa , do REE sử dụng phần lớn vốn là vốn chủ sở hữu , cộng thêm rủi ro của hoạt động kinh doanh cao nên chi phí sử dụng vốn thực tế của REE là rất lớn . Vậy mà bất chấp chi phí sử dụng vốn lớn , các cổ đông vẫn chấp nhận một mức cổ tức thấp và để lại hầu hết lợi nhuận để tái đầu tư . Thực tế lượng vốn từ lợi nhuận giữ lại chiếm gần 1/4 tổng số vốn chủ gia tăng mỗi năm của REE . Sự tác động của chính sách cổ tức của REE lên cơ cấu và chi phí vốn của doanh nghiệp tương đối mờ nhạt , do sự gia tăng của tỷ lệ vốn chủ hầu hết đều do mục đích tăng quy mô của doanh nghiệp , trong 3 năm liền , số nợ dài hạn của REE gần như không thay đổi , có thể đánh giá là REE không có dự án mới hay đầu tự dài hạn nào hơn ngoài đầu tư chứng khoán , và mặc dù để lại nhiều lợi nhuận và chia cổ tức bằng tiền mặt với tỷ lệ thấp nhưng REE vẫn phát hành được rất nhiều cổ phiếu để làm tăng vốn chủ đặc biệt trong 2 năm 2006 và 2007 , do đó phần lợi nhuận giữ lại của REE tuy nhiều nhưng vẫn không đáng kể so với lượng vốn tăng lên từ phát hành cổ phiếu mới . 4 . Đánh giá 4.1. Thành công Đầu năm 2008 khi thị trường đang đi xuống , lãi suất lên rất cao

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21422.doc
Tài liệu liên quan