Đối với bảo lãnh của bên thứ ba thì Ngân hàng Nam Việt chỉ nhận bảo lãnh có tài sản bảo đảm, và phải bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ trả nợ. Vì thế hình thức bảo lãnh của bên thứ ba chiếm tỷ trọng rất ít chỉ 5,7% của tổng dư nợ có tài sản bảo đảm, đạt 1,8 tỷ đồng với giá trị tài sản được bên thứ ba bảo lãnh là 6,7 tỷ đồng chiếm 8,37%.
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2143 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo thực tập tại Ngân Hàng Nam Việt – phòng giao dịch số 7, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng giảm xuống. Hy vọng với diễn biến như thế hoạt động tín dụng ở Ngân hàng TMCP Nam Việt nói riêng và các Ngân hàng TMCP khác nói chung sẽ cải thiện được tình hình hoạt động của mình theo hướng tốt cho mình và tốt hơn cho nền kinh tế nước nhà. Các Ngân hàng rơi vào cảnh khủng hoảng vừa qua nguyên nhân là do:
Để kiềm chế lạm phát quá cao 2009, vượt mức hai con số lên đến 12,68%/năm, và nhằm giảm mức lạm phát này vào năm 2010 thì bước vào tháng 2, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện “cấp tốc” một chính sách khống chế lạm phát khá mạnh tay, trong đó ưu tiên thu hồi 20.300 tỷ đồng thông qua việc bắt buột các Ngân hàng thương mại mua tín phiếu của Ngân hàng Nhà nước với lãi suất thấp nhất 7,8%/năm (so với thị trường từ 11% đến 14%/năm). Bên cạnh đó các Ngân hàng còn phải tăng dự trữ bắt buột từ 10% lên 11%, điều này có nghĩa là các NHTM phải thu hồi từ các nơi đã cho vay thêm khoảng 20.000 tỷ đồng về tủ sắt của mình theo lệnh của Ngân hàng Nhà nước. Với 2 biện phàp này trên thị trường tiền tệ đã xảy ra nạn khan hiếm tiền mặt, ít nhất là 40.300 tỷ đồng trong một thời gian cực ngắn đe dọa đến hoạt động tín dụng, cho vay, thanh toán…của khối các NHTM, mở ra một cuộc chạy đua nâng cao lãi suất để thu hút lượng tiền trong dân nhằm duy trì hoạt động “chịu lỗ”. Hiệu ứng này không dừng lại ở đây, mà còn thể hiện qua chỉ số VN_Index trên thị trường chứng khoán đỏ rực từ khi năm mới bắt đầu, liên tục hạ mức sàn còn 550 điểm đến 650 điểm, giảm giá trị còn 30 đến 35%, gây thiệt hại không nhỏ cho các nhà đầu tư ngắn hạn và tạo cơ hội vàng cho các nhà đầu cơ thị trường trong và ngoài nước.
2. Hoạt động tín dụng tại phòng giao dịch số 7
Hoạt động cho vay là hoạt động chính yếu và quan trọng nhất của bất kỳ một Ngân hàng thương mại nào. Sự chuyển hóa từ vốn tiền gởi sang vốn tín dụng để bổ sung cho nhu cầu sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế không chỉ có ý nghĩa đối với nền kinh tế mà cả đối với bản thân Ngân hàng. Bởi vì, nhờ cho vay mà tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng để từ đó bồi hoàn lại tiền gởi của khách hàng, bù đắp các chi phí kinh doanh và tạo ra được lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động cho vay là hoạt động mang tính rủi ro lớn vì vậy cần phải quản lý các khoản cho vay một cách chặt chẽ thì mới có thể ngăn ngừa hoặc giảm thiểu rủi ro.
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước thì Ngân hàng, chi nhánh của Ngân hàng, phòng giao dịch của Ngân hàng được thành lập từ 3 năm trở lên mới được phép cho vay bằng USD. Nên phòng giao dịch số 7 chưa được phép cho vay bằng USD. Và phòng giao dịch chỉ được quyền quyết định khách hàng cho vay các khoản vay đến 500 triệu đồng. Đối với các khoản cho vay lớn hơn thì phải chờ sự quyết định của Hội sở Ngân hàng TMCP Nam Việt.
Bảng 3: Tình hình dư nợ trong năm 2010
Đơn vị tính: Tỷ VND
Chỉ tiêu
Doanh số
tỉ lệ %
Tổng dư nợ cho vay
32
100%
1. Phân theo kỳ hạn
- Ngắn hạn
5,8
18,13%
- Trung và dài hạn
26,2
81,87%
2. Phân loại dư nợ theo khách hàng
- Cá nhân
28,8
90%
- Doanh nghiệp
3,2
10%
(Nguồn: được tổng hợp từ phòng giao dịch số 7)
Từ số liệu trên ta thấy: Năm 2010 tổng dư nợ là 32 tỷ đồng. Trong đó không có dư nợ ngoại tệ. Xét về thời hạn cho vay thì dư nợ ngắn hạn đạt 5,8 tỷ chiếm 18,13% tổng dư nợ, còn doanh số cho vay trung và dài hạn của phòng giao dịch là 26,2 tỷ đồng chiếm 81,87%, gấp hơn 4 lần so với cho vay ngắn hạn.
Mục đích của tín dụng trung và dài hạn nhằm giúp đỡ khách hàng mở rộng sản xuất kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng, mua sắm thiết bị sản xuất…Các khoản vay trung và dài hạn có thời gian thu hồi vốn lâu nên có độ rủi ro vốn lớn. Với tỷ lệ như trên thì các khoản cho vay
Về dư nợ theo khách hàng ta thấy nhóm khách hàng cá nhân chiếm tỉ trọng rất lớn 90% đạt 28,8 tỷ đồng doanh số cho vay của phòng giao dịch. Trong khi đó nhóm khách hàng là doanh nghiệp chiếm tỉ trọng rất khiêm tốn chỉ 10% đạt 3,2 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ Ngân hàng phục vụ cho lợi ích các cá nhân, hộ kinh doanh cá thể là phần lớn và là điểm mạnh của Ngân hàng, cần phát huy tích cực hơn nữa để tiếp tục tăng doanh số. Đồng thời phòng giao dịch phải nỗ lực rất lớn và có hướng chăm sóc khách hàng tốt hơn để loi kéo những khách hàng tiềm năng về phía mình.
Bảng 4: Tình hình dư nợ quý I/2009 và quý I/2010
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Quý I/2009
Quý I/2010
So sánh
% tăng (giảm)
Tổng dư nợ
1,6
9,7
8,1
506%
Nợ ngắn hạn
0,48
4,747
4,267
889%
Nợ trung-dài hạn
1,12
4,953
3,833
342%
(Nguồn: Tổng hợp từ phòng giao dịch số 7)
Từ bảng trên ta thấy: Tổng dư nợ quý I/2010 đạt 9,7 tỷ đồng tăng 8,1 tỷ đồng so vởi quý I/2009 tương đương với tăng 506%. Dư nợ cho vay ngắn hạn trong quý I/2010 đạt đến 4,747 tỷ đồng, tăng 4,267 tỷ đồng, tương đương tăng đến 889%. Dư nợ cho vay trung và dài hạn cũng tăng đáng kể cụ thể là quý I/2009 chỉ đạt 1,12 tỷ đồng, trong khi đó sang quý I/2010 đã tăng lên 4,953 tỷ đồng, tăng 342%. Như vậy qua thống kê ở trên phòng giao dịch số 7 đã chú trọng và tăng doanh số lên rất nhiều trong cho vay ngắn hạn, đúng như định hướng vào cuối năm 2009 nêu trên. Góp phần làm tăng thêm doanh thu và làm hạn chế phần nào rủi ro cho phòng giao dịch số 7 nói riêng và Ngân hàng Nam Việt nói chung.
Tuy nhiên thì tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn (51%) vẫn chiếm nhiều hơn so với dư nợ ngắn hạn (49%), nên dù có giảm bớt được rủi ro nhưng với tỷ lệ này thì doanh số trên vẫn tiềm ẩn rủi ro đáng kể. Vì các khoản vay trung và dài hạn có đặc điểm là thu hồi vốn trong nhiều năm, do đó nếu doanh số cho vay trung và dài hạn quá cao sẽ dẫn đến dư nợ trung và dài hạn trong năm và các năm sau sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ dẫn đến rủi ro sẽ cao.
Hơn nữa các khoản tiền gởi Ngân hàng huy động được tại phòng giao dịch số 7 chủ yếu là từ nguồn vốn ngắn hạn. Mà lấy nguồn này để đầu tư cho dài hạn là rất nguy hiểm, vì Ngân hàng có thể sẽ mất khả năng thanh toán do dư nợ dài hạn quá nhiều sẽ không kịp thu hồi để bù đắp cho các nghĩa vụ nợ tiền gởi ngắn hạn của khách hàng, làm giảm uy tín của Ngân hàng, thậm chí có thể dẫn đến phá sản.
Nhưng theo tiến triển tốt như trên thì phòng giao dịch số 7 sẽ tiếp tục tăng tỷ trọng dư nợ ngắn hạn và sẽ tối ưu nhất dư nợ dài hạn trong các quý tiếp theo. Điều này nói lên sự tăng trưởng của đầu
năm 2010 là rất lớn. Hứa hẹn một năm thuận lợi của phòng giao dịch số 7. Nhưng do chính sách thắt chặc tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước đã làm cho lãi suất cho vay của các Ngân hàng phải đội lên chưa từng có trước đây, nên các quý cuối năm 2010 sẽ có xu hướng giảm xuống.
II/ Nợ xấu, nợ quá hạn
Nợ xấu: số dư nợ xấu (nợ phân loại các nhóm 3, 4 và 5 theo quy định của NHNN) của
toàn Ngân hàng là 244,236 triệu Đồng, chiếm 2.45% tổng dư nợ, tăng 85,163 triệu
Đồng so với năm 2008, đồng thời đảm bảo nhỏ hơn tỷ lệ quy định của Ngân hàng Nhà
nước (3%), cụ thể như sau:
ĐƠN VỊ TÍNH: TRIỆU ĐỒNG
STT
Đ ƠN VỊ
TH 2009
TH2010
SỐ DƯ
TỶ LỆ(%)
SỐ DƯ
TỶ LỆ(%)
1
HỘI SỞ CHÍNH
77,340
2.3
120,416
1,88
2
CN KIÊN GIANG
12,617
4.67
8,493
1,51
3
CN HÀ NỘI
57,195
7.16
76,434
8,66
4
CN HẢI PHÒNG
6,796
1.34
31,443
4,45
5
CN ĐÀ NẴNG
3,682
1.10
2,625
0,59
6
CN CẦN THƠ
1,443
0.7
2,910
1,06
7
CN HUẾ
454
0,54
8
CN BÌNH DNƯƠNG
-
-
9
CN TIỀN GIANG
-
-
10
CN VŨNG TÀU
-
-
11
CN ĐỒNG NAI
-
-
12
CN LONG AN
1,289
1,97
13
CN BẮC NINH
172
1,97
TOÀN HỆ THỐNG
159,073
2,91
244,236
2,45
Nợ quá hạn: số dư nợ quá hạn (nợ phân loại các nhóm 2, 3, 4 và 5 theo quy định của
NHNN) của toàn Ngân hàng là 348,961 triệu Đồng, chiếm 3.50% tổng dư nợ, giảm
63,214 triệu Đồng so với năm 2008, cụ thể như sau:
Đơn vị tính: triệu Đồng
STT
Đ ƠN VỊ
TH 2009
TH2010
SỐ DƯ
TỶ LỆ(%)
SỐ DƯ
TỶ LỆ(%)
1
HỘI SỞ CHÍNH
241,961
7.20
173,084
2.70
2
CN KIÊN GIANG
24,704
9.19
14,483
2.58
3
CN HÀ NỘI
104,929
13.14
94,953
10.76
4
CN HẢI PHÒNG
30,337
5.99
37,116
5.26
5
CN ĐÀ NẴNG
8,560
2.56
6,582
1.49
6
CN CẦN THƠ
1,685
0.82
3,788
1.38
7
CN HUẾ
1,309
1.55
8
CN BÌNH DNƯƠNG
302
0.13
9
CN TIỀN GIANG
772
1.16
10
CN VŨNG TÀU
463
0.36
11
CN ĐỒNG NAI
13,940
14.32
12
CN LONG AN
1,427
2.18
13
CN BẮC NINH
742
8.50
TOÀN HỆ THỐNG
412,175
7.53
348,961
3.50
Hình : Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu
TH2009 TH2010 TH2010
III/Thực trạng cho vay có tài sản bảo đảm tại phòng giao dịch số 7
1. Hoạt động cấp tín dụng có tài sản bảo đảm.
Với chương trình tái cơ cấu lại hoạt động, tăng dần tỷ trọng cho vay đối với các doanh nghiệp và tiếp tục phát triển cho vay đối với cá nhân, hộ kinh doanh cá thể, hoạt động tín dụng có bảo đảm tại phòng giao dịch số 7 ngày càng được tăng cao. Công tác tín dụng tiếp tục được mở rộng trên cơ sở bảo đảm an toàn, kiểm soát được chất lượng, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Bảng 5: Tình hình dư nợ có tài sản bảo đảm trong năm 2010
Chỉ tiêu
Doanh số (tỷ đồng)
tỷ lệ (%)
Tổng dư nợ
32
100
Dư nợ có tài sản bảo đảm
31,5
98,44
Dư nợ không bảo đảm
0,5
1,56
Đơn vị tính: tỷ đồng
(Nguồn: Tổng hơp từ phòng giao dịch số 7)
Theo bảng 5 ta thấy trong năm 2010 phòng giao dịch số 7 có tổng dư nợ cho vay là 32 tỷ đồng. Trong đó dư nợ có tài sản bảo đảm chiếm đến 98,44%, đạt 31,5 tỷ đồng và dư nợ không có tài sản bảo đảm chỉ chiếm 1,56%, đạt 0,5 tỷ đồng. Dựa vào tỉ lệ trên thể hiện rõ chủ yếu phòng giao dịch tập trung vào các khách hàng có sử dụng tài sản bảo đảm làm bảo đảm cho khoản vay. Đều này góp phần rất lớn vào việc khắc phục được phần rủi ro mà phần “Hoạt động tín dụng tại phòng giao dịch số 7” đã được phân tích ở trên. Doanh số cho vay này là tương đối thấp hơn so với phòng giao dịch số 6 trong năm 2010 (40 tỷ đồng - số liệu từ phòng giao dịch số 7) cùng thời gian hoạt động và cùng quy mô so với phòng giao dịch số 7. Nhưng trong những năm tới phòng giao dịch số 7 với đội ngũ nhân viên đầy kinh nghiệm cùng nghiệp vụ chuyên môn vững chắc hứa hẹn sẽ đem lại doanh số cho vay tăng cao, an toàn cùng phát triển, thi đua lành mạnh với các phòng giao dịch bạn nói riêng và với các Ngân hàng khác nói chung.
Bảng 6: Tình hình dư nợ có tài sản bảo đảm quý I/2009 và quý I/2010
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Quý I/2009
Quý I/2010
So sánh
% tăng (giảm)
Tổng dư nợ
1,6
9,7
8,1
506%
Dư nợ có bảo đảm
1,6
9,7
8,1
506%
Dư nợ không bảo đảm
0
0
0
0
(Nguồn: Được tổng hợp từ phòng giao dịch số 7)
Dựa vào bảng 6 thì trong quý I của cả hai năm 2009 và 2010 phòng giao dịch số 7 chưa có khoản cho vay nào không có tài sản bảo đảm. Tức là dư nợ có tài sản bảo đảm quý I của 2 năm cũng chính là tổng dư nợ của hai năm. Qua bảng này một lần nữa lại khẳng định môt điều là phòng giao dịch số 7 luôn đặt mục tiêu an toàn tín dụng lên hàng đầu. Trong quý I/2010 doanh số đã tăng rất đáng nể 506%, đạt 8,1 tỷ đồng. Cụ thể năm 2010 chỉ là 1,6 tỷ đồng sang 2010 đã lên đến 9,7 tỷ đồng. Kết quả này thể hiện được hiệu quả tốt của sự nổ lực làm việc của đội ngũ nhân viên tại phòng giao dịch số 7. Huy vọng là kết quả này sẽ được duy trì tốt đẹp cho dù biến động bất ổn hay thuận lợi của nền kinh tế thị trường trong nước và quốc tế vẫn cứ liên tục diễn r
2. Các hình thức bảo đảm tín dụng được áp dụng tại phòng giao dịch số 7
Công tác tín dụng tại phòng giao dịch số 7 hiện nay áp dụng cả cho vay tín chấp và cho vay có tài sản bảo đảm. Trong cho vay có bảo đảm thì các biện pháp bảo đảm tiền vay được chia làm ba hình thức, đó là thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của bên thứ ba. Tùy theo từng khoản tín dụng cụ thể khác nhau mà Ngân hàng và khách hàng vay sẽ thỏa thuận sử dụng loại hình bảo đảm tiền vay nào cho phù hợp. Tình hình cho vay đối với các hình thức có tài sản bảo đảm được thể hiện như sau:
Bảng 7: Các hình thức bảo đảm năm 2010
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Tổng Giá trị
Thế chấp
Cầm cố
Bảo lãnh
Giá trị
tỷ trọng %
Giá trị
tỷ trọng %
Giá trị
tỷ trọng %
Dư nợ có tài sản bảo đảm
31,5
25
79,37
4,7
14,92
1,8
5,7
Giá trị tài sản dùng bảo đảm
80
55
68,75
18,3
22,88
6,7
8,37
(Nguồn: Được tổng hợp từ phòng giao dịch số 7)
Qua bảng số liệu cho thấy tỷ trọng của hình thức thế chấp trong ba hình thức bảo đảm tín dụng chiếm tỷ lệ rất lớn và lớn nhất. Cụ thể hình thức thế chấp chiếm tỷ trọng 79,37% đạt 25 tỷ đồng. Lý do là Ngân hàng chủ yếu nhận nhà ở, bất động sản và QSDĐ làm bảo đảm cho khoản vay. Những tài sản gắn liền với đất như nhà cửa, nhà xưởng sản xuất có giá trị lớn, có xu hướng tăng dần theo thời gian nên được Ngân hàng rất ưa chuộng. Điều này được thể hiện cụ thể ở bảng 7, dư nợ chỉ 25 tỷ đồng nhưng tài sản dùng thế chấp để đảm bảo cho khoản vay trị giá đến 55 tỷ đồng chiếm đến 68,75% tổng giá trị tài sản dùng bảo đảm trong năm 2010. Giá trị dùng thế chấp lớn như vậy thì Ngân hàng sẽ không gặp rủi ro trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng trách nhiệm trả nợ của mình.
Tài sản cầm cố chủ yếu là sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gởi, kỳ phiếu Ngân hàng, trái phiếu kho bạc…, vàng, các phương tiện vận tải và máy móc chuyên dụng. Đối với tài sản cầm cố là xe hơi, xe ôtô các loại thì chủ yếu nhận những loại xe mới, tức là dạng tài sản hình thành từ vốn vay. Hiện nay Ngân hàng rất hạn chế nhận hàng hóa làm tài sản bảo đảm vì không có điều kiện và khả năng coi giữ, bảo quản. Ta thấy về tỷ trọng các hình thức cầm cố chiếm tỷ trọng tương đối cao. Cụ thể là dư nợ là 4,7 tỷ chiếm 14,92%, giá trị tài sản cầm cố để bảo đảm cho khoản vay là tỷ lệ chiếm 22,88%, giá trị của tài sản cầm cố là 18,3 tỷ đồng. Với doanh số trên thì cũng thể hiện khả năng thu hồi tốt đươc các khoản cho vay của Ngân hàng vì thế sẽ ít gặp rủi ro về tín dụng.
Đối với bảo lãnh của bên thứ ba thì Ngân hàng Nam Việt chỉ nhận bảo lãnh có tài sản bảo đảm, và phải bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ trả nợ. Vì thế hình thức bảo lãnh của bên thứ ba chiếm tỷ trọng rất ít chỉ 5,7% của tổng dư nợ có tài sản bảo đảm, đạt 1,8 tỷ đồng với giá trị tài sản được bên thứ ba bảo lãnh là 6,7 tỷ đồng chiếm 8,37%.
bảng 8: Các hình thức bảo đảm trong quý I/2009 và quý I/2010
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Tổng Giá trị
Thế chấp
Cầm cố
Bảo lãnh
Giá trị
tỷ trọng
Giá trị
tỷ trọng
Giá trị
tỷ trọng
Quý I/2010
Dư nợ có bảo đảm
1,6
1
62,5%
0,4
25%
0,2
12,5%
Giá trị dùng bảo đảm
4,4
3,5
79,6%
0,5
11,4%
0,4
9%
Quý I/2008
Dư nợ có bảo đảm
9,7
1
10,3%
5
51.6%
3,7
38,1%
Giá trị dùng bảo đảm
14,3
3
21%
6,8
47,6%
4,5
31,5%
(Nguồn: được tổng hợp từ phòng giao dịch số 7)
Quá số liệu của bảng 8, cho thấy có sự chuyển biến rất rõ ràng về kết cấu của các hình thức bảo đảm tín dụng. Ở quý I/2010 hình thức thế chấp để bảo đảm cho các khoản vay chiếm tỷ lệ cao nhất thì sang quý I/2008 lại có tỷ lệ thấp nhất. Cụ thể là hình thức thế chấp quý I/2010 đạt 1 tỷ đồng chiếm 62,5% tổng dư nợ có tài sản bảo đảm. Ta thấy về mặt số tuyệt đối thì không đổi nhưng tỷ trọng của nó lại giảm một cách đáng chú ý giảm đến 52,2% (62,5%-10,3%). Song song đó thì giá trị dùng để đảm bảo cho các khoản vay cho hình thức thế chấp thì lại giảm từ 3,5 tỷ đồng xuống còn 3 tỷ đồng. Xảy ra sự thay đổi này có thể là do nguyên nhân đầu năm 2010 vừa qua tình hình nhà đất có dấu hiệu “đóng băng” trở lại. Trước biến động này thì Ngân hàng rất ngại và dè dặt đến việc cho vay dưới hình thức thế chấp nhà cửa, đất đai…vì nếu cho vay nhiều theo hình thức bảo đảm này sẽ ảnh hưởng đến việc xử lý tài sản bảo đảm, do tính thanh khoản thấp của các tài sản này trong thị trường hiện nay sẽ làm cho Ngân hàng tốn nhiều thời gian và chi phí để thu hồi nợ, gây tổn thất về vốn không tốt cho Ngân hàng.
Ngược lại với hình thức thế chấp thì hình thức cầm cố lại tăng mạnh, từ dư nợ 0,4 tỷ đồng sang quý I/2010 đã tăng lên đến 5 tỷ đồng. Tuy số tuyệt đối tăng mạnh nhưng về số tương đối thì cầm cố tăng 26,6% (51,6%-25%). Giá trị tài sản dùng hình thức cầm cố để bảo đảm cho khoản vay cũng tăng đáng ngờ. Cụ thể là từ 0.5 tỷ đồng tăng lên 6,8 tỷ đồng, tăng 36,2% (47,6%-11,4%). Trong khi đó thì hình thức bảo lãnh của bên thứ ba ở quý I/2010 cũng tăng từ 0,2 tỷ đồng lên 3,7 tỷ đồng, tăng 25,6% (38,1-12,5) và giá trị tài sản dùng bảo lãnh cũng tăng từ 0,4 tỷ đồng lên 4,5 tỷ đồng, tăng 22,5% (31,5%-9%). Do có sự biến động ảnh hưởng không tốt đến việc nhận thế chấp các tài sản có tính thanh khoản thấp (trong thời điểm hiện nay), thì Ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng bằng cách tăng cường đến các tài sản khác có tính thanh khoản tương đối ổn định để nhận làm tài sản bảo đảm cho các khoản vay. Vì thế hình thức cầm cố và bảo lãnh là hình thúc bảo đảm tín dụng mà Ngân hàng đang hướng tới. Tiếp tục mở rộng tín dụng lấy mục tiêu đi đầu là đảm bảo vốn an toàn, kiểm soát được rủi ro và nâng cao đến mức tối đa chất lượng của các khoản cho khách hàng vay. Chính vì mục tiêu này mà trong suốt quá trình hoạt động cho đến quý I/2010 ở phòng giao dịch không tồn tại tình trạng nợ quá hạn. Đây là một tín hiệu đáng mừng đối với một phòng giao dịch còn mới mẻ như phòng giao dịch số 7, đó cũng chính là kết quả của những công tác luôn chú trọng bảo đảm an toàn vốn, dự phòng rủi ro bằng cách trích lập quỹ dự phòng và theo dõi chặt chẽ các hoạt động tín dụng của bộ phận tín dụng tại phòng giao dịch số 7.
3. Quy trình nhận tài sản bảo đảm tại phòng giao dịch số 7
Về mặt nhân sự, bộ phận tín dụng của mỗi phòng giao dịch chỉ có cán bộ tín dụng có trách nhiệm xử lý các hồ sơ từ A đến Z, tức là từ khâu nhận hồ sơ xin vay, thẩm định, lập tờ trình và đưa ra ý kiến có chấp nhận cấp tín dụng hay không. Hiện nay ở phòng giao dịch số 7 vẫn áp dụng quy trình nhận tài sản bảo đảm theo các bước như sau:
Nhận và kiểm tra hồ sơ tài sản bảo đảm:
Cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm hướng dẫn, giải thích cụ thể về từng hình thức bảo đảm tiền vay để khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có thể hiểu đầy đủ các trách nhiệm và nghĩa vụ cơ bản của bên vay đối với tài sản bảo đảm. Sau đó nhận và kiểm tra bộ hồ sơ tài sản.
Thẩm định tài sản bảo đảm:
Nguồn thông tin để thẩm định: có thể từ nhiều nguồn như từ hồ sơ tài liệu và thông tin do khách hàng cung cấp, từ khảo sát thực tế, từ các nguồn khác như từ người quen, thông tin của địa phương nơi khách hàng cư trú… Quá trình thẩm định tài sản bảo đảm phải kết luận được các nội dung:
+ Tài sản có đủ điều kiện bảo đảm theo quy định của pháp luật hay không
+ Khả năng chuyển nhượng tài sản
+ Giá trị của tài sản có đủ bảo đảm cho khoản vay hay không
+ Trường hợp xấu nhất xảy ra, rủi ro dự kiến ở mức nào
Lập báo cáo thẩm định
Cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm viết báo cáo thẩm định trình trưởng phòng nhận xét rõ ràng về hồ sơ bảo đảm tiền vay có đầy đủ theo quy định; tính pháp lý của tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; phân tích, đánh giá, dự báo về giá trị, khả năng chuyển nhượng, phương pháp quản lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, tài sản của bên thứ ba được dùng để bảo lãnh; dự báo các rủi ro có thể xảy ra đối với biện pháp bảo đảm và các biện pháp hạn chế rủi ro đó; kết luận: nêu rõ có đồng ý nhận tài sản bảo đảm hay không. Trường hợp đồng ý thì trị giá tài sản được định giá là bao nhiêu. Các điều kiện và phương pháp quản lý tài sản cầm cố, thế chấp. Các đề xuất khác. Mức cho vay tối đa đối với tài sản đó.
Lập hợp đồng bảo đảm
Hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh được cán bộ tín dụng lập thành văn bản theo mẫu của Ngân hàng. Sau đó phải tiến hành công chứng hợp đồng bảo đảm. Khi công chứng xong nhân viên tín dụng đi đăng ký giao dịch bảo đảm ngay trong ngày. Sau khi nhận được biên nhận đăng ký giao dịch bảo đảm thì nhân viên tín dụng phải tiến hành nhập kho các giấy tờ có liên quan tới tài sản bảo đảm, cùng biên nhận.
Trường hợp đăng ký giao dịch bảo đảm trong ngày chưa kịp thì nhân viên tín dụng trình nhập kho toàn bộ hồ sơ toàn bộ tài sản bảo đảm. Ngày hôm sau, nhân viên tín dụng trình phiếu tạm xuất kho tài sản bảo đảm và thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm.
Bàn giao tài sản bảo đảm:
Sau khi hợp đồng bảo đảm có hiệu lực, Ngân hàng và khách hàng thực hiện bàn giao hồ sơ, tài sản bảo đảm và lập biên bản bàn giao. Tuỳ theo từng loại tài sản, phương thức giữ tài sản bảo đảm có thể được Ngân hàng thực hiện theo một trong ba phương thức sau:
+ Ngân hàng cho vay giữ và quản lý tài sản.
+ Khách hàng vay, bên bảo lãnh được quản lý tài sản, Ngân hàng trực tiếp cho vay và giữ hồ sơ.
+ Bên thứ ba được giao, thuê giữ tài sản, Ngân hàng trực tiếp cho vay giữ hồ sơ.
Đối với tài sản thế chấp thì Ngân hàng giữ toàn bộ bản chính các giấy tờ sở hữu tài sản. Đối với tài sản cầm cố thì Ngân hàng trực tiếp lưu giữ toàn bộ chứng từ có giá như sổ tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu… Khi giao nhận tài sản cũng như giấy tờ đều có biên bản bàn giao có chữ ký của các bên. Đối với cầm cố số dư tiền gửi trong tài khoản thì Ngân hàng sẽ phong tỏa số dư đó cho đến khi khách hàng trả hết nợ.
Đối với việc hạch toán tài sản thế chấp, cầm cố: Ngay sau khi ký hợp đồng tín dụng, phòng tín dụng sẽ lập giấy đề nghị và biên bản bàn giao giao lại cho phòng kế toán nhập ngoại bảng tài sản thế chấp, cầm cố với nội dung: Tên đơn vị, cá nhân, số tài khoản, giá trị nhập ngoại bảng, chi tiết về tài sản bảo đảm… Sau đó hồ sơ sẽ được chuyển sang cho phòng ngân quỹ xác nhận đã nhận và bảo quản tài sản
Giải chấp tài sản bảo đảm
Khách hàng thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ (gốc và lãi) cho Ngân hàng thì nhân viên tín dụng tiến hành làm thủ tục giải chấp tài sản. Giải chấp tài sản được thực hiện theo quy trình sau:
Xóa đăng ký giao dịch bảo đảm:
Nhân viên tín dụng lập đơn yêu cầu xóa đăng ký giao dịch bảo đảm và trình cấp có thẩm quyền duyệt.
Lập phiếu xuất kho tài sản bảo đảm. Phiếu xuất kho tài sản bảo đảm được lập thành ba bản, phòng tín dụng giữ một bản, phòng dịch vụ khách hàng (bộ phận kho quỹ) giữ một bản, phòng tài chính kế toán giữ một bản.
Nhân viên tín dụng giao trả hồ sơ tài sản bảo đảm cho khách hàng. Việc giao trả tài sản được khách hàng ký nhận vào Biên bản giao nhận tài sản. Nhân viên tín dụng hỗ trợ khách hàng đi xóa đăng ký giao dịch bảo đảm.
Lưu ý: người nhận tài sản bảo đảm phải là người đã ký giao hồ sơ tài sản cho Ngân hàng. Trường hợp người nhận không phải là một trong hai người giao hồ sơ ban đầu thì phải có giấy ủy quyền.
Hồ sơ chuyển sang phòng dịch vụ khách hàng gồm có:
+ Phiếu xuất kho tài sản bảo đảm
+ Biên bản giao nhận tài sản bảo đảm giữa Ngân hàng và khách hàng.
+ Phiếu xuất ngoại bảng tài sản bảo đảm. Phiếu này được in từ chương trình MicroBank sau khi thực hiện thao tác thay đổi trạng thái hợp đồng thế chấp.
Thông báo giải chấp
Nhân viên tín dụng lập thông báo giải chấp trình cấp có thẩm quyền ký duyệt để gửi phòng công chứng hoặc UBND nơi đã công chứng hợp đồng thế chấp.
IV/ Những hạn chế trong cho vay có TSBĐ tại phòng giao dịch
1. Nguyên nhân từ môi trường pháp lý
Những vướng mắc trong việc thế chấp, bảo lãnh bằng QSDĐ:
Thứ nhất, về mục đích thế chấp bảo lãnh, Luật đất đai 2003 quy định: tổ chức kinh tế được thế chấp bảo lãnh bằng QSDĐ tại tổ chức tín dụng chỉ “để vay vốn” (Khoản 2, điều 10); hộ gia đình, cá nhân được thế chấp, bảo lãnh bằng QSDĐ chỉ để “vay vốn sản xuất kinh doanh” (Khoản 7, điều 113). Đó là những quy định rất vô lý, vì không cho phép được thế chấp tài sản của mình để làm những việc khác như bảo đảm nghĩa vụ cho các hợp đồng mua bán, đầu tư hay phục vụ nhu cầu đời sống, kể cả vay vốn để học tập, xây dựng nhà ở hay trị bệnh…Nếu thế chấp, bảo lãnh để sử dụng cho những mục đích này thì có thể dẫn đến hợp đồng bảo đảm tiền vay bị vô hiệu. Tuy nhiên, điều trên chỉ xảy ra đối với QSDĐ trống, còn nếu đất có nhà ở, có các tài sản khác gắn liền với đất thì Luật đất đai không đề cập đến, do vậy vẫn được thế chấp, bảo lãnh với tài sản là một khối bất động sản cho những mục đích nói trên. Chính vì thế mà những quy định vô lý trên nên được loại bỏ.
Thứ hai, về loại đất được và không được thế chấp, bảo lãnh, thì điểm thay đổi đáng kể nhất là kể từ ngày 01/07/2004 trở đi, đất của các tổ chức, cá nhân trong nước thuê của nhà nước hoặc thuê lại đất trong khu công nghiệp, cho dù có trả tiền trước trong thời gian bao lâu cũng không được phép thế chấp, bảo lãnh (trừ đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức cá nhân nước ngoài sử dụng đất để đầu tư ở Việt Nam, được nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê). Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp được hay không được thế chấp QSDĐ, các tổ chức kinh tế và hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất điều có quyền thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản gắn liền với đất. Vì pháp luật đã cho phép thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản gắn liền với đất thuê, thì khi xử lý tài sản thế chấp, bảo lãnh cũng sẽ đương nhiên được xử lý cả QSDĐ. Do vậy, việc hạn chế đất thuê không được thế chấp, bảo lãnh là không có ý nghĩa về mặc pháp lý. Ngoài ra, dù không được thế chấp, bảo lãnh bằng QSDĐ, nhưng người sử dụng đất vẫn có thể cầm cố giá trị số tiền thuê đất đã trả trước với tư cách là một quyền tài sản (QSDĐ thuê với số tiền thuê đất đã trả trước).
Thứ ba, về vấn đề đăng ký thế chấp, bảo lãnh. Theo khoản 3 điều 122, nghị định 181/2004/NĐ-CP quy định:
Văn phòng đăng ký quyền sử dung đất thuộc sở tài nguyên, môi trường (cấp tỉnh, thành phố) thực hiện đăng ký thế chấp, bảo lãnh QSDĐ của các tổ chức.
Văn phòng đă
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tín dụng và đảm bảo tín dụng tai ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt.doc