Báo cáo thực tập tại Công ty Thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội

Mậc dù còn gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh như: thiếu vốn, sự cạnh tranh gay gắt, giá cả biến động, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu á, tỷ giá biến động bất thường, Nhà nước có những thay đổi trong chính sách thuế ảnh hưởng tới việc tính toán dự báo thị trường, gây khó khăn trong việc kinh doanh xuất nhập khẩu song với tinh thần quyết tâm , dám nghĩ dám làm, trong mấy năm qua Công ty đã phấn đấu đạt được những kết quả đáng khích lệ trên cả lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như đối với hiệu quả xã hội, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho CBCNV, được cấp trên đánh giá là một đơn vị hoạt động có hiệu quả, tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Điều đó được thể hiện rất rõ trong việc thực hiện nghĩa vụ ngân sách và thuế cho Nhà nước của Công ty hàng năm.

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2244 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo thực tập tại Công ty Thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g hàng không Pacific Airline. Địa diểm tại công ty-142 Phố Huế. Hình thức nhập khẩu của Công ty bao gồm nhập khẩu trực tiếp và nhập khẩu uỷ thác nhưng hình thức nhập khẩu trực tiếp chiếm đa số. Phương thức bán hàng thường là bán buôn trực tiếp qua kho. Phương thức nhập khẩu của Công ty chủ yếu là nhập theo giá CIF, địa điểm giao hàng thường ở hai cảng lớn là Cảng Hải Phòng, Cảng thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, phương thức giao hàng có thể là đường sắt hoặc đường không. Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty : Phó giám đốc Phó giám đốc Phòng tài vụ Phòng kinh doanh tổng hợp phòng kinh doanh 3 Phòng XNK1 Phòng tổ chức hành chính Hệ thống các cửa hàng Phòng kế hoạch thị trường Phòng giao nhận và V/C Phòng XNK2 Giám đốc Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo chế độ một thủ trưởng do giám đốc đứng đầu quản lý, điều hành trực tiếp toàn diện từ các phòng ban đến các cửa hàng. Từng phòng ban sẽ xây dựng kế hoạch trình lên giám đốc trong buổi họp giao ban, kế hoạch được triển khai từ trên xuống. *Chức năng và nhiệm vụ của công các phòng ban như sau : -Ban giám đốc : Gồm 01 giám đốc và phó giám đốc. Giám đốc: là người chỉ đạo chung, có thẩm quyền cao nhất, có nhiệm vụ quản lý toàn diện trên cơ sở chấp hành đúng đắn chủ trương, chính sách, chế độ của Nhà nước. Phó giám đốc: hai phó giám đốc chịu trách nhiệm chỉ đạo các phòng ban do mình quản lý, giúp giám đốc nắm vững tình hình hoạt động của Công ty để có kế hoạch và quyết định sau cùng, giải quyết các công việc được phân công. Phòng tài vụ (phòng kế toán): tổ chức hạch toán toàn bộ hoạt động xuất nhập khẩu, kinh doanh, giải quyết các vấn đề tài chính, thanh toán, quyết toán bán hàng, thu tiền, tiền lương, tiền thưởng, nghĩa vụ đối với Nhà nước và các vấn đề liên quan đến tài chính. Đồng thời tham mưu cho giám đốc xây dựng các kế hoạch tài chính. Phòng xuất nhập khẩu 1 và phòng xuất nhập khẩu 2: với chức năng tìm hiểu thị trường, bạn hàng nước ngoài để từ đó ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu dựa trên những kế hoạch đã đề ra, giải quyết các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu. Phòng kinh doanh tổng hợp và phòng kinh doanh 3: có nhiệm vụ nghiên cứu, tìm hiểu thị trường trong nước để có chiến lược kinh doanh trước mắt và lâu dài, tham mưu cho ban giám đốc về kế hoạch tiêu thụ, ký kết các hợp đồng với bạn hàng trong nước, theo dõi hoạt động của các cửa hàng. Phòng giao nhận và vận chuyển: thực hiện việc vận chuyển hàng nhập khẩu từ cảng về kho của Công ty. Các cửa hàng: là mạng lưới tiêu thụ hàng trong nước và ngoài nước của Công ty, thực hiện việc bán buôn và bán lẻ, là đơn vị hạch toán phụ thuộc. Các chứng từ liên quan đến hoạt động kinh doanh đều gửi về Công ty làm công tác hạch toán. Phòng tổ chức hành chính : Tham mưu giúp đỡ cho giám đốc công tác : +Đối nội, đối ngoại, lưu trữ hồ sơ giấy tờ, thủ tục, công văn. +Tổ chức nhân sự, quản lý sắp xếp, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên. +Quản lý tiền lương, tiền thưởng và các chế độ chính sách như : bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... +Một số công việc hành chính khác như công việc bảo vệ, tạp vụ, vệ sinh... *.Phương pháp quản lý của công ty : Bộ máy quản lý của công ty gọn nhẹ, phương pháp quản lý đơn giản, áp dụng phương pháp quản lý trực tiếp do giám đốc lãnh đạo, quẩn lý điều hành trực tiếp toàn diện từ các phòng ban đến các cửa hàng. Hoạt động kinh doanh của công ty được thực hiện thông qua các phòng kinh doanh và cửa hàng. Các phòng kinh doanh, cửa hàng chịu trách triệm đối với từng lĩnh vực kinh doanh riêng trước giám đốc. Ngoài ra tại mỗi phòng kinh doanh, trách nhiệm kinh doanh của từng mặt hàng sẽ được giao cho từng người trong trong phòng và những người này sẽ chịu trách nhiệm với trưởng phòng về mặt hàng kinh doanh đã được giao cho. Quản lý là yếu tố quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh. Để quản lý có hiệu quả thì đòi hỏi phải tổ chức bộ máy quản lý phù hợp với đội ngũ cán bộ có trình độ, có năng lực. Do nhận thức đúng đắn tầm quan trọng đó từ khi thành lập đến nay công ty đã từng bước củng cố tổ chức các phòng ban, cửa hàng, tuyển chọn những nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao và nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên cũ của công ty cho phù hợp với công việc kinh doanh và phục vụ cho kế hoạch phát triển lâu dài của công ty. *Tình hình lao động của công ty. Bảng 1. Tổng số cán bộ công nhân viên của công ty một số năm gần đây Chỉ tiêu 1998 1999 2000 1999/1998 2000/1999 Tổng số CBCNV 65 71 76 109,23% 107,04% nam 20 23 29 115,00% 126,09% nữ 45 48 47 106,67% 97,92% ĐH +TC 16 29 34 181,25% 117,24% LĐ KD trực tiếp 50 57 63 114,00% 110,53% LĐ GT 15 14 13 93,33% 92,86% LĐ KD TT/tổng CBCNV 76,92% 80,28% 82,89% LĐ KD GT/tổng CBCNV 23,08% 19,72% 17,11% LĐ ĐH+ TC/tổng CBCNV 24,62% 40,85% 44,74% (Nguồn : phòng TCHC của công ty thương mại XNK Hà Nội) Qua bảng số liệu trên ta thấy tình hình lao động của công ty qua một số năm như sau : -Tổng số CBCNV của công ty đã tăng trung bình 8% một năm. -Tỷ lệ số lao động nam và lao động nữ ở công ty có số chênh lệch lớn. Tuy nhiên trong một số năm gần đây tỷ lệ số lao động nam đang có chiều hướng tăng lên. -Số CBCNV có trình độ đại học và trung cấp của công ty còn ít nhưng do công ty quan tâm nhiều đến khâu tuyển chọn nên tỷ lệ này ngày càng tăng rõ rệt. -Lao động kinh doanh trực tiếp ở công ty là chủ yếu và tỷ lệ này có xu hướng tăng lên. *Tình hình thu nhập của CBCNV trong công ty. Tuy nước ta đã chuyển sang kinh tế vận động theo cơ chế thị trường nhưng nhìn chung các doanh nghiệp Nhà Nước vẫn còn phần nào bị ảnh hưởnh của chế độ kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Cụ thể là tác phong làm việc của CBCNV trong doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa linh hoạt. Nhưng với công ty thương mại XNK Hà Nội thì đào tạo được các đặc điểm khác biệt so với các doamh nghiệp nhà nước cùng loại, có thể nói công ty đã tạo được động cơ trong công việc với CBCNV để họ tập trung cao sức lực, trí lực cửa mình vào công việc. Một trong những nguyên nhân tạo động cơ lao động đó là công ty đã có một chế độ đãi ngộ rất hợp lý với CBCNV. Tuy là một doanh nghiệp Nhà nước nhưng do hạch toán kinh doanh độc lập nên công ty có chế độ trả lương hết sức linh hoạt, ngoài một khoản lương cố định hay còn gọi là lương cấp bậc hoặc lương đã ký kết trong hợp đồng theo chế độ Nhà nước qui định, CBCNV hàng tháng sẽ được nhận một khoản tiền thưởng tuỳ theo mức lợi nhuận mà người đó có đóng góp cho công ty. Hay nói cách khác, do phương pháp quản lý kinh doanh của công ty là mỗi người trong phòng ban sẽ phải chịu trách nhiệm đối việc kinh doanh của một hay một số mặt hàng dược giao. Phương pháp trả lương nay đã tạo ra động cơ làm việc với CBCNV trong công ty và phương pháp này cũng tạo ra một mức thu nhập khá cao cho CBCNV trong công ty. Tuy mức lương cố định bình quân không cao (550.000 đồng/người/tháng) nhưng với mức tiền thưởng hàng tháng thì mức thu nhập hàng tháng của từng người trong công ty là khá cao (mức thu nhập bình quân là 1.300.000 đồng/người/tháng) với mức thu nhập này có thể giúp cho CBCNV yên tâm công tác. Nhưng với phương pháp này sẽ khiến mức thu nhập của CBCNV dao động và tuỳ thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ty. 3. Tình hình kinh doanh của công ty : 3.1. Kết quả kinh doanh một số năm gần đây: Những năm đầu thực hiện việc chuyển đổi cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, công tác kinh doanh của Công ty gặp không ít khó khăn: khó khăn về cơ sở vật chất, khó khăn về nguồn vốn, công tác tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cơ chế quản lý, kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Những năm gần đây lại là những năm đầy khó khăn thử thách đối với các đơn vị kinh doanh: thị trường diễn biến phức tạp, cạnh tranh khốc liệt, Nhà nước liên tục có những thay đổi trong cơ chế chính sách. Với nguồn vốn phục vụ kinh doanh quá ít, Công ty hoạt động chủ yếu bằng các nguồn vốn vay ngắn hạn của ngân hàng với lãi suất cao do đó lợi nhuận thu về còn quá ít và bỏ lỡ nhiều cơ hội trong kinh doanh vì không chủ động được nguồn vốn. Để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây ta có thể xem qua một số chỉ tiêu sau: Bảng 2: Kết quả kinh doanh của Công ty Thương mại XNK Hà Nội ĐVT: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm2001 Năm 2002 Doanh thu Lợi nhuận Nộp NS Lương Kim ngạch XNK 101000 165 15 700 60000 (USD) 130000 131 13 650 70000 (USD) 189000 150 18,3 700 450000 (USD) 217000 200 21,5 900 500000 (USD) (Nguồn : Phòng Kế toán công ty Thương mại XNK Hà Nội ) Qua bảng số liệu trên cho thấy: Doanh thu của Công ty ngày càng tăng: năm 2000 tăng hơn so với năm 1999 là 28,7% (tương đương 29.000 triệu đồng); năm 2001 tăng hơn so với năm 2000 là 45,38% ( tương đương 59.000 triệu đồng), năm 2002 tăng hơn năm 2001 là 14,81% ( tương đương 28.000). Doanh thu của công ty tăng liên tục qua các năm là do mở rộng qui mô hoạt động, chú trọng vào việc phát triển các mặt hàng và mở rộng thi trường kinh doanh. Biểu đồ lợi nhuận qua các năm - Lợi nhuận năm 2000 so với năm 1999 giảm 34 triệu đồng nhưng đến năm 2001 lại tăng 19 triệu đồng, năm 2002 so với năm 2001 tăng 50 triệu đồng do giảm chi phí bán hàng, chi phí quản lý. Điều này thể hiện sự cố gắng của đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ, kinh nghiệm và việc tổ chức các khâu từ nghiên cứu thị trường đến hoạt động kinh doanh XNK có khoa học, hiệu quả. Vì thế năm 2002 được xem là năm giảm được đáng kể các chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh. Nộp ngân sách năm 2000 so với năm 1999 giảm 2 triệu đồng, tương đương 13,33% do doanh thu năm 2000 giảm so với năm 1999. Năm 2001, 2002 số tiền nộp ngân sách Nhà nước tăng lên do doanh thu và lợi nhuận của Công ty tăng. Lương của cán bộ công nhân viên năm 2000 giảm so với năm 1999 là 50 triệu do lợi nhuận năm 2000 giảm so với năm 1999, năm 2001 và 2002 lương của cán bộ công nhân viên đều tăng do lợi nhuận tăng. Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1999 và 2000 thấp vì lúc đó công ty có qui mô nhỏ trực thuộc sự quản lý của UBND Quận Hai Bà Trưng nên hoạt động kinh doanh chưa được linh hoạt. Từ năm 2001, công ty trực thuộc sự quản lý của Sở Thương mại thành phố nên qui mô của công ty được mở rộng, hoạt động XNK dược đẩy mạnh do đó kim ngạch XNK tăng lên nhanh chóng. Để đạt được kết quả như vậy, Công ty Thương mại Xuất Nhập khẩu Hà Nội đã hoạt động trên cơ sở một phần vốn kinh doanh của Nhà nước giao, một phần do quá trình hoạt động của Công ty đã bảo toàn và tăng cường vốn do tiết kiệm trong chi tiêu, sử dụng hợp lý có hiệu quả các nguồn vốn tự có, một phần do biết khai thác vốn từ nhiều nguồn khác nhau. 3.2. Thị trường và mặt hàng kinh doanh : Với phương châm “ Duy trì, ổn định và phát triển kinh doanh nội địa, đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường nước ngoài, phát triển mối quan hệ với nhiều nước trên thế giới” Công ty đã vươn tầm hoạt động ra khắp nơi, thị trường tiêu thụ khá đa dạng, vừa phục vụ trực tiếp người tiêu dùng, vừa thực hiện các HĐKT với các Công ty , Xí nghiệp trên địa bàn Hà Nội và cả nước. Không những thế, Công ty còn xuất khẩu một số mặt hàng ra nước ngoài như: cà phê, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu sang Trung Quốc; găng tay vải xuất sang Đài Loan..Đạt được điều này một phần do các sản phẩm về vật liệu, máy móc xây dựng, điện tử dân dụng, may mặc, nông lâm sản có chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu thị trường. Ngoài ra, thị trường nhập khẩu của Công ty khá rộng kể cả trong khu vực và trên thế giới như Thái Lan, Trung Quốc, Nhật, Anh, Đức, Pháp, Nga... Công ty đã cố gắng bám sát thị trường , thực hiện các biện pháp xâm nhập và phát triển thị trường, không những duy trì và mở rộng thị trường truyền thống mà còn xâm nhập vào các thị trường mới. Thực hiện chủ trương của Nhà nước về đẩy mạnh xuất khẩu Công ty đã chú trọng quan tâm đến công tác tiếp thị khai thác mặt hàng, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, đã xuất khẩu các mặt hàng chính là nông sản, hải sản, hàng may mặc sang các nước EU. 4. Nhận xét về những thành công và hạn chế của công ty trong kinh doanh 4.1.Thành công Mậc dù còn gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh như: thiếu vốn, sự cạnh tranh gay gắt, giá cả biến động, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu á, tỷ giá biến động bất thường, Nhà nước có những thay đổi trong chính sách thuế ảnh hưởng tới việc tính toán dự báo thị trường, gây khó khăn trong việc kinh doanh xuất nhập khẩu song với tinh thần quyết tâm , dám nghĩ dám làm, trong mấy năm qua Công ty đã phấn đấu đạt được những kết quả đáng khích lệ trên cả lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như đối với hiệu quả xã hội, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho CBCNV, được cấp trên đánh giá là một đơn vị hoạt động có hiệu quả, tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Điều đó được thể hiện rất rõ trong việc thực hiện nghĩa vụ ngân sách và thuế cho Nhà nước của Công ty hàng năm. Nhìn chung các chỉ tiêu kế hoạch Công ty đều hoàn thành và vượt mức. Riêng chỉ tiêu nộp ngân sách do thuế XNK giảm theo lộ trình hội nhập quốc tế và hàng xuất khẩu khuyến khích thuế bằng không nên mặc dù doanh số tăng, thu nhập tăng nhưng nộp ngân sách lại giảm (đây là lý do khách quan do chính sách của nhà nước). Thực hiện nhiệm vụ phát triển thương mại theo hướng văn minh hiện đại, các đơn vị đã tự chủ trong kinh doanh, chủ động khai thác mở rộng thị trường, từ hình thức bán lẻ đơn thuần nay đã chuyển dần sang các hình thức hiện đại như liên doanh, làm đại lý kí gửi, ký hợp đồng bán buôn nhiều mặt hàng với doanh số lớn. Các đơn vị có mức tăng trưởng cao như: cửa hàng Trần Cao Vân, cửa hàng chợ Mơ, cửa hàng Trương Định, phòng GNVC&DL. Các điểm bán hàng, mặt hàng hoá phong phú, đa dạng, cửa hàng, quầy hàng sạch đẹp, đội ngũ nhân viên nhanh nhẹn, nhiệt tình. Kết quả kinh doanh của các đơn vị đạt được như sau: kinh doanh nội địa: -Phòng XNK1 đạt =569.580.000 đồng =86% -Phòng GNVC =272.137.000 đồng =90,71% -Phòng KDTH =336.000.000 đồng =80% -Phòng KD3 =84.362.000 đồng =35,15% -Phòng XNK2 =61.000.000 đồng =101,67% -Cửa hàng TCV =360.000.000 đồng =535% -CH chợ Mơ =36.000.000 đồng =100% -CH Trương Định =19.800.000 đồng =100% Doanh số xuất khẩu: -Phòng KD3 doanh số XK thực hiện là : 185.351USD -Phòng GNVC doanh số XK thực hiện là : 42.880USD -Phòng XNK doanh số XK thực hiện là : 35.360USD -Phòng KDTH doanh số XK thực hiện là : 85.322USD Trước những kết quả đạt được chúng ta không dừng lại ở đó, Ban giám đốc Công ty luôn có hướng đổi mới, tìm ra những biện pháp thích ứng với cơ chế thị trường. Chúng ta đã triển khai một số dự án để mở rộng qui mô phát triển SXKD như đã thành lập Trung tâm dịch vụ. Trung tâm đã hoạt động được hơn một năm và lag một trong những đơn vị đạt hiệu quả nhất. Đây sẽ là tiền đề cho mô hình kinh doanh dịch vụ trong thời gian tới. Ngoài ra, công ty đa lập xong đề án khả thi xây dựng nhà máy chế biến tinh bột sắn XK có công suất 60tấn/ngày tại Hoà Bình. Dự án đã được các cấp, các ngành nhiệt tình ủng hộ. Đây chính là những động lực thúc đẩy hoạt động của Công ty ngày một phát triển đáp ứng đòi hỏi của xã hội trước sự hội nhập của nền kinh tế quốc tế. Để hoà nhập trong lộ trình hội nhập góp phần xây dựng ngành thương mại thủ đô, CBCNV Công ty Thương mại XNK Hà Nội đã không ngừng phấn đấu vươn lên từ một đơn vị hoạt động đơn thuần nhỏ lẻ đến nay Công ty đã lớn mạnh và phát triển trên nhiều phương diện, phạm vi hoạt động được mở rộng, chức năng ngành nghề kinh doanh đa dạng, thị trường và bạn hàng không còn bó hẹp trong nước mà được mở rọng đén nhiều nước trên thế giới, công ăn việc làm đời sống CBCNV được cải thiện thu thập ngày cáng tăng, điều đó khẳng định sự trưởng thành và hướng đi đúng của công ty. Công ty đã mạnh dạn giao quyền và tạo điều kiện để cán bộ đi học nâng cao nghiệp vụ. Đến nay đội ngũ cán bộ của Công ty đã tương đối vững về chuyên môn, tinh thông về nghiệp vụ. Thực hiện chủ trương thành uỷ Hà Nội và Sở Thương mại về việc đánh giá bổ nhiệm lại cán bộ. Nhìn chung hầu hết số cán bộ của Công ty đều giữ được phẩm chất đạo đức, phát huy được vai trò trách nhiệm và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 4.2.Hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động kinh doanh của Công ty còn một số hạn chế như: Nguồn vốn chủ động còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh doanh, còn phải vay ngân hàng nên hiệu quả kinh doanh chưa cao. - Cơ sở vật chất còn hạn chế, trụ sở, kho tàng, phương tiện vận tải phải đi thuê nên làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, không chủ động trong việc bảo quản, lưu trữ, vận chuyển hàng hoá. - Việc linh hoạt các cơ sở sản xuất, thu mua chế biến hàng xuất khẩu còn chậm và chưa mạnh dạn đầu tư đầy đủ theo yêu cầu của khách hàng. - Đội ngũ cán bộ của công ty cơ bản nhiệt tình, gắn bó với công việc song vẫn còn một số ít chưa thực sự tâm huyết, còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại. -Tính chủ động sáng tạo trong kinh doanh ở một số ít cán bộ chưa được phát huy cao nên kết quả trong hoạt động còn thấp. -Việc giải quyết khiếu nại và xử lý kỷ luật chưa thật chặt chẽ nên đã xảy ra khiếu kiện làm ảnh hưởng đén hoạt động của công ty. II) Tình hình nhập khẩu nguyên liệu nhựa phục vụ sản xuất của công ty : 1. Thị trường nhập khẩu chủ yếu : Trong quá trình hoạt động kinh doanh nhập khẩu của mình công ty đều nghiên cứu lựa chọn từ nhiều nhà cung cấp đảm bảo chất lượng và uy tín. Đối với các loại nguyên liệu thì công ty nhập khẩu từ các nước Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapo, Đài Loan, ả Rởp... Công ty có nhiều mối quan hệ với khách hàng, cung cấp nguyên vật liệu cho các cơ sở sản xuất dép, đồ da dụng tại Nam Định và bọt PVC, dầu DOP và các chất phụ gia khác cho Gia Lâm, Hưng Yên, các cơ sở ở Hải Phòng và các tỉnh lân cận . Thị trường nhập khẩu : Trong những năm gần đây ngành nhựa ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế bởi ứng dụng của các sản phẩm nhựa ngày càng đa dạng, với đặc tính đặc biệt của mình các sản phẩm nhựa đã và đang dần dần thay thế nhiều sản phẩm khác. Các hoạt động nhập khẩu nguyên liệu nhựa phục vụ sản xuất đã diễn ra nhộn nhịp đặc biệt là từ khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam . Nắm được xu thế này các nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương đã nhanh chóng thiết lập các mối quan hệ làm ăn với các công ty nhựa của Việt Nam. Thị trường Châu á - Thái Bình Dương là một thị trường của các nước mới phát triển rất nhanh nhạy nắm bắt ứng dụng các thành tựu của khoa học vào công nghệ chất dẻo. Công ty Thương mại XNK Hà Nội đã có rất nhiều mối quan hệ buôn bán bền vững với các bạn hàng trong khu vực này. Một phần do các mối quan hệ cũ với các bạn hàng , một phần là do công ty được thành lập trong bối cảnh có nhiều tập đoàn kinh tế Châu á đang xâm nhập vào thị trường Việt nam , họ tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt trong việc tìm kiếm bạn hàng , giảm giá và tăng cường dịch vụ . Hơn nữa với thuận lợi về khoảng cách địa lý, tương đồng về quan điểm kinh tế , chính trị văn hoá các tập đoàn kinh tế Châu á đã thực sự chiếm lĩnh thị trường nguyên liệu nhựa Việt nam . Các bạn hàng lớn nhất của công ty Thương mại XNK Hà Nội : - Nhật Bản : là thị trường mà công ty đã có mối quan hệ từ lâu và kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này luôn giữ ở mức cao chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty . Nguyên liệu nhập khẩu từ Nhật Bản luôn có chất lượng cao. Tuy nhiên trong vài năm qua kim ngạch nhập khẩu có vẻ như chững lại do vẫn còn bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, khối lượng nhập khẩu chưa tương ứng với khả năng và tiềm năng của thị trường này . - Hàn Quốc : là bạn hàng lớn nhất của công ty, điều đó thể hiện bởi kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu nhựa luôn giữ ở mức cao nhất. Với lợi thế hàng nguyên liệu nhựa chất lượng ngang với Nhật nhưng giá thành lại rẻ hơn và hiện nay Hàn Quốc có rất nhiều công ty đầu tư vào Việt nam trong mọi lĩnh vực trong đó có lĩnh vực kinh doanh nguyên liệu nhựa. - Singapo và Thái Lan : Bước chân vào thị trường nguyên liệu nhựa ở Việt Nam muộn hơn Nhật Bản và Hàn Quốc nhưng hiện nay các tập đoàn kinh tế của hai nước này đã thâm nhập thị trường Việt nam và có chỗ đứng trên thị trường. Trong tương lai hai nước này sẽ là hai thị trường tiềm năng và sẽ là bạn hàng lớn của công ty. Bảng 3: Kim ngạch nhập khẩu tại các thị trường Trị giá Nước Theo từng năm Đơn vị : USD 1997 1998 1999 2000 2001 KOREA 109.225 266.990 200.572 314.910 488.101 THAILAND 80.240 90.520 3.075 4.125 168.200 SINGAPO 89.188 50.421 13.708 3.960 10.283 TAIWAN 404.586 187.131 442.994 151.439 20.170 JAPAN 164.607 139.475 249.283 183.219 190.373 INDIA 17.400 59.250 102.498 (Báo cáo tổng kết về thị trường của phòng Kinh doanh tổng hợp) Qua bảng trên chúng ta thấy là hầu hết kim ngạch nhập khẩu với các nước đều gia tăng với tốc độ khác nhau. Qua đó ta thấy công ty có mối quan hệ bạn hàng với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới . Kim ngạch nhập khẩu tuy có nhiều biến động nhưng nhìn chung các khách hàng lớn vẫn giữ được sự ổn định . Các khách hàng chính của công ty là Hàn Quốc, Thái Lan, Singapo, ấn độ. Hàn Quốc vẫn là khách hàng lớn của công ty luôn có sự ổn định về việc cung cấp các mặt hàng nguyên liệu cần thiết cho công ty. Hàn Quốc có sự phát triển nhanh từ 109.225 USD năm 1997 tăng lên 488.101 USD năm 2001. Đặc biệt là công ty đã khai thác và tìm hiểu thị trường để có nhiều bạn hàng mới ấn độ từ năm 1998 đến năm 2001 có sự phát triển vượt bậc lên tới 102.498 USD trở thành một trong những nguồn nhập hàng của công ty. Điều này đã làm cho tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty tăng lên một cách đáng kể và làm cho công ty có nhiều sự lựa chọn giữa các nhà cung cấp để đáp ưng tốt nhất yêu cầu đặt ra đem lại hiệu quả kinh doanh cho công ty. Thị trường nhập khẩu nguyên liệu nhựa đầy biến động và phức tạp, chính vì vậy công ty đã có mối quan hệ với nhiều nhà nhập khẩu để đa dạng hoá thị trường nhập khẩu, ổn định nguồn cung cấp nguyên liệu nhựa cho mình. ĐIều đó được thể hiện qua bảng so sánh % kim ngạch nhập khẩu tại các thị trường qua các năm. Chúng ta thấy tại hầu hết các thị trường đều có sự biến động tăng, giảm bởi vì trong quá trình hoạt động kinh doanh nhập khẩu của mình công ty đều phảI lựa chọn nguồn cung cấp nào đáp ứng đầy đủ yêu cầu đặt ra và phù hợp với nhu cầu trong nước. Sự phát triển rộng khắp của thị trường nhập khẩu đã tạo cho công ty thuận lợi và dễ dàng hơn trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tại các thị trường nhập khẩu truyền thống như Hàn Quốc, Nhật Bản, TháI Lan , Singapo …đều vẫn giữ được sự ổn định và tăng trưởng : Hàn Quốc : kim ngạch năm 1997 là 109.225 USD , đến năm 1998 là 266.990 USD tăng 157.765 USD với tỷ lệ tăng tương là 144,44 % . Nhưng đến năm 1999 có sự giảm sút xuống còn 200.572 USD với tỷ lệ giảm tương ứng 24,88 % . Năm 2000 tăng lên 114.338 USD với tỷ lệ tương ứng 57,01 % . Thái Lan: năm 1999 giảm so với năm 1998 là 87.445 USD tương ứng 96,6%, sau đó năm 2000, 2001 tăng nhanh. Singapo: năm 1998 giảm so với năm 1997 là 38.767 USD, tương ứng 43,47%... Tuy có sự giảm sút về tương đối nhưng về lượng thì vẫn lớn . Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á cuối năm 97 làm cho tình hình kinh tế của Hàn Quốc bị ảnh hưởng. TháI Lan : kim ngạch nhập khẩu năm 1997 là 80.240 USD , đến năm 1998 là 90.520 USD tăng 10280 USD với tỷ lệ tăng tương ứng 12,8 % so với năm 1997 . Nhưng đến năm 1999 , 2000 thì có sự sụt giảm nghiêm trọng . Trong thời gian này hầu như không có sự cung cấp nào từ thị trường này do Thái Lan bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Nhưng đến năm 2001 thì kim ngạch đạt 168.200 USD tương ứng với khả năng và tiềm năng của thị trường này.Năm 2001 tăng 109,62 % so với năm 1997. Điều đó cho thấy thị trường Thái Lan có sự phục hồi mạnh mẽ và trong tương lai sẽ còn tiếp tục phát triển. - Singapo : kim ngạch năm 1997 đạt 89.188 USD, năm 1998 là 50.421 USD giảm 38.767 USD với tỷ lệ giảm tương ứng là 43,47 % . Đây là thị trường tiềm năng trong tương lai do chất lượng nguyên liệu tốt, giá hợp lý. Trong những năm qua kim ngạch nhập khẩu vẫn ở mức khiêm tốn do có nhiều yếu tố trong đó nguyên nhân chính vẫn là do khủng hoảng. Đến năm 2001 bắt đầu có dấu hiệu của sự phục hồi và đã tăng 159,67 % so với năm 2000. - Nhật Bản : đây là thị trường duy trì được mức độ ổn định , năm 1997 kim ngạch nhập khẩu là 164.607 USD , đến năm 1998 là 139.475 USD giảm 25.132 USD với tỷ lệ giảm tương ứng là 15,27 % so với năm 1997 . Năm 1999 thì kim ngạch nhập khẩu lên đến 249.283 USD tăng 109.808 USD với tỷ lệ tăng tương ứng 78,73 % so với năm 1998. Năm 2000 đạt 183.219 USD giảm 66.064 USD với tỷ lệ giảm tương ứng là 26,5 % so với năm 1999. Năm 2001 tăng 7.154 USD tương ứng 3,9% so với năm 2000. - ấn Độ : Trong năm 1997 , 1998 thì công ty chưa có mối quan hệ với thị trường này . Năm 1999 kim ngạch nhập khẩu chỉ đạt 10.400 USD, đến năm 2000 kim ngạch là 59.500 USD tăng hơn 4 lần với tỷ lệ tăng tương ứng 469,7 % so với năm 1999. Và đến năm 2001 kim ngạch đã lên 102. 498 USD tăng 43248 USD với tỷ lệ tăng tương ứng 72,99 % so với năm 2000 . Qua đó ta thấy thị tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25161.doc
Tài liệu liên quan