Từ khi thành lập công ty đã cố gắng tìm kiếm thị trường. Thi trường xuất khẩu là một điểm mạnh của công ty. Nhờ chính sách mở cửa của nhà nước mà công ty đề ra chiến lược mở rộng thị trường, đa dạng hoá mặt hàng, sản phẩm phù hợp với thị hiếu của từng khu vực, từng quốc gia trên thế giới làm tăng sản phẩm xuất khẩu. Hiện nay công ty đã có quan hệ với trên 40 nước trên thế giới, trong đó có những thị trường mạnh đầy tiềm năng như: EU, Đông Âu, Nhật Bản, Mỹ Song song với việc sản xuất các mặt hàng “mũi nhọn” phục vụ cho xuất khẩu, trong quá trình sản xuất công ty nhận thấy rằng nhu cầu tiềm năng sản xuất hàng nội địa là rất lớn, nên đã kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất, đưa chỉ tiêu sản xuất hàng nội địa thành chỉ tiêu phấn đấu thực hiện lớn trong các năm và trên thực tế giá trị tăng trưởng của công ty có phần đóng góp to lớn từ hàng hoá nội địa. Thị phần của công ty ở thị trường nội địa ngày một lớn, công ty đã tạo được uy tín tốt trên thị trường nội địa. Sản phẩm của công ty luôn được người tiêu dùng ưa chuộng. Thị trường nội địa là thị trường đầy tiềm năng của công ty. Hầu hết các đại lý, cửa hàng của công ty chủ yếu tập trung ở miền Bắc, đặc biệt là ở Hà Nội. Còn khu vực Tây nguyên, miền Tây Nam bộ hầu như chưa có đại lý, cửa hàng nào của công ty. Vì vậy trong những năm tới công ty cần phải có các chiến lược thâm nhập các thị trường này. Tổng doanh thu bán hàng của công ty năm 2003 là 20.024.060.834 đồng, trong đó doanh thu tập trung chủ yếu ở các trung tâm thương mại, các cửa hàng lớn, đại lý ở Hà Nội.
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3480 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo thực tập tại Công ty may Thăng Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăm1959 kế hoạch công ty được giao tăng 3 lần năm 1958. Sản phẩm có thêm 4 mặt hàng mới: Pizama, áo mưa, áo măng tô san, măng tô nữ. Và công ty cũng hoàn thànhmột cách xuất sắc, so với kế hoạch đạt 102%. Kết quả tốt đẹp 2 năm đầu tạo đà cho năm 1960, năm bản lề cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất trên miền Bắc. Kế hoạch Bộ giao tăng 45% so với 1959, nhưng công ty vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt tỉ lệ 116,16% chỉ tiêu kế hoạch.
Thắng lợi ban đầu này có ý nghĩa vô cùng quan trọng nó cổ vũ động viên mạnh mẽ toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty ra sức hăng say lao động, nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo trong sản xuất.
3. Các giai đoạn phát triển của công ty may Thăng Long:
Từ 1969 đến 1975: Được bộ chủ quản cho phép, tháng 07/1961 công ty chuyển địa điểm làm việc về số 250 - Minh Khai - Hà Nội, là trụ sở chính của công ty ngày nay. Địa điểm mới có nhiều thuận lợi, mặt bằng rộng rãi, tổ chức sản xuất ổn định. Các bộ phận phân tán trước nay thống nhất thành một mỗi tạo thành dây chuyền sản xuất khép kín hoàn chỉnh, từ khâu nguyên liệu, cắt may, là, đóng gói. Ngày 31/08/1965, Công ty may mặc xuất khẩu đổi tên thành Xí nghiệp may mặc xuất khẩu. Mặc dù gặp nhiều khó khăn do chiến tranh và hậu quả chiến tranh, xí nghiệp (XN) vẫn liên tục đầu tư thêm nhiều máy móc thiết bị mới để luôn nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm may mặc xuất khẩu của công ty. XN đã thay thế máy đạp chân bằng máy may công nghiệp, trang bị thêm máy móc chuyên dùng như máy thùa, máy đính cúc, máy cắt gọt, máy dùi dấu…Mặt bằng sản xuất được mở rộng, dây chuyền sản xuất đã lên tới 27 người, năng suất áo sơ mi đạt 9 áo/người/ca. Vì thế tình hình sản xuất những năm 1973 - 1975 đã có những bước tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, do có nhiều khó khăn không thể khắc phục dược năm 1972 XN chỉ đạt 67,7% chỉ tiêu kế hoạch với 2.084.643 sản phẩm.
Năm 1973: giá trị tổng sản lượng đạt 5.696.900 đồng, với tỷ lệ 100,77%, vượt hơn năm 1972 là 166,7%.
Năm 1974: tổng sản lượng đạt 5.005.608 sản phẩm, giá trị tổng sản lượng 6.596.036 đồng, đạt 102,28%.
Năm 1975: tổng sản lượng lên tới 6.476.926 sản phẩm, đạt 104,36%. Giá trị tổng sản lượng 7.725.958 đồng, đạt 102,27% so với kế hoạch.
Từ năm 1975 đến 1980: Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mĩ cứu nước đã mở ra cho dân tộc ta một thời kì mới, thời kì cả nước thống nhất, đi lên CNXH. Trong thời kì này XN đã tập trung vào một số hoạt động chính sau: Xây dựng nội quy XN và triển khai thực hiện là một đơn vị thí điểm của toàn ngành may. Trang bị thêm 84 máy may bằng và 36 máy 2 kim 5 chỉ thay cho 60 máy cũ, 1 máy ép có công suất lớn. Nghiên cứu chế tạo 500 chi tiết gá lắp làm cữ, gá cho hàng sơ mi, đại tu máy phát điện 100kw bảo đảm đủ điều kiện sản xuất và chiếu sáng các phân xưởng làm việc. Nghiên cứu cải tiến dây chuyền áo sơ mi, có sự cộng tác giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, nghiên cứu 17 mặt hàng mới, được đưa vào sản xuất 10 loại. Ngoài ra XN còn thành lập Hội đống sáng kiến khuyến khích công nhân phát huy sáng tạo cải tiến kĩ thuật và đã có 209 sáng kiến. Những thành tựu trên đã góp phần hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ 2.
Năm 1979, XN được Bộ quyết định đổi tên mới là Xí nghiệp may Thăng Long với ý nghĩa cao đẹp nghìn năm văn hiến cảu Thủ đô, cũng như khát vọng bay cao bay xa của XN trong tương lai. Sản phẩm của XN, đặc biệt là áo sơ mi xuất khẩu đã được xuất đi nhiều nước, chủ yếu là Liên Xô cũ và các nước Đông Âu.
Gai đoạn từ 1980 – 1990: Trong thời kì này XN có sự chuyển hướng mạnh mẽ từ sản xuất hàng mậu dịch xuất khẩu sang sản xuất hàng gia công xuất khẩu. Xác định rõ những khó khăn ban đầu, phái đối tác đòi hỏi kĩ thuật may gia công khắt khe, giao hàng đúng, đủ sản phẩm theo hợp đồng. Đề cao phong cách lao động công nghiệp…Sản phẩm của XN xuất khẩu sang các nước như Liên Xô, Đức, Pháp, Thuỵ Điển.
Đại hội Đảng lần thứ 6 (12/1986) đề ra 3mục tiêu kinh tế chủ yếu: Lương thực - Thực phẩm - Hàng tiêu dùng và Hàng xuất khẩu. Phấn đấu thực hiện mục tiêu của Đại hội, Xí nghiệp may Thăng Long cũng như những XN trong ngành may gặp rất nhiều khó khăn về biến động giá cả, thiếu thốn nguyên liệu… Khắc phục khó khăn trên, XN đã chủ động tạo nguồn nguyên liệu qua con đường liên kết với UNIMEX, nhà máy dệt 8-3 và nhiều đơn vị khác. Khi thiếu nguyên liệu làm hàng xuất khẩu XN nhanh chóng chuyển sang làm hàng nội địa.
Năm 1986 sản lượng giao nộp của XN đạt 109,12%, sản phẩm xuất khẩu đạt 102,73%.
Năm 1987 tổng sản phẩm giao nộp đạt 108,87%, hàng xuất khẩu đạt 101,77%.
Giai đoạn từ năm 1990 đến nay: Những năm đầu thập kỉ 90, cơ chế bao cấp không còn, doanh nghiệp bước vào cơ chế thị trường. Bên cạnh đó tình hình thế giới có những biến động lớn tác động mạnh mẽ đến nước ta. Liên Xô tan rã, các nước XHCN như Đông Âu, Đông Đức sụp đổ đã làm cho thị trường của XN có nhiều biến động lớn. Đứng trước khó khăn đó Đảng uỷ và Ban giám đốc đã đi đến quyết định: Phải chuyển hướng sản xuất và tìm thị trường mới phải đáp ứng bằng chính chất lượng của mình. XN đã quyết định đầu tư hơn 20 tỷ đồng thay thế thiết bị cũ trang bị thêm một số máy móc hiện đại, nâng cao trình độ công nghệ đủ khả năng sản xuất mặt hàng mới cao cấp, đồng thời phải tổ chức sắp xếp lại sản xuất, cải tiến các mặt quản lý cho phù hợp với yêu cầu mới, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên, XN không ngừng đẩy mạnh tiếp thị, chủ động tìm kiếm khách hàng, tháo gỡ những khó khăn về tiêu thụ cũng như mở rộng chủng loại mặt hàng.
Ngày 08/02/1991, XN là đơn vị đầu tiên trong ngành may được nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp, tạo thế chủ động, giảm phiền hà, tiết kiệm chi phí. Tiếp đến, ngày 04/03/1992 Bộ công nghiệp nhẹ đã kí quyết định chuyển Xí nghiệp may Thăng Long thành Công ty may Thăng Lông, tên giao dịch là Thang Long Garment Company (Thaloga), với nhiều nhiệm vụ sản xuất kinh doanh: Gia công hàng may mặc xuất khẩu, hàng nội địa, gia công hàng thêu mài. Hàng năm, công ty sản xuất từ 8 triệu đến 9 triệu sản phẩm, trong đó hàng xuất khẩu chiếm khoảng 95%, sản phẩm gia công chiếm từ 80% đến 90%. Năm 1993 công ty thành lập Trung tâm thương mại và giới thiệu sản phẩm tại 39 - Ngô Quyền - Hà Nội. Năm 1995, công ty thực hiện phương thức kinh doanh “mua đứt bán đoạn” đạt 21,200 tỷ đồng, chiếm 43,26% doanh thu. Trong đó giá trị xuất khẩu FOB đạt 13,702 tỷ đồng chiếm 28% doanh thu.
Năm 1996 doanh thu đạt 101% so với kế hoạch.
Năm 1997 công ty vượt kế hoạch 108% với tổng doanh thu 218.306 triệu USD và đảm bảo thu nhập bình quân 735.745 đồng/người/tháng.
Cho đến nay sau 45 năm phát triển, Công ty may Thăng Long đã có thị trường ổn định, rộng lớn cả trong nước và trên thế giới. Trong quá trình sản xuất, tiêu thụ đẩm bảo có lãi và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước. Thành tích đó đã được ghi nhận qua những tấm huân, huy chương cao quý:
1 Huân chương Độc lập hạng nhì (2002).
1 Huân chương Độc lập hạng ba (1997).
1 Huân chương Lao động hạng nhất (1988).
1 Huân chương Lao động hạng nhì (1993).
4 Huân chương Lao động hạng ba (1978, 1986, 2000, 2002).
1 Huân chương Chiến công hạng nhất (2000).
1 Huân chương Chiến công hạng nhì (1992).
1 Huân chương Chiến công hạng ba (1996).
Ngoài ra, công ty còn nhận được nhiều bằng khen và giấy khen của Bộ công nghiệp, UBND Thành phố Hà Nội, Tổng công ty Dệt - May Việt Nam…
Năm 2003, công ty tổ chức trọng thể 45 năm thành lập. Nhìn lại chặng đường đã đi qua tập thể cán bộ công nhân viên của công ty tự hào với truyền thống vẻ vang của mình. Hiện nay công ty đang mạnh dạn vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau để mua sắm thiết bị thêm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống cán bọ công nhân viên.
II- Hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban, bộ phận trực thuộc:
Công ty may Thăng Long là một đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, trực thuộc Tổng công ty Dệt - May Việt Nam nên đã xây dựng một cơ cấu quản lý theo kiểu trực tuyến chức năng, được tổ chức quản lý theo 2 cấp:
1. Cấp công ty:
Cấp công ty bao gồm: Tổng giám đốc công ty, chịu trách nhiệm quản lý và chỉ đạo trực tiếp dưới sự hỗ trợ của các Phó tổng giám đốc; Các phòng ban chức năng và các XN thành viên của công ty (đứng đầu là các trưởng phòng và giám đốc XN) chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Ban giám đốc. Mỗi phòng có một chức năng, nhiệm vụ vai trò riêng:
Tổng giám đốc: Tổng giám đốc của Công ty may Thăng Long là ông Lê Văn Hồng (từ tháng 7/1988 đén nay). Tổng giám đốc có nhiệm vụ chịu trách nhiệm chung trước Tổng công ty về tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị mình.
Phó tổng giám đốc điều hành kĩ thuật: có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về việc thiết lập mỗi quan hệ với các bạn hàng, với các cơ quan quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, tổ chức nghiên cứu mẫu hàng và các loại máy móc kĩ thuật, triển khai giấy phép xuất nhập khẩu như: tham mưu kí kết hợp đồng gia công, xin giấy phép xuất nhập khẩu, tiếp nhận nguyên phụ liệu, mở tờ khai hải quan, giao cho khách hàng…
Phòng kỹ thuật
Phòng KCS
Phòng thiết kế và phát triển
Phòng chuẩn bị sản xuất
Phòng kế hoạch sản xuất
Phòng kho
Phòng cung ứng
Văn phòng
Phòng kế toán tài vụ
Phòng thị trường
Phòng kinh doanh nội địa
TTTM CHTT& GTSP
GĐ các xí nghiệp thành viên
PX thêu
XN 3
XN may Hà Nam
XN may Nam Hải
XN 2
XN 1
XN may Hoà Lạc
XN Phụ trợ
PX mài
Tổng giám đốc
P.Tổng giám đốc ĐHKT
P.Tổng giám đốc ĐHSX
P.Tổng giám đốc ĐH Nội chính
Sơ đồ 1: Mô hình bộ máy quản lý của Công ty may Thăng Long
Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất: có chức năng tham mưu, giúp việc cho Tổng giám đốc, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về việc lập và báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của công ty.
Phó tổng giám đốc điều hành nội chính: có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về việc sắp xếp các công việc của công ty, có nhiệm vụ trực tiếp điều hành công tác lao động, tiền lương, bảo hiểm, y tế, tuyển dụng, đạo tạo cán bộ, chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên.
Phòng kĩ thuật: Có nhiệm vụ thiết kế mẫu mã, lập định mức, tiêu chuẩn kĩ thuật, chịu trách nhiệm về kĩ thuật của quy trình công nghệ.
Phòng KCS: kiểm tra chất lượng sản phẩm, kiểm tra các loại nguyên vật liệu nhập kho, các bán thành phẩm và thành phẩm.
Phòng thiết kế và phát triển: có nhiệm vụ thiết kế mẫu mã của sản phẩm để từ đó đưa vào kế hoạch sản xuất.
Phòng chuẩn bị sản xuất: Chức năng của phòng là tổ chức tiếp nhận và vận chuyể nguyên phụ liệu từ phương tiện vận chuyển xuống kho, đảm bảo số lượng chất lượng của hàng hoá nhập về. Phòng có trách nhiệm bảo quản hàng hoá có trong kho, quản lý và tổ chức sắp xếp khoa học hợp lý.
Phòng kế hoạch sản xuất: có chức năng thiết lập các kế hoạch sản xuất dựa trên nhu cầu các hợp đồng đã ký kết và chịu trách nhiệm trong các lĩnh vực cung ứng vật tư kĩ thuật, quản lý vật tư, tiến độ kế hoạch sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ.
Phòng kho: có nhiệm vụ quản lý và cấp phát nguyên vật liệu nhập về công ty. Phòng kho quản lý và bảo quản các thành phẩm do các XN sản xuất ra và chờ thời gian giao hàng cho khách hàng.
Phòng cung ứng: chịu trách nhiệm cung ứng nguyên vật liệu đảm bảo phục vụ đáp ứng kịp thời yêu cầu sản xuất của công ty. Phòng có trách nhiệm xây dựng phương án mua sắm nguyên vật liệu và chịu trách nhiệm đôn đốc, theo dõi đến nguyên vật liệu về đến kho theo đúng tiến độ, số lượng và chất lượng, giải quyết các vấn đề khiếu nại có liên quan khi có phát sinh.
Văn phòng: có chức năng, nhiệm vụ giúp đỡ cho Giám đốc nội chính về tổ chức nhân sự, có nhiệm vụ tuyển dụng, quản lý, bố trí lao động, thực hiện công tác tiền lương, quản lý và thực hiện công tác hành chính văn thư…
Phòng kế hoạch tài vụ: phòng có chức năng chuẩn bị và quản lý nguồn tài chính phục vụ cho sản xuất kinh doanh và các khoản lương cho các cán bộ công nhân viên trong công ty. Phòng này quản lý và cung cấp các thông tin về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, về tài sản của doanh nghiệp trong từng kì, trong năm kế hoạch.
Phòng thị trường: phòng có chức năng, nhiệm vụ giao dịch đàm phán soạn thảo các hợp đồng, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, năng lực công ty với các quy trình sản
xuất, đề xuất các biện pháp quản lý và giải quyết các phát sinh trong sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
Phòng kinh doanh nội địa: có chức năng, nhiệm vụ kinh doanh sản phẩm của công ty trên thị trường nội địa như quảng cáo thương hiệu sản phẩm của công ty, mở rộng mạng lưới đại lý, cửa hàng. Phòng còn có nhiệm vụ tìm đối tác trong nước, nghiên cứu thị trường, tìm hiểu mẫu mã phù hợp với thi hiếu trong từng giai đoạn…
Trung tâm thương mại, cửa hàng thời trang và giới thiệu sản phẩm: có chức năng và nhiệm vụ giới thiệu, bán những sản phẩm may mặc của công ty cho người tiêu dùng, đồng thời kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau. Đặc biệt là cửa hàng thời trang của công ty giới thiệu sản phẩm và bán những mẫu thời trang do công ty thiết kế và sản xuất ra đáp ứng nhu cầu may mặc thời trang đang tăng nhanh của người tiêu dùng. Ngoài ra, các cửa hàng còn có nhiệm vụ tìm hiểu và cung cấp các thông tin về nhu cầu, thị hiếu, mẫu mã hợp thời trang, hợp giá cả thị trường trong nước để sản xuất và tiêu thụ cho phòng kinh doanh nội địa, xây dựng các chiến lượcp, mở rộng khả năng tiếp cận với thị trường trong nước để tìm khách hàng.
2. Cấp xí nghiệp:
Đứng đầu là các Giám đốc XN. Ngoài ra còn có các tổ trưởng sản xuất, nhân viên tiền lương thống kê, cấp phát nguyên vật liệu…
- Các XN có nhiệm vụ tổ chức triển khai sản xuất theo đúng kế hoạch của công ty, chịu trách nhiệmvề tổ chức, quản lý cán bộ công nhân viên, nhà xưởng máy móc thiết bị, phương tiện sản xuất …chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm.
- XN phụ trợ: gồm 1 phân xưởng thêu, 1 phân xưởng mài có nhiệm vụ thêu mài ép đối với những sản phẩm cần gia công và trùng tu, đại tu máy móc thiết bị. Ngoài ra, XN này còn có nhiệm vụ quản lý và cung cấp điện năng, điện nước cho các đơn vị sản xuất kinh doanh của công ty,xây dựng các kế hoạch dự phòng, thay thế thiết bị…
III- Thực trạng kinh doanh của Công ty may Thăng Long:
1. Nguồn lực sản xuất:
Là doanh nghiệp của nhà nước nên vốn của công ty chủ yếu là do nhà nước cấp. Ngoài ra nguồn vốn của công ty chủ yếu còn được hình thành từ nguồn vốn vay ngân hàng, vốn góp của các thành viên. Chính vì vậy, vốn của công ty trong những năm qua tăng đáng kể, trong đó phần lớn là vốn đi vay sở hữu và vốn rót từ Tổng công ty xuống. Cơ cấu vốn của công ty thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Tình hình vốn của công ty:
(đơn vị: 1000đ)
Năm
1999
2000
2001
2002
Tổng nguồn vốn
69.187.623
70.188.969
92.235.812
97.289.341
Vốn cố định
49.123.212
50.536.057
67.332.142
71.994.112
Vốn lưu động
20.064.411
19.652.292
24.903.670
25.295.229
Nguồn vôn chủ sở hữu
17.571.702
19.598.096
29.831.963
30.252.693
Nợ phải trả
51.615.921
50.596.873
62.403.849
67.036.648
(Nguồn: Phòng Kế toán Công ty may Thăng Long)
Qua bảng ta thấy Vốn cố định càng ngày càng tăng từ 49.123.212.000 đồng (năm 1999) lên 71.994.112.000 đồng (năm 2002). Chứng tỏ công ty chú trọng đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị. Nhìn vào bảng ta cũng thấy được nguồn vốn đi vay tăng theo từng năm và chiếm tỷ trọng rất lớn so với vốn chủ sở hữu, năm 1999 vốn vay chiếm 74,60% tổng nguồn vốn, năm 2002 chiếm 68,90%.
Về cơ sở vật chất kĩ thuật: Khi mới thành lập máy móc kĩ thuật của công ty cũ kĩ, lạc hậu, cơ sở hạ tầng thấp kém chật chội. Nhưng qua 45 năm phát triển, công ty đã có một hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật khang trang hiện đại. Giá trị máy móc thiết bị chiếm hơn 50% tổng số vốn cố định. Đây là điều kiện tốt để cho công ty phát huy hết công suất.
Về nguồn nhân lực: từ khi thành lập đến nay công ty đã góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động. Hiện nay, đội ngũ công nhân viên của công ty gần 4000 người vì đặc trưng của ngành may mặc nên phần lớn là lực lượng lao động nữ (chiếm 90%). Lực lượng lao động của công ty khá trẻ, nhóm lao động có độ tuổi từ 18 đến 35 tuổi chiếm hơn 70% trong tổng số lao động. Trên 90% lao động quản lý ở các phòng ban có trình độ từ cao đẳng và đại học trở lên, gần 80% công nhân trực tiếp sản xuất học hết lớp 12, không có công nhân có trình độ cấp 1. Trình độ tay nghề bình quân của công nhân là bậc 3/6. Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên toàn công ty hiện nay là 1.100.000 đồng.
Bảng 2: Tình hình lao động của công ty:
(đơn vị: 1000 đồng/người/tháng)
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Số lao động
2.000
1.996
2.000
2.165
2.350
2.956
Thu nhập BQ
735
835
920
1.000
1.100
1.100
(Nguồn: Ban tổ chức hành chính Công ty may Thăng Long)
Biểu đồ mô tả số lượng lao động và thu nhập bình quân của lao động:
Ngày nay Công ty may Thăng Long là đơn vị thành viên trực thuộc Tổng công ty Dệt-May Việt Nam, gồm 7 XN thành viên nằm tại các khu vực: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Hoà Lạc với 98 dây chuyền sản xuất hiện đại và gần 4000 cán bộ công nhân viên. Năng lực sản xuất đạ trên 12 triệu sản phẩm các loại/năm. Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 120%.
2. Về thị trường:
Từ khi thành lập công ty đã cố gắng tìm kiếm thị trường. Thi trường xuất khẩu là một điểm mạnh của công ty. Nhờ chính sách mở cửa của nhà nước mà công ty đề ra chiến lược mở rộng thị trường, đa dạng hoá mặt hàng, sản phẩm phù hợp với thị hiếu của từng khu vực, từng quốc gia trên thế giới làm tăng sản phẩm xuất khẩu. Hiện nay công ty đã có quan hệ với trên 40 nước trên thế giới, trong đó có những thị trường mạnh đầy tiềm năng như: EU, Đông Âu, Nhật Bản, Mỹ…Song song với việc sản xuất các mặt hàng “mũi nhọn” phục vụ cho xuất khẩu, trong quá trình sản xuất công ty nhận thấy rằng nhu cầu tiềm năng sản xuất hàng nội địa là rất lớn, nên đã kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất, đưa chỉ tiêu sản xuất hàng nội địa thành chỉ tiêu phấn đấu thực hiện lớn trong các năm và trên thực tế giá trị tăng trưởng của công ty có phần đóng góp to lớn từ hàng hoá nội địa. Thị phần của công ty ở thị trường nội địa ngày một lớn, công ty đã tạo được uy tín tốt trên thị trường nội địa. Sản phẩm của công ty luôn được người tiêu dùng ưa chuộng. Thị trường nội địa là thị trường đầy tiềm năng của công ty. Hầu hết các đại lý, cửa hàng của công ty chủ yếu tập trung ở miền Bắc, đặc biệt là ở Hà Nội. Còn khu vực Tây nguyên, miền Tây Nam bộ hầu như chưa có đại lý, cửa hàng nào của công ty. Vì vậy trong những năm tới công ty cần phải có các chiến lược thâm nhập các thị trường này. Tổng doanh thu bán hàng của công ty năm 2003 là 20.024.060.834 đồng, trong đó doanh thu tập trung chủ yếu ở các trung tâm thương mại, các cửa hàng lớn, đại lý ở Hà Nội.
Bảng 3: Doanh thu bán hàng nội địa năm 2003 của công ty:
(Nguồn: Phòng kinh doanh nội địa - đơn vị: đồng)
Cửa hàng, đại lý
Cửa hàng thời trang
39 Ngô Quyền
Tràng tiền
25 Bà triệu
Ngoài 39 Ngô Quyền
Các đại lý khác
Doanh thu
258397400
2686744800
914800100
1097002900
8498122300
93499200
Thị trường xuất khẩu của công ty chia thành 2 loại: có hạn ngạch và phi hạn ngạch. Thị trường có hạn ngạch bao gồm thị trường EU, Canada, Mỹ… công ty chỉ đáp ứng được 40% năng lực sản xuất. Chính vì vậy nhiều khi công ty phải xin thêm quota xuất khẩu thậm chí còn mua quota của doanh nghiệp khác để tăng lượng xuất khẩu. Thị trường phi hạn ngạch như Nhật, Hàn Quốc, Hồng Kông…sản lượng xuất khẩu vào thị trường này phụ thuộc vào sự kí kết được các hợp đồng và năng lực sản xuất. Hai loại thị trường này đều đòi hỏi khắt khe về kĩ thuật, chất lượng sản phẩm…
Sản phẩm chính của công ty bao gồm: áo sơ mi cộc tay, áo sơ mi dày tay, sơ mi bò, quần soóc kaki, quần dài tuytsi, áo jăckét, áo măngtô, quần jeans, áo bò…sản phẩm của công ty đáp ứng hầu hết mọi nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng từ già đến trẻ, từ model này đến model khác. Và sản phẩm của công ty được người tiêu dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao. Trong những năm tiếp theo công ty có kế hoạch đầu tư trang thiết bị để cho ra đời những sản phẩm không những chỉ duy trì thị trường hiện nay mà còn mở rộng chiếm lĩnh thị trường mới.
3. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty:
Từ một cơ sở sản xuất nhỏ ban đầu, với số lượng vài chục công nhân, dăm ba bàn may cổ lỗ, cũ kĩ, sản xuất nhỏ lẻ phân tán, nơi làm việc chật chội thiếu thốn. Ngày nay Công ty may Thăng Long có một cơ sở vật chất kĩ thuật khang trang hiện đại. Đó là do tập thể Công ty may Thăng Long không ngừng đổi mới toàn diện mình như đổi mới trang thiết bị, đào tạo công nhân lao động kĩ thuật, đổi mới bộ máy quản lý, sắp xếp lại tổ chức, tinh giảm biên chế…Thêm vào đó lại được quyền xuất khẩu trực tiếp. Mặc dù, hiện nay trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, tình hình chính trị trên thế giới bất ổn dẫn đến biến động về thị trường của công ty. Nhưng dựa vào đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, chính quyền và các tổ chức đoàn thể mà Công ty may Thăng Long có những kết qủa khả quan. Luôn là đơn vị đi đầu ngành về tỉ lệ sản xuất hàng FOB, có nhiều sản phẩm chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế như áo sơ mi, jăckét, quần âu…Lại được tổ chức chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng BVQI (Vương quốc Anh) chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng của công ty đạt ISO 9002 nên tình hình sản xuất kinh doanh luôn vượt kế hoạch.
Hiện nay, công ty đã có quan hệ với 80 hãng thuộc 40 quốc gia trên thế giới. Sức sản xuất hàng năm là 5 triệu sản phẩm quy chuẩn, tốc độ đầu tư tăng bình quân là 59%/năm, tốc độ bình quân nộp ngân sách là 25%, doanh thu là 20%, kim ngạch XNK là 23%. Bình quân thu nhập đầu người là 1.100.000 đồng/người/tháng.
Sau đây là báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty trong vài năm qua:
Bảng 4: Kết quả kinh doanh
TT
Chi tiết
Đơn vị
2000
2001
2002
2003
1
Giá trị SX công nghiệp
Tr.đ
47.560
55.683
65.050
74.306
2
Tổng doanh thu
Tr.đ
112.170
130.378
156.388
172.310
Doanh thu xuất khẩu
Tr.đ
90.845
108.854
132.508
152.286
FOB
Tr.đ
63.131
71.636
97.250
114.932
Hình thức khác
Tr.đ
27.714
37.218
35.258
37.354
Doanh thu nội địa
Tr.đ
21.325
21.524
23.880
20.024
3
Giá vốn + chi phí
Tr.đ
106.866
123.482
147.840
158.236
4
Lợi nhuận trươc thuế
Tr.đ
5.304
6.896
8.548
14.074
5
Nộp ngân sách
Tr.đ
3.370
3.470
3.820
5.175
VAT
Tr.đ
2.085
2.152
2.388
1.910
Thuế TNDN
Tr.đ
619
577
848
2.814
Thuế khác
Tr.đ
666
741
584
451
6
Lợi nhuận sau thuế
Tr.đ
1.934
3.426
4.728
8.899
7
Lao động
Người
2.165
2.495
2.966
3.800
8
Thu nhập BQ/tháng
1000đ
1.000
1.100
1.100
1.300
Nhìn vào bảng ta thấy kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty may Thăng Long ngày càng có hiệu quả, đóng góp ngày càng lớn vào ngân sách của nhà nước. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng từ 47.560 tr.đ (năm 2000) lên 74.306 tr.đ (năm 2003). Doanh thu của công ty năm 2000 là 112.170 tr.đ đến năm2003 là 172.310 tr.đ, tuy nhiên doanh thu hàng nội địa chiếm tỷ trọng không lớn chiếm 19,01% (năm 2000) và 11,07% (năm 2003) do đó có sự chênh lệch lớn giữa 2 chỉ tiêu này. Nộp ngân sách cũng tăng theo từng năm làm lợi cho nhà nước hàng tỷ đồng (3.370 tr.đ năm 2000 và 5.175 tr.đ năm 2003). Bên cạnh đó cung góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và thu nhập của người lao động được cải thiện rõ rệt.
III- Những ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân và phương hướng phát triển của công ty may Thăng Long:
1. Ưu điểm:
Phát huy tính sáng tạo của tập thể cán bộ CNV của công ty khắc phục mọi khó khăn gian khổ, tìm tòi những giải pháp tốt nhất để không ngừng củng cố và phát triển công ty trong từng thời kì. Từ một cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, với những máy móc cũ kĩ. Nhưng bây giờ sau 45 năm phát triển công ty có được những thành tựu đáng khích lệ, có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, với quy mô lớn. Có các sản phẩm với chất lượng cao được người tiêu dùng ưa chuộng, tạo được uy tín tốt không chỉ khách hàng trong nước mà còn chinh phục được các khách hàng khó tính ở nước ngoài.
Công ty không ngừng phát huy cải tiến tổ chức sản xuất, đổi mới công nghệ, chú trọng đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm mở rộng thị trường, lấy sự thoả mãn của khách hàng làm một trong những mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp trong suốt quá trình phát triển. Con người luôn có nhu cầu ăn mặc đẹp hơn, nhưng nhìn chung đều hướng tới sự hài hoà giữa giản dị với trang trọng, tao nhã mà lịch sự, sản phẩm đẹp nhưng giá trị sử dụng phải cao…Để làm được điều này, trong công tác lãnh đạo và điều hành sản xuất Ban lãnh đạo luôn chú trọng giáo dục công nhân vấn đề mang tính sống còn của công ty đó là chất lượng sản phẩm. Công ty đã không ngần ngại khi sử dụng vốn tự có và vốn vay để đầu tư mua máy móc trang thiết bị dây chuyền hiện đại tiên tiến của các nước tư bản. Do vậy mà hàng của công ty xét về chất lượng mẫu mã không thua kém bất cứ một hãng nào. Nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thị trường trong và ngoài nước, công ty đã tập trung đầu tư chiều sâu và chiều rộng theo hướng chuyên môn hoá, đa dạng hoá sản phẩm. áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001, công ty luôn dành được các huy chương vàng và danh hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao tại các cuộc hội chợ, triển lãm.
C
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35882.DOC