Kết cấu tài sản thay đổi không đáng kể, tài sản lưu động luôn chiến trên 80% tổng tài sản của đơn vị. Tổng doanh thu tăng kéo theo sự gia tăng của doanh thu thuần, năm 2008 doanh thu thuần đạt 102.879 triệu đồng tăng 6.105 triệu đồng. Đời sống của cán bộ công nhân viên được cải thiện, tổng quỹ lương năm 2008 tăng hơn so với năm 2007.
Nói chung, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty vẫn luôn có lãi. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu ở mức 2.015 năm 2007 và 1.121 năm 2008, tức là cứ 100 đồng doanh thu được 2.015 đồng lợi nhuận và 1.121 đồng là số lợi nhuận thu được từ 100 đồng doanh thu của năm 2008, năm 2008 tỷ suất lợi nhuận giảm. Nguyên nhân là do chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng nhanh hơn tốc độ tăng của doanh thu.
23 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo thực tập tại công ty cổ phần kỹ thuật xây dựng Tramico, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à lao động của Công ty:
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều công ty lớn cả trong và ngoài nước hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, Công ty cổ phần Kỹ thuật Xây dựng Tramico là công ty mới được thành lập vì vậy đã gặp phải sự cạnh tranh mạnh trong lĩnh vực này. Quy mô của công ty không được lớn ngành nghề kinh doanh tuy nhiều nhưng vẫn còn dàn trải và chưa có sự tập trung, sản phẩm cạnh tranh không có nhiều thế mạnh. Đặc biệt với nền kinh tế hội nhập như hiện nay thì việc cạnh tranh càng ngày càng khó khăn, các doanh ngiệp không còn có nhiều lợi thế bởi các doanh nghiệp về xây dựng của nước ngoài có nhiều điều kiện thuận lợi hơn cả về vốn và về chuyên môn. Do đó để có thể đứng vững trên thị truờng thì công ty cần phải có sự đầu tư tập trung vào một ngành nghề tạo ra lợi thế cho mình trong môi trường kinh doanh như hiện nay.
Công ty Cổ phần Kỹ thuật Xây dựng Tramico có đội ngũ cán bộ công nhân viên là 622 người. Trong đó trình độ đại học là 37 người, trình độ cao đẳng và trung cấp là 25 người, công nhân có tay nghề từ Bậc 4 trở lên là 85 người và 475 lao động phổ thông. Là Công ty Xây dựng cho nên đặc điểm sản xuất kinh doanh mang tính chất riêng biệt đòi hỏi Công ty phải có một mô hình tổ chức sản xuất phù hợp để đạt hiệu quả cao tránh tổn thất. Mô hình quản lý của Công ty có kết cấu như sau:
I.3. Tổ chức bộ máy quản lý:
+ Tổng Giám đốc: Là người đại diện pháp nhân của công ty, chịu trách nhiệm trước đại hội đồng quản trị về kết quả hoạt động kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước bảo toàn và phát triển vốn cũng như đảm bảo đồi sống cho cán bộ công nhân viên.
Giúp việc trực tiếp cho Tổng Giám đốc trong công tác quản lý bao gồm 3 Phó Tổng Giám đốc và Kế toán trưởng.
+ Phó Tổng Giám đốc: Là người giúp Tổng Giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của công ty theo sự phân công của Tổng Giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về nhiệm vụ được phân công thực hiện.
+Trưởng phòng kế toán: Có chức năng tham mưu giúp Tổng Giám đốc tổ chức triển khai, thực hiện toàn bộ công tác tài chính kế toán, thông tin kinh tế và hạch toán kinh tế ở toàn công ty theo điều lệ công ty. Đảm nhận việc tổ chức triển khai thực hiện công tác tài chính phục vụ sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả cao nhất.
+ Phòng Kinh tế kế hoạch: Có nhiệm vụ tổ chức tiếp nhận và thu thập các thông tin cần thiết, dự báo khả năng và nhu cầu thị trường để tham mưu cho Tổng Giám đốc. Nghiên cứu và đề ra các giải pháp để thực hiện các mục tiêu đã đề ra cho từng thời kỳ. Quản lý các lĩnh vực vật tư, máy móc thiết bị, vật tư, tài sản cố định của toàn công ty. Xây dựng kế hoạch tiếp thị và liên kết kinh tế.
+ Phòng kỹ thuật và kết cấu: Tham mưu cho Tổng Giám đốc tổ chức triển khai chỉ đạo về công tác kỹ thuật, chất lượng và an toàn lao động trong sản xuất kinh doanh theo đúng quy trình và quy phạm kỹ thuật.của ngành và của Nhà nước. Quản lý điều hành toàn bộ phương tiện thi công, tổ chức nghiệm thu và giám sát.
+ Phòng tài chính – kế toán: Tham mưu cho Tổng Giám đốc về mặt quản lý hạch toán kinh tế, thực hiện các quy định của Nhà nước về tài chính - kế toán. Tham mưu cho Công ty quyền quản lý sử dụng vốn, quyền đầu tư liên doanh liên kết. chuyển nhượng thay thế, cầm cố tài sản, thuộc quyền quản lý của Công ty theo quy định của pháp luật.
I.4. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý sản xuất của Công ty:
TRƯỞNG PHÒNG
KẾ TOÁN
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
TỔNG GIÁM ĐỐC
P. TỔNG GIÁM ĐỐC
KỸ THUẬT – THI CÔNG
P. TỔNG GIÁM ĐỐC
P. TỔNG GIÁM ĐỐC
ĐỐI NGOẠI - TH
TRƯỞNG PHÒNG
KINH TẾ KẾ HOẠCH
TRƯỞNG PHÒNG
TK KẾT CẤU – B.PHÁP
GIÁM ĐỐC DỰ ÁN (2)
- Tiếp nhận công trình
- Tổ chức thi công
- Thống nhất tiến độ
- Nhu cầu tài chính
- Quản lý nhân công
- An toàn lao động
GIÁM ĐỐC DỰ ÁN (n)
- Tiếp nhận công trình
- Tổ chức thi công
- Thống nhất tiến độ
- Nhu cầu tài chính
- Quản lý nhân công
- An toàn lao động
AN TOÀN LAO ĐỘNG
- Quản lý hồ sơ nhân lực các công trường
- Theo dõi việc ký kết hợp đồng lao động
- Mua bảo hiểm CN, CB các công trường
- Lán trại, đời sống CN các công trường
- Y tế, kh.chữa bệnh
BAN KIỂM SOÁT, KIỂM TOÁN
TRƯỞNG PHÒNG
K.THUẬT – THI CÔNG
QUẢN LÝ THIẾT BỊ
- Xuất nhập kho
- Quản lý chất lượng
- Sửa chữa bổ sung
- Lập lịch trình bảo dưỡng thiết bị, máy
- Điều phối thiết bị
- Báo cáo tuần, tháng
GIÁM ĐỐC DỰ ÁN (1)
- Tiếp nhận công trình
- Tổ chức thi công
- Thống nhất tiến độ
- Nhu cầu tài chính
- Quản lý nhân công
- An toàn lao động
I.5. Mối quan hệ giữa các bộ phận trong hệ thống quản lý
Hệ thống bộ máy quản lý của Công ty Cổ phần Kỹ thuật Xây dựng Tramico được tổ chức rất khoa học, giúp cho nhà lãnh đạo công ty nắm bắt thông tin một cách nhanh chóng, từ đó đưa ra quyết định chính xác và kịp thời. Là Công ty Cổ phần hạch toán kinh tế độc lập, công ty tổ chức bộ máy quản lý theo cơ cấu trực tuyến chức năng: đứng đầu là chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, tiếp là phó Tổng Giám đốc, dưới là các phòng ban. Đây là một cơ cấu tối ưu hạn chế được những nhược điểm trong quản lý điều hành.
- Tổng Giám đốc là người chịu trách nhiệm chung toàn công ty, chịu trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn các Phó Tổng Giám đốc và các trưởng phòng ban có trách nhiệm phối hợp nghiên cứu và đề xuất biện pháp giải quyết
- Quan hệ giữa các phòng nghiệp vụ công ty là quan hệ hướng dẫn thực hiện trong phạm vi chức năng,quyền hạn đã quy định.
- Các bộ phận trong công ty có trách nhiệm phối hợp, đề xuất biện pháp giải quyết cho Tổng Giám đốc, phó Tổng Giám đốc công ty nếu vấn đề có liên quan giữa các phòng, không đùn đẩy công việc hay trách nhiệm cho các phòng khác khi vấn đề giải quyết vượt quá phạm vi chuyên môn của mình.
- Các máy móc trang thiết bị chuyên dụng được sử dụng với hiệu quả cao.
II. Đặc điển sản xuất kinh doanh của ngành xây dựng
II.1. Sản phẩm của ngành xây dựng:
II.1.1. Khái quát về sản phẩm của ngành xây dựng
Sản phẩm của ngành xây dựng với tư cách là công trình xây dựng đã hoàn chỉnh theo nghĩa rộng là tổng hợp và kết tinh sản phẩm của nhiều ngành sản xuất như các ngành chế tạo máy, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, ngành năng lượng, hoá chất, luyện kim. Và lẽ dĩ nhiên là của ngành xây dựng, ngành đóng vai trò tổ chức cấu tạo công trình ở khâu cuối cùng để đưa chúng vào hoạt động.
Sản phẩm trực tiếp của ngành công nghiệp xây dựng chỉ bao gồm các công việc kiến tạo các kết cấu xây dựng làm chức năng bao che và nâng đỡ các công việc lắp đặt các thiết bị, máy móc cần thiết vào công trình xây dựng để đưa chúng vào hoạt động.
Vì các sản phẩm công trình xây dựng thường rất lớn và phải xây dựng trong thời gian dài, nen để phù hợp với yêu cầu của công việc thanh quyết toán về tài chính, cần phân biệt sản phẩm trung gian với sản phẩm cuối cùng của xây dựng. Sản phẩm trung gian có thể là các công việc xây dựng,sản phẩm trung gian có thể là các công việc xây dựng, các giai đoạn và đợt xây dựng đã hoàn thành bàn giao.
Sản phẩm cuối cùng ở đây là công trình hay hạng mục công trình xây dựng hoàn chỉnh và có thể bàn giao đưa vào sử dụng. Công trình xây dựng bao gồm một hay nhiều hạng mục công trình nằm trong dây truyền công nghệ đồng bộ và hoàn chỉnh để làm ra sản phẩm cuối cùng được nêu ra trong bản luận chứng kinh tế - kỹ thuật, liên hợp công trình xây dựng bao gồm nhiều công trình xây dựng tập trung tại một địa điểm hay một khu vực, hành thành các giai đoạn sản xuất rõ rệt và có liên quan hữu cơ với nhau về mặt công nghệ sản xuất, để làm ra sản phẩm cuối cùng.
II.1.2. Các đặc điểm của sản phẩm xây dựng:
Đặc điểm của sản phẩm xây dựng có ảnh hưởng rất lớn đến tổ chức sản xuất và quản lý sử dụng vốn của doanh nghiệp. Sản phẩm xây dựng với tư cách là một công trình xây dựng hoàn chỉnh thường có các tính chất sau:
Sản phẩm của xây dựng là những công trình nhà cửa được xây dựng và sử dụng tại chỗ, đứng cố định tại địa điểm xây dựng và phân bố tản mạn ở nhiều nơi trên lãnh thổ. Đặc điểm này làm cho sản xuất xây dựng có tính chất lưu động cao và thiếu ổn định.
Sản phẩm xây dựng phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện địa phương, mang nhiều tính đa dạng và cá biệt cao về công dụng, về cách cấu tạo và phương pháp chế tạo.
Sản phẩm xây dựng có kính thước lớn, chi phí lớn, thời gian xây dựng và sử dụng lâu dài.
Sản phẩm xây dựng có liên quan đến nhiều ngành cả về phương diện cung cấp nguyên vật liệu cũng như về phương diện sử dụng sản phẩm của ngành xây dựng làm ra.
II.1.3. Những đặc điểm của sản xuất trong xây dựng:
- Tình hình và điều kiện sản xuất trong xây dựng thiết tính ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm xâyd ựng và giai đoạn xây dựng. Cụ thể trong xây dựng con người và công cụ lao động luôn luôn phải di chuyển từ công trường này đến công trường khác, còn sản phẩm xây dựng thì hình thành và đứng yên tại chỗ, một đặc điểm hiếm thấy ở các ngành khác. Đặc điểm này gây ra những khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, khó cải thiện điều kiện cho người lao động, làm này sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển lực lượng sản xuất. Đặc điểm này cũng đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải chú ý tăng cường tính cơ động, linh hoạt và gọn nhẹ về mặt trang bị tài sản cố định sản xuất, lựa chọn các hình thức tổ chức sản xuất linh hoạt, tăng cường điều hành tác nghiệp, phấn đấu giảm chi phí liên quan đến vận chuyển. Đặc điểm này cũng đòi hỏi phải phát triển rộng trên khắp lãnh thổ, các loại hình dịch vụ sản xuất phục vụ xây dựng như các dịch vụ thuê máy xây dựng, cung ứng và vận tải, sản xuất vật liệu xây dựng.
- Chu kỳ sản xuất thường dài. Đặc điểm này làm cho vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản xuất tổ chức xây dựng thường bị ứ đọng lâu tại các công trình đang còn thi công xây dựng,vì thế mà cần phải chú ý đến nhân tố thời gian khi lựa chọn phương án.
- Sản xuất xây dựng phải tiến hành theo đơn hàn cho từng trường hợp cụ thể, vì sản xuất xây dựng rất đa dạng, có tính cá biệt cao và chi phí lớn. Trong phần lớn các ngành sản xuất khác, người ta có thể sản xuất hàng loạt sản phẩm nhưng với công trình xây dựng thì không thể làm được như thế. Đặc điểm này dẫn đến yêu cầu là phải xác định giá cả và sản phẩm xây dựng trước khi sản phẩm được làm ra và hình thức giao nhận thầu hoặc đấu thầu cho xây dựng từng công trình cụ thể.
- Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp, các đơn vị tham gia xây dựng công trình phải cùng nhau kéo đến hiện trường thi công với một diện tích có hạn để thực hiện phần việc của mình, theo một trình tự nhất định về thời gian và không giam. Đặc điểm này đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải có trình độ tổ chức phối hợp cao trong sản xuất, coi trọng công tác chuẩn bị xây dựng và thiết kế tổ chức thi công, phối hợp chặt chẽ giữa tổ chức xây dựng tổng thầu, hay thầu chính và các tổ chức thầu phụ.
- Sản xuất xây dựng phải tiến hành ngoài trời nên chịu nhiều ảnh hưởng của thời tiết, điều kiện làm việc nặng nhọc.Đặc điểm này đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải lập tiến độ thi công hợp lý để tránh thời tiết xấu, phấn đấu tình cách hoạt động tròn năm, áp dụng kết cấu lắp ghép làm sẵn trong xưởng một cách hợp lý để giảm bớt thời gian thi công tại hiện trường.
- Sản xuất xây dựng phải chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch do điều kiện của địa điểm xây dựng đem lại.
Tất cả các đặc điểm trên đã ảnh hưởng đến mọi khâu của sản xuất kinh doanh trong xây dựng, kể từ khâu tổ chức dây truyền công nghệ sản xuất, lập phương hướng phát triển khoa học - kỹ thuật xây dựng, xác định trình tự của quá trình sản xuất kinh doanh, tổ chức cung ứng vật tư, cấu tạo vốn và trong bị vốn cố định, quy định chế dộ thanh toán, lập chế độ kiểm tra chất lượng sản phẩm đến khâu hạch toán sản xuất kinh doanh trong xây dựng nói chung và quản lý sử dụng tài sản nói riêng. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong xây dựng cần phải có những giải pháp phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành.
II. Thực trạng sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Kỹ thuật Xây dựng Tramico.
II.1 Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty:
Trong thời gian qua nhờ sự năng động sáng tạo, chủ động tìm kiếm thị trường tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty đã đạt được những kết quả đánh khích lệ. Tổng tài sản của công ty liên tục qua các năm: Các năm 2007, 2008 tổng tài sản tăng tương ứng là 3.619 và 21.793 triệu với tỷ lệ là 5.1% và 20.9%. Trong đó tài sản cố định tăng mạnh trong năm 2007 với mức tăng là 2.417 triệu đồng hay 21.7%, năm 2008 tài sản cố định của Công ty tăng 883 triệu đồng, tương đương với 6.5%. Ngược lại, tài sản lưu động tăng ít vào năm 2007 nhưng năm 2008 tăng 20.910 triệu đồng, tương đương với 34.4%.
Bảng 1: Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua các năm:
Đơn vị: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm
Tỷ lệ (%)
2007
2008
03/08
03/09
1
Doanh thu
98.327
105.364
111,15
107,16
2
Doanh thu thuần
96.774
102.879
113,16
106,30
3
Lợi nhuận trước thuế
1.950
1.153
121,72
59,10
4
Tỷ suất LN/DTT x 100(đ)
2,015
1,121
-
-
5
Tổng quỹ lương
11.472
9.916
118,60
86,43
6
TNBQ 1người/1tháng (1000đ)
785
846
103,29
107,77
Kết cấu tài sản thay đổi không đáng kể, tài sản lưu động luôn chiến trên 80% tổng tài sản của đơn vị. Tổng doanh thu tăng kéo theo sự gia tăng của doanh thu thuần, năm 2008 doanh thu thuần đạt 102.879 triệu đồng tăng 6.105 triệu đồng. Đời sống của cán bộ công nhân viên được cải thiện, tổng quỹ lương năm 2008 tăng hơn so với năm 2007.
Nói chung, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty vẫn luôn có lãi. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu ở mức 2.015 năm 2007 và 1.121 năm 2008, tức là cứ 100 đồng doanh thu được 2.015 đồng lợi nhuận và 1.121 đồng là số lợi nhuận thu được từ 100 đồng doanh thu của năm 2008, năm 2008 tỷ suất lợi nhuận giảm. Nguyên nhân là do chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng nhanh hơn tốc độ tăng của doanh thu.
Hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được kết quả tốt khiến tình hình tài chính của công ty được cải thiện hơn. Tình hình tài chính của Doanh nghiệp được thể hiện ở trong bản 2. Tổng tài sản và tổng nguồn vốn cảu doanh nghiệp tăng liên tục qua các năm:
Bảng 2. Tình hình tài chính của doanh nghiệp
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
Chênh lêch 08/07
2007
2008
Số tiền
%
1
Tổng tài sản
Trđ
74.362
96.155
21.793
29,3
2
Tài sản lưu động
Trđ
60.812
81.722
20.910
34,4
3
Vốn bằng tiền
Trđ
58.650
76.939
18.289
31,2
4
Tài sản cố định
Trđ
13.550
14.433
883
6,5
5
Tổng nguồn vốn
Trđ
74.362
96.155
21.793
29,3
6
Nợ phải trả
Trđ
63.643
85.052
21.409
33,6
7
Nợ ngắn hạn
Trđ
62.119
83.054
20.935
33,7
8
Vốn chủ sở hữu
Trđ
10.719
11.103
384
3,6
Tổng gái trị tải sản từ 74.362 triệu đồng lên 96.155 triệu đồng, điều đó cho thấy doanh nghiệp đã có nhiều cố gắng để có thể sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, những phân tích cụ thể sự hợp lý cảu việc tăng tài sản cũng như nguồn vốn của công ty sẽ được đề cập trong những phần sau. Ở đây ta chỉ xem xét một số chỉ tiêu tài chính để có một cái nhìn tổng quá về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Ngoài ra ta xét chỉ tiêu:
Vốn lưu động thuần = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn
Hoặc: Vốn lưu động thuần = Vốn dài hạn – Tài sản cố định
Vốn lưu động thuần tại Công ty trong các năm được phản ánh qua bảng sau:
Bảng 3. Vốn lưu động ròng của Công ty
Đơn vị: Triệu đồng
Stt
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
1
Tài sản lưu động
60.812
81.722
2
Nợ ngắn hạn
62.119
83.054
3
Vốn lưu động ròng
-1.307
-1.332
Vốn lưu động thuần của doanh nghiệp chưa đáp ứng đủ trong quá trình sản xuất kinh doanh.Trong hai năm 2007 và 2008 vốn lưu động ròng của Công ty đều âm. Điều này chứng tỏ nợ ngắn hạn quá cao so với tài sản lưu động, hay vốn trung dài hạn không đủ để tài trợ cho tài sản cố định cảu đơn vị. Một phần nợ ngắn hạn được dùng để tài trợ cho tài sản cố định, điều này không đảm bảo sự tương thích giữa tính chất về thời gian và lãi suất. Do đó, cần có sự điều chỉnh để duy trì mức vón luân chuyển thuần phù hợp.
Bảng 4. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2007
Năm 2008
1
Doanh thu
Trđ
96.774
102.879
2
Lợi nhuận trước thuế
Trđ
1.950
1.153
3
Lợi nhuận sau thuế
Trđ
1.492
886
4
Tổng tài sản
Trđ
74.362
96.155
5
Vốn chủ sở hữu
Trđ
10.719
11.103
6
Hiệu suất sử dụng TTS
%
130,14
106,99
7
Doanh lợi vốn
%
2,62
1,20
8
Doanh lợi vốn CSH
%
13,92
7,98
Năm 2008 hiệu suất sử dụng tổng tài sản giảm hơn so với năm 2007 là 106.99%.
Doanh lợi vốn và doanh lợi vốn chủ sở hữu đều tăng trong năm 2007 và giảm nhẹ hơn vào năm 2008.
Qua những chỉ tiêu phân tích sơ bộ trên đây có thể thấy rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không hoàn toàn thuận lợi, một số chỉ tiêu đã phản sanh tình trạng không ổn định trong hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài những bất lợi do điều kiện khách quan mang lại thì hoạt động quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng tác động không nhỏ. Do vậy, cần đi sâu phân tích chi tiết để thấy được những mặt được và những mặt hạn chế để có giải pháp kịp thời và hiệu quả.
II.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn và các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp:
II.2.1 Tình hình đảm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh:
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có tài sản bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Đề hình thành hai loại tài sản này phải có các nguồn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn ngắn hàn và nguồn dài hạn. Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xây dựng nhu cầu về vốn để đầu tư cho máy móc thiết bị là tương đối lớn vì vậy cần xem xét mức độ an toàn của nguồn vốn khi đầu tư vào tài sản này để có chính sách huy động các nguồn vốn vay trung và dài hạn một cách hợp lý vì nguồn vốn chủ sở hữu không thể đảmb ảo cho toàn bộ tài sản cố định.
Bảng 5. Tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh
Đơn vị: Triệu đồng
Stt
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
1
Vốn dài hạn
12.243
13.101
- Vốn chủ sở hữu
10.719
11.103
- Nợ dài hạn
1.524
1.998
2
TSCĐ & đầu tư dài hạn
13.550
14.433
3
Vốn lưu động thường xuyên
(1) – (2)
-1.307
-1.332
Để tiến hành thi công được các công trình xây dựng chỉ chuẩn bị các máy móc thiết bị thì chưa đủ, doanh nghiệp còn cần phải đảm bảo đủ vốn lưu động đáp ứng nhu cầu về vốn trong quá trình thi công, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là số lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu dộng bao gồm hàng tồn kho và các khoản phải thu.
Bảng 6. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
Đơn vị: triệu đồng
Stt
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
1
Nợ ngắn hạn
62.119
83.054
2
Các khoản phải thu
48.067
61.822
3
Hàn tồn kho
2.162
4.783
4
Nhu cầu VLĐ thườn xuyên
11.890
16.449
Bảng trên cho thấy các nguồn vốn ngắn hạn đã thừa để tài trợ cho khoản phải thu và hàng tồn kho. Trong các năm qua nhu cầu vốn lưu động thường xuyên dương tức là các khoản tài sản lưu động ngoài ngân quỹ đề do nợ ngắn hạn tài trợ, công ty phải vay nợ dài hạn để tài trợ cho các tài sản ngắn hạn.
Qua phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ta thấy vốn lưu động ròng thì âm và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là dương. Điều này chứng tỏ tỷ trọng nợ ngắn hạn cao đến mức không hợp lý, tỷ trọng nợ dài hạn thấp ảnh hưởng đến sự an toàn trong thanh toán của Công ty. Như vậy, Công ty cần xem xét lại cơ cấu vốn phẩi cân đối lại nguồn vốn nâng cao tính an toàn va tiết kiệm chi phí trả lãi vay tránh tình trạng thừa vốn ngắn hạn mà lại thiếu vốn dài hạn.
II.2.2 Hiệu quả sử dụng vốn cố định:
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp ta không chỉ căn cứ vào tính hiệu quả trong sử dụng vốn cố định mà còn phải đánh giá năng lực hoạt động của tài sản cố định thông qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản cố định như hiệu suất sử dụng tài sản cố định, mức sinh lời của tài sản cố định..
II.2.3. HIệu quả sử dụng vốn lưu động:
II.2.3.1 Cơ cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp:
Vốn lưu động chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng tài sản của công ty. Năm 2008 giá trị tài sản lưu động của Công ty tăng mạnh cả về số tuyệt đối và số tương đối khiến tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lớn lên tới 85% tổng tài sản của đơn vị. Xu hướng này cho thấy nhu cầu về vốn lưu động của doanh nghiệp để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh đang gia tăng mạnh. Tuy nhiên, tỷ tọng tài sản lưu động cao như vậy có thể gây mất cân đối trong cơ cấu tài sản, ảnh hưởng xấu đến hoạt động của công ty.
Năm 2008, tài sản lưu động tăng rất mạnh với mức tăng là 34.38% tương ứng với 20.910 triệu đồng. Tiền mặt, các khoản phải thu, tồn kho cũng như tài sản lưu động khác đều tăng. Với tỷ trọng rất lớn, các khoản phải thu tăng lên 28.62% chủ yếu là tăng từ các khoản phải thu của khách hàng,số công nợ phải thu từ khách hàng là 48.221 triệu đồng chiếu tới 47% tổng doanh thu thuần.
Trên đây là các khoản mục chủ yếu có tác động lớn đến cơ cấu vốn lưu động của công ty Tramico. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự phản ánh vệ mặt lượng, chưa nói lên được mức độ hiệu quả trong quản lý và sử dụng vốn lưu động tại công ty.
II.2.3.2 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp ta dùng các chỉ tiêu như mức sinh lời, hệ số đảm nhiệm vốn lưu động và các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động như số vòng quay vốn lưu động, thời gian của một vòng luân chuyển.
Bảng 7. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Stt
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2007
Năm 2008
1
Doanh thu thuần
Trđ
96.774
102.879
2
Lợi nhuận trước thuế
Trđ
1.950
1.153
3
VLĐ bình quân
Trđ
60.812
81.722
4
Sức sinh lời của VLĐ
Đ
0,032
0,014
5
Hệ số đảm nhiệm VLĐ
Đ
0,628
0,794
6
Số vòng quay VLĐ
òng
1,591
1,259
7
Thời gian 1 vòng luân chuyển
ngày
226
285
Bảng trên cho thấy mặc dù vốn lưu động tăng liên tục trong hai năm 2007 và 2008 song mức sinh lời của vốn lưu động chỉ tăng trong năm 2007, ăm 2008 mức sinh lời của vốn cố định giảm mạnh.
Vốn lưu động bình quân vẫn liên tục tăng nhưng sức sản xuất của vốn lưu động lại có chiều hướng giảm xuống. Dựa vào hệ số đảm nhiệm vốn lưu động ta có thể thấy để có một đồng doanh thu thuần thì phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn lưu động.
Ngoài các chỉ tiêu trên để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta phải xét đến số vòng quay cảu vốn lưu động và thời gian một vòng luân chuyển của vốn lưu động vì nó giúp ta thấy được khả năng quay vòng vốn của doanh nghiệp.
III. Đánh giá tình hình sử dụng vốn tại công ty
Hoạt đông trên một thị trường có tính canh tranh ngày càng quyết liệt, ban lãnh đạo công ty Tramico đã tỏ rõ bản lĩnh kinh doanh của mình trong việc dẫn dắt công ty tồn tại và phát triển, lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty đã thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh với tinh thần cao, tận dụng tối đa mọi nguồn lực có sẵn, liên tục huy động về trong thiết bị, máy móc, vốn và đặc biệt là con người để không ngừng phát triển mở rộng quy mô, nhằm khẳng định vị trí của công ty trên thị trường xây dựng.
III.1 Những kết quả đạt được:
Mặc dù hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động tăng trong năm 2007 rồi lại giảm trong năm 2008 nhưng về mặt giá trị thì hiệu quả sử dụng vốn cảu Công ty đã là một thành tích mà không phải doanh nghiệp xây dựng mà cũng đạt được trong tình hình cạnh tranh găy gắt như hiện nay.
Công ty đã duy trì được vốn lưu động, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của công ty do đó tạo thuận lợi cho công ty trong sản xuất kinh doanh, chi phí khấu hao thấp giảm giá thành tăng lợi nhuận. Công ty đã tận dụng tốt những khoản nợ ngắn hạn mà chủ yếu là vay ngắn hạn và các khoản phải trả phải nộp khác để tài trợ cho tài sản lưu đọng và một phần khá quan trọng của tài sản cố định. Điều này không phải là dễ dành bởi muốn dùng nợ ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn công ty phải có uy tín cũng như khả năng phát triển.
III.2 Những hạn chế và nguyên nhân:
Hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn: Trong năm 2007 và 2008 hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn cố định của Công ty đều giảm. Sở dĩ như vậy vì do doanh thu và lợi nhuận của công ty tăng chậm so với sự gia tăng của vốn cố định bình quân. Đặc biệt năm 2008 lợi nhuận của công ty giảm so với năm 2007 khiến cho hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm gần một nửa. Như vậy một hạn chế cơ bản là tài sản cố định đầu tư mới đã không phát huy được tác dụng. Điều đó làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của đơn vị. Như vậy, vốn cố định bình quân tăng nhanh trong khi doanh thu và lợi nhuân tăng lên chậm hoặc giảm đi là một hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động: Trong lĩnh vực xây dựng hiện nay, các công ty xây dựng phải đáp ứng được một khối lượng vốn lớn để tiến hành thi công, còn việc thanh toán sẽ được Chủ đầu tư thực hiện thành nhiều lần trong và sau quá trình thi công. Đo đó, một phần lớn vốn lưu động của các đơn vị xây dựng là các khoản thu của khách hàng. Số phải thu của khách hàng này chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản lưu động cũng như vốn lưu động của doanh nghiệp. Việc tiết kiệm chi phí, tăng khả năng sinh lời cũng như tăng số vòng quay của vốn lưu động phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của việc quản lý và thu hồi các khoản phải thu.
IV. Phương hướng hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian tới:
IV.1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2238.doc