MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
CHƯƠNG1 : TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ VIỆT NAM – VIBANK 3
1. Giới thiệu chung về Ngân hàng Quốc tế 3
2. Lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng 4
2.1. Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp 5
2.2. Dịch vụ ngân hàng cá nhân 5
2.3. Dịch vụ ngân hàng định chế 5
3. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng 6
3.1. Hoạt động huy động vốn 6
3.2. Hoạt động tín dụng 7
3.3. Hoạt động dịch vụ 8
3.4. Hoạt động đầu tư 10
3.5. Hoạt động quảng cáo, khuyếch trương và quan hệ công chúng 10
3.6. Phát triển mạng lưới chi nhánh 11
3.7. Công nghệ ngân hàng và thông tin 12
3.8. Hoàn thành đề án tái cơ cấu Ngân hàng Quốc tế 13
3.9. Phát triển nguồn nhân lực 13
3.10. Kết quả kinh doanh 14
CHƯƠNG 2: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ RỦI RO ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG 15
1. Giới thiệu chung 15
2. Những rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại 17
2.1. Rủi ro. 17
2.1.1. Rủi ro trong nền kinh tế 17
2.1.2. Rủi ro trong hoạt động Ngân hàng. 17
2.1.3. Tác động của rủi ro đến hoạt động kinh doanh Ngân hàng. 17
3. Nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng. 18
3.1. Nguyên nhân bất khả kháng 19
3.2. Thông tin không cân xứng. 19
3.3. Sự điều khiển của cơ chế thị trường. 20
4. Những rủi do chủ yếu trong kinh doanh ngân hàng 21
4.1. Rủi ro lãi suất 21
4.2. Rủi ro tín dụng 22
4.3. Rủi ro thanh khoản 23
4.4. Rủi ro hối đoái 24
4.5. Rủi ro môi trường 24
4.6. Rủi ro trong công nghệ 25
4.7. Các rủi ro khác 25
CHƯƠNG 3: LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO THANH KHOẢN 26
1. Khái quát rủi ro thanh khoản đối với hoạt động Ngân hàng 26
2. Nguyên nhân làm phát sinh rủi ro thanh khoản 27
2.1. Những ngyên nhân tiền đề 27
2.2. Nguyên nhân từ hoạt động 28
2.3. Một só biện pháp nghiệp vụ để phòng tránh rủi ro thanh khoản 29
2.3.1. Xử lí rủi ro thanh khoản phát sinh bên ngoài tài sản nợ 29
2.3.2. Phương pháp quản lí tài sản nợ 30
2.3.3. Phương pháp quản lí tài sản có (chuyển hoá tài sản) 31
2.3.4. Xử lí rủi ro thanh khoản phát sinh bên tài sản có 32
3. Chiến lược quản lí tài sản nợ 32
3.1. Chiến lược phát triển ổn định ở thị trường bán lẻ 32
3.2. Chiến lược đa dạng hoá nguồn vốn 33
3.3. Chiến lược tăng cường nguồn vốn dài hạn có lãi suất cố định 34
4. Lượng hoá rủi ro thanh khoản 36
4.1. Phương pháp tiếp cận cung cầu thanh khoản 36
4.1.1. Cầu thanh khoản 36
4.1.2. Cung thanh khoản 37
4.1.3. Trạng thái thanh khoản ròng 38
4.2. Phương pháp tiếp cận chỉ số thanh khoản 39
4.2.1 Chỉ số về trạng thái tiền mặt 39
4.2.2. Chỉ số về chứng khoán thanh khoản 39
4.2.3. Tỉ lệ “cam kết tín dụng/ tổng tài sản” 39
4.2.4. Chỉ tiêu tiền nóng 39
4.2.5. Chỉ tiêu tiền gửi thường xuyên 39
4.2.6. Chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi 39
4.2.7. Chỉ tiêu năng lực cho vay 39
4.3. Các tiêu chí tổng hợp đánh giá thanh khoản-các tín hiệu từ thị trường 40
CHƯƠNG 4: SỬ DỤNG MÔ HÌNH HỒI QUY ĐỂ ƯỚC LƯỢNG RỦI RO THANH KHOẢN CỦA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ VIỆT NAM- VIB 41
1. Giới thiệu 41
2. Tỷ lệ thanh khoản 41
3. Mô hình ước lượng 42
4. Ước lượng mô hình bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất 43
4.1. Mô hình 43
4.2. Giả thiết 43
4.3. Kết luận 44
5. Kết quả ước lượng bằng EVIEWS 44
6. Kiểm định các giả thiết của mô hình 45
6.1. Phương sai của sai số thay đổi 45
6.2. Kiểm định tự tương quan 46
6.3. Kiểm định sự phân phối chuẩn của yếu tố ngẫu nhiên 47
6.4. Kiểm định sự thiếu biến của mô hình ( kiểm định Ramsey) 48
C - KẾT LUẬN 50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 51
PHỤ LỤC
61 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1846 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập tại Ngân hàng Quốc tế- VIBank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch. Đó là hiện tượng người vay do thiếu đạo đức, thực hiện những hoạt động trái với cam kết sau khi nhận được khoản tiền vay, đưa đến việc khó có thể hoàn trả món vay, gây rủi ro cho Ngân hàng.
Thông tin không cân xứng trên thị trường tài chính đẫn tới sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đuức đã đặt các Ngân hàng trước nguy cơ rủi ro cao. Muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận, tránh tình trạng kinh doanh thua lỗ, nợ khê đọng dẫn đến phá sản, các Ngân hàng phải thật tỉnh táo để có những nguồn thông tin cân xứng nhằm vượt qua được sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro về đạo đức.
3.3. Sự điều khiển của cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường, với quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá cả... là bàn tay vô hình điều khiển mọi hoạt động của các doanh nghiệp và quyết định sự sống còn của các doanh nghiệp.
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp. Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì hoạt động phải sinh lời. Bởi vậy, cũng như tất cả các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh khác, muốn tồn tại và phát triển, Ngân hàng phải giải quyết được các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình kinh doanh: mâu thuẫn về giá cả (lãi suất), về mức cung cầu của vốn, về các sản sản phẩm dịch vụ cung ứng cho khách hàng... Trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, các ngân hàng cạnh tranh nhau quyết liệt và tất yếu có ngân hàng thắng lợi và có ngân hàng chịu rủi ro thất bại. Lịch sử ngân hàng đã ghi lại nhiều trường hợp ngân hàng phá sản và các cuộc khủng hoảng ngân hàng: Từ năm 1930 đến 1933: làn sóng phá sản ngân hàng đã tràn từ áo, Đức, Anh sang Mỹ, sự đổ bể của hàng loạt các ngân hàng như ngân hàng Bankhaus Herstatt của Đức (1974), ngân hàng quốc gia Franklin - ngân hàng đứng thứ 12 của Mỹ (1974), bài học đắt giá của Ngân hàng Baring, một ngân hàng có tên tuổi ra đời từ 1762 bị đổ vỡ vào năm 1995, và gần đây cơn ác mộng Daiwa chi nhánh của Ngân hàng Nhật bản tại Newyord - thua lỗ tới 1,1 tỷ USD, hay sự sụp đổ của hệ thống quỹ tín dụng đô thị năm 1989 ở Việt nam đã cho ta thấy sự khắt khe đến mức nào của kinh tế thị trường.
Ngoài ra, cần xét đến mối quan hệ với khách hàng, khi ngân hàng đóng vai chủ nợ - dùng nguồn vốn huy động được đem cho các doanh nghiệp và cá nhân cần vốn vay - Thực tế cho thấy trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp là khách hàng vay vốn và giao dịch với ngân hàng cũng thường gặp phải những rủi ro nhất định mà hậu quả là sự phá sản của doanh nghiệp không còn là hiện tượng riêng có của một nền kinh tế ổn định hay không ổn định, hoặc của một nước phát triển hay đang phát triển.
Tất nhiên ở đây còn có yếu tố liên quan tới năng lực tài chính, năng lực điều hành, năng lực xử lý thông tin và nghiệp vụ trong quá trình sản xuất và kinh doanh của các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế.
Nền kinh tế là một "cơ thể sống". Sự rủi ro vỡ nợ của một hay một số khách hàng trong một ngành nào đó có thể ảnh hưởng lớn đến các ngành có liên quan.
Mặt khác, trong mối quan hệ với khách hàng - khi ngân hàng đóng vai trò đi vay (nhận tiền gửi) - ngân hàng cũng cần phải tôn trọng quy
4. Những rủi do chủ yếu trong kinh doanh ngân hàng
Kinh doanh ngân hàng là loại kinh doanh mang tính đặc thù, do đó rủi ro đối với hoạt động ngân hàng cũng mang tính chất đặc thù. Những rủi ro mà Ngân hàng thường gặp phải như:
Rủi ro lãi suất
Rủi ro tín dụng
Rủi ro thanh khoản
Rủi ro hối đoái
Rủi ro công nghệ
Rủi ro môi trường
Rủi ro khác
4.1. Rủi ro lãi suất
Lãi suất là giá cả của sản phẩm ngân hàng, nên mọi tác động trực tiếp đến giá trị tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng. Mọi sự thay đổi của lãi suất đến việc tăng, giảm thu nhập, chi phí và lợi nhuận của Ngân hàng. Nếu thu nhập từ lãi không lớn hơn chi phí về lãi thì ngân hàng sẽ chịu thua lỗ.
Lãi suất là yếu tố thay đổi trên thị trường, rát khó có thể dự báo trước rủi ro lãi suất xảy ra khi lãi suất thay đổi làm giảm thu nhập của Ngân hàng. Đối với nguồn vốn huy động khi lãi suất tăng sẽ làm chi phí vốn vay của ngân hàng tăng, đối với các khoản tín dụng, khi lãi suất giảm sẽ làm giảm thu nhập từ lãi của ngân hàng. Và do đó làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Nguyên nhân chính gây ra rủi ro lãi suất là do sự không cân xứng giữa các kỳ hạn của tài sản nợ và tài sản có. Nếu ngân hàng dùng tài sản nợ ngắn hạn để đầu tư vào tài sản có dài hạn thì khi lãi suất ngắn hạn tăng lên, trong khi lãi suất đầu tư vẫn giữ nguyên, ngân hàng sẽ gặp rủi ro. Ngược lại nếu ngân hàng dùng tái sản nợ dài hạn để đầu tư vào tài sản có ngắn hạn thì khi lãi suất đầu tư giảm Ngân hàng cũng có nguy cơ bị rủi ro.
Ngoài ra rủi ro lãi suất còn có thể xảy ra do các nguyên nhân khác như: do bất lợi trong cạnh tranh, buộc ngân hàng phải tăng lãi suất huy động và hạ lãi suất cho vay để thu thút khách hàng, do đó làm tăng chi phí và giảm thu nhập của ngân hàng: Do cung tiền tệ nhỏ hơn cầu tiền tệ nên ngân hàng phải tăng lãi suất để huy động vốn: Do chính sách ưu đãi cho vay của nhà nước, nên Ngân hàng phải giảm lãi suất cho vay.
4.2. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro do ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của các khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi vay không đúng thời hạn.
Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của Ngân hàng như hoạt động bảo lãnh, tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính.
Rủi ro tín dụng là rủi ro cơ bản nhất của Ngân hàng thương mại, do những nguyên nhân sau:
- Người vay vốn lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính nên không có khả năng thanh toán nợ cho Ngân hàng.
- Do thiếu thông tin về khách hàng nên ngân hàng đã cho những khách hàng kinh doanh kém hiệu quả vay vốn, nên việc thu nợ gặp khó khăn.
- Cán bộ Ngân hàng có trình độ thấp hoặc vi phạm đạo đức nghề nghiệp, dẫn đến các khoản nợ xấu, cho vay vốn khống, cho vay không đúng mục đích, …
- Giá trị tài sản đảm bảo không đáp ứng được yêu cầu thu nợ của Ngân hàng.
- Các nguyên nhân khác: người vay cố ý không trả nợ, hoặc các lí do bất khả kháng như người vay qua đời hoặc mất tích, …
4.3. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là rủi ro nguy hiểm nhất đối với Ngân hàng, có liên quan đến sự sống còn của một Ngân hàng. Một Ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo đựơc khả năng thanh toán hiện tại, trong tương lai và đột xuất. Nếu không đáp ứng được các nhu cầu thanh toán đó Ngân hàng có thể bị mất khả năng thanh toán và có nguy cơ bị phá sản.
Rủi ro thanh toán là loại rủi ro riêng của Ngân hàng, do Ngân hàng không duy trì được thường xuyên một tài sản có “tính lỏng” cao dẫn đến mất khả năng chi trả thường xuyên cho khách hàng.
Rủi ro thanh toán nảy sinh do những nguyên nhân sau:
+ Do mất cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn dư thừa quá lớn, trong khi đó thị trường đầu ra hạn hẹp. Nên một số Ngân hàng đã dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn quá mức, dẫn đến thiếu hụt khả năng thanh toán cuối cùng.
+ Đến hạn, các khoản vay khó thu hồi được, uy tín của Ngân hàng giảm sút, người gửi tiền hay người đi vay thường phản ứng trước những khó khăn của Ngân hàng bằng cách sử dụng hạn mức tín dụng để đảm bảo có tiền cho những nhu cầu về sau hoặc rút hết số dư tiền gửi vì sợ có thể không rút được.
Trong trường hợp Ngân hàng mất khả năng thanh toán, vốn tự có của Ngân hàng không có khả năng bù đắp hết tất cả các khoản mất mát, thiệt hại, Ngân hàng dễ rơi vào tình trạng vỡ nợ hay phá sản.
Rủi ro thanh toán khoản là rủi ro đặc trưng của Ngân hàng, khó đối phó nhất. Do đó, để nói rõ hơn về rủi ro thanh toán khoản, em xin trình bày rõ hơn ở phần sau.
4.4. Rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là rủi ro do sự biến động của tỉ giá hối đoái gây nên. Nhưng rủi ro này có thể phát sinh trong tất cả các nghiệp vụ và liên quan đến ngoại tệ của Ngân hàng như: cho vay, huy động vốn bằng ngoại tệ, mua bán ngoại tệ, đầu tư chứng khoán bằng ngoại tệ,…
Trong các giao dịch ngoại hối và trong cân đối tài sản bằng ngoại tệ của Ngân hàng, bất cứ một trạng thái ngoại hối “trưòng” hay “đoản” đều có thể gặp rủi ro hối đoái khi tỉ giá ngoại tệ thay đổi. Nếu ngân hàng ở trạng thái ngoại tệ “trường”, thì khi ngoại tệ tăng giá Ngân hàng sẽ có lãi, ngược lại Ngân hàng sẽ bị lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá. Nếu Ngân hàng đang ở trạng thái “đoản” về một ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ lên giá Ngân hàng sẽ bị lỗ và ngược lại.
Như vậy, việc tạo ra các trạng thái ngoại tệ “trường” hay “đoản” chính là nguyên nhân gây rủi ro hối đoái cho Ngân hàng. Đây chính là kết quả của việc Ngân hàng thực hiện các giao dịch ngoại tệ phục vụ cho khách hàng và cho chính bản thân mình, hoặc ngân hàng huy động vốn bằng ngoại tệ và đầu tư vào các tài sản có bằng ngoại tệ.
4.5. Rủi ro môi trường
Rủi ro môi trường là rủi ro do hoạt động của Ngân hàng gây nên, bao gồm: rủi ro do sự biến động của thiên nhiên (lũ lụt, động đất), rủi ro về kinh tế (khủng hoảng, suy thái), rủi ro do sự thay đổi chính sách pháp luật của Nhà nứơc gây nên bất lợi cho Ngân hàng.
Rủi ro môi trường là rủi ro mà Ngân hàng khó kiểm soát được chúng có thể làm suy yếu khả năng chịu đựng rủi ro của Ngân hàng hoặc gây cho Ngân hàng những thiệt hại về tài chính.
4.6. Rủi ro trong công nghệ
Rủi ro trong công nghệ thường xảy ra trong các trường hợp: Ngân hàng đã đầu tư rất lớn vào phát triển công nghệ nhưng hiệu quả sử dụng lại không cao, không tiết kiệm chi phí cho Ngân hàng theo như mong muốn hoặc hệ thống công nghệ của Ngân hàng trục trặc làm ảnh hưởng đến việc điều hành hoạt động kinh doanh của Ngân hàng gây ra những tổn thất nhất định.
4.7. Rủi ro về nguồn vốn.
Rủi ro về nguồn vốn thường xảy ra dưới hai hình thức:
+ Rủi ro do thừa vốn: Ngân hàng thương mại thông qua hình thức “đi vay để cho vay” nhằm kiếm lợi nhuận, còn vốn tự có “chỉ là cái đệm chống đỡ sụt giá của các tài sản có”. Khi nguồn vốn của Ngân hàng bị ứ đọng có nghĩa là Ngân hàng huy động vào mà không cho vay ra được hay cho vay ra quá ít, lợi nhuận không đủ bù đắp chi phí thì Ngân hàng sẽ gặp rủi ro.
+ Rủi ro do thiếu vốn: Do việc chuyển hoán của các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn không nhịp nhàng dẫn đến việc Ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu cho vay, đầu tư hoặc nhu cầu thanh toán của khách hàng. Điều này cũng dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng.
4.8. Các rủi ro khác
Như rủi ro hoạt động, rủi ro quốc gia, rủi ro pháp lí…
Chương 3: Lý thuyết về rủi ro thanh khoản
1. Khái quát rủi ro thanh khoản đối với hoạt động Ngân hàng
Đối với các tổ chức nói chung, thì rủi ro thanh khoản gây ra đối với các ngân hàng là thường xuyên và nghiêm trọng hơn cả. Nguyên nhân chính xuất phát từ đặc điểm mang tính đặc thù của bảng cân đối tài sản là: Ngân hàng đã dùng các nguồn vốn ngắn hạn bên tài sản nợ để tài trợ cho các tài sản có. Ngoài ra, khi những người gửi tiền nhận thấy Ngân hàng gặp rắc rối về thanh khoản thì đồng loạt rút tiền ngay lập tức ra khỏi Ngân hàng, hơn nữa hành động rút tiền của những người gửi tiền có tính lây lan và phản ứng dây chuyền nhanh chóng và rộng khắp.
Các rủi ro như lãi suất, tỷ giá, tín dụng… Có thể đe doạ đến khả năng thanh toán cuối cùng của Ngân hàng, nhưng rủi ro thanh khảon chỉ là vấn đề thông thường xảy ra hàng ngày đối với hoạt động Ngân hàng . Chỉ trong trường hợp đặc biệt hạn hữu, rủi ro thanh khoản mới đe roạ đến khả năng thanh toán cuối cùng của Ngân hàng.Vì vấn đề thanh khoản là vấn đề thường nhật, cho nên một trong những nhiệm vụ hàng đầu đối với nhà quản lí ngân hàng là đảm bảo khả năng thanh toán một cách thường xuyên, liên tục và đầy đủ.
Một Ngân hàng được coi là thanh khoản nếu có khả năng tiếp cậc được đầy đủ với các nguồn thanh khoản một cách tức thời tại mức chi phí hợp lí và thời điểm có nhu cầu. Từ khái niệm này cho thấy để được xem là thanh khoản thì ngân hàng phải:
- Hoặc là có sẵn trong tay một lượng tài sản cần thiết (lượng tài sản dự trữ thanh khoản bên tài sản có – Stored liquidities)
- Hoặc là phải có khả năng đi vay hay huy động tức thời được nguồn vốn thanh khoản, hay bán được các tài sản thuộc bên tài sản có.
- Trục trặc trong thanh khoản thường là tín hiệu đầu tiên về những khó khăn tài chính đối với Ngân hàng và hậu quả tiếp đến có thể là:
+ Mất dần những người gửi tiền một cách truyền thống.
+ Buộc phải chuyển hoá các tài sản có thanh khoản tiền do thiếu hụt tiền mặt.
+ Tiếp cận với thị trường tiền tệ để tăng vốn với những điều kiện khắt khe hơn : ví dụ như phải có tài sản thế chấp, chịu mức lãi suất cao… và có thể bị từ chối cho vay.
Tất cả những biểu hiện này đều là cho Ngân hàng tiến gần đến bờ vực mất khả năng thanh toán và đi đến phá sản
Ngày nay, thị trường tiền tệ phát triển với nhiều công cụ phong phú, đa dạng, tiện dụng và hiệu quả,, chính vì vậy nhiều Ngân hàng cho rằng có thể đi vay được một lượng vốn lớn tại bất kì thời điiểm nào để đáp ứng được nhu cầu thanh khoản cần thiết, do đó đã coi nhẹ việc duy trì một lượng tài sản thanh khoản nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản thường xuyên của Ngân hàng.
2. Nguyên nhân làm phát sinh rủi ro thanh khoản
2.1. Những ngyên nhân tiền đề
Có ba nguyên nhân chính khiến Ngân hàng đối mặt với rủi ro thanh khoản thường xuyên là:
Nguyên nhân thứ nhất: Ngân hàng huy động và đi vay vốn với thời hạn ngắn, và cứ tuần hoàn chúng để sử dụng cho vay với thời hạn dài hơn. Do đó, nhiều Ngân hàng phải đối mặt với sự không trùng khớp về thời hạn đến hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Thực tế là Ngân hàng thường có một tỉ lệ đáng kể tài sản nợ, có đặc điển là phải được hoàn trả tức thời nếu người gửi có nhu cầu, như tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn có thể rút trước thời hạn, tài khoản NOW… do đó Ngân hàng luôn phải sẵn sàng thanh khoản.
Nguyên nhân thứ hai: Sự nhạy cảm của tài sản tài chính với những thay đổi lãi suất. Khi lãi suất tăng, nhiều người gửi tiền sẽ rút tiền ra tiềm kiếm nơi gửi khác có mức lãi suất cao hơn. Những người có nhu cầu tín dụng sẽ hoãn lại, hoặc rút hết số dư hạn mức tín dụng với mức lãi suất thấp đã thoả thuận. Như vậy thay đổi lãi suất ảnh hưởng đến luồng tiền gửi cũng như luồng tiền vay, và cuối cùng là đến thanh khoản của Ngân hàng. Ngoài ra lãi suất thay đổi sẽ ảnh hưởng đến thị giá của các tài sản mà Ngân hàng đem bán để tăng thanh khoản, và trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí đi vay trên thị trường tiền tệ của Ngân hàng.
Nguyên nhân thứ ba: Ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản một cách hoàn hảo. Những trục trặc về thanh khoản sẽ làm sói mòn niền tin của dân chúng vào Ngân hàng. Nếu như vào một buổi sáng các quầy chi trả tiền hay các máy trả tiền tự động của Ngân hàng đóng cửa với lí do là thiếu tiền mặt tạm thời, và không thể thanh toán các tờ séc chuyển đến cũng như những khoản tiền gửi đến hạn thì Ngân hàng đó đứng trước nguy cơ phá sản và nếu có vực lại được thì một phần nào đó cũng giảm bớt lòng tin gửi tiền của khách hàng. Một trong những việc quan trọng đối với nhà quản lí Ngân hàng là luôn liên hệ chặt chẽ với những khách hàng có số dư tiền gửi lớn và những khách hàng đang còn hạn mức tín dụng lớn chưa sử dụng để biết được kế hoạch của họ, khi nào thì rút tiền và rút bao nhiêu để có phương án thanh khoản thích hợp.
2.2. Nguyên nhân từ hoạt động
Rủi ro thanh khoản có thể phát sinh từ hoạt động bên tài sản nợ hay bên tài sản có của Ngân hàng.
Nguyên nhân bên tài sản nợ: rủi ro thanh khoản có thể phát sinh bất cứ lúc nào khi những người gửi tiền thực hiện rút tền ngay lập tức. Khi những người gửi rút tiền đột ngột, buộc ngân hàng phải đi vay bổ sung hoặc bán bớt tài sản thanh khoản để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.Trong tất cả các nhóm tài sản có, thì tiền mặt là phương tiện đầu tiên và trực tiếp để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Nhưng đáng tiếc là tiền mặt là tài sản không đem lại thu nhập lãi suất cho Ngân hàng, do đó các Ngân hàng có xu hướng giảm thiểu tài sản có ở dạng tiền mặt. Vì vậy để thu được thu nhập từ lãi suất, các Ngân hàng phải đầu tư tiền vào các tài sản ít thanh khoản hơn hoặc những tài sản có thể chuyển hoá thành tiền, nhưng chi phí để chuyển hoá thành tiền ngay lập tức với các tài sản khác nhau thì rất khác nhau. Khi phải bán một tài sản ngay lập tức thì giá của nó có thể thấp hơn rất nhiều so với trường hợp có thời gian để tìm kiếm người mua và thương lượng về giá. Kết quả là một số tài sản chỉ có thể chuyển hoá thành tiền ngay lập tức tại mức giá bán rất thấp, do đó có thể đe doạ đến khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng. Ngoài thanh lý tài sản Ngân hàng có thể tìm kiếm các nguồn vốn bổ sung thông qua việc vay trên thị trường tiền tệ.
Nguyên nhân bên ngoài tài sản có: Rủi ro thanh khoản phát sinh liên quan đến các cam kết tín dụng. Một cam kết tín dụng được người vay tiền có quyền hành rút tiền bất cứ lúc nào trong thời hạn của nó. Khi một cam kết tín dụng được người vay thực hiện, thì ngân hàng phải đảm bảo có đủ tiền ngay tức thời để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nếu không Ngân hàng sẽ đối mặt với rủi ro thanh khoản. Tương tự như bên tài sản nợ, để đáp ứng nhu cầu thanh khoản bên tài sản có, Ngân hàng có thể giảm số dư tiền mặt, chuyển hoá các tài sản có khác thành tiền mặt, hoặc đi vay các nguồn vốn bổ xung trên thị trường tiền mặt.
2.3. Một só biện pháp nghiệp vụ để phòng tránh rủi ro thanh khoản
2.3.1. Xử lí rủi ro thanh khoản phát sinh bên ngoài tài sản nợ
Trên bảng cân đối tài sản nợ của Ngân hàng, phần lớn tài sản nợ có đặc điển chung là ngắn hạn, như tiền gửi không kì hạn, và các loại tiền gửi ngắn hạn khác, trong khi đó, phần lớn tài sản có lại có thời hạn dài hơn, như tín dụng, các khoản đầu tư, cho thuê…Đối với tiền gửi không kì hạn, người gửi có thể rút tiền bất cứ lúc nào vào những ngày làm việc của Ngân hàng. Như vậy, về mặt lí thuyết, nếu một Ngân hàng có tỉ trọng lớn về tiền gửi không kì hạn, thì nó luôn phải sẵn sàng đối phó với tình huống khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào.
Trên thực tế các Ngân hàng đều biết rằng, trong điều kiện bình thường thì chỉ có một tổng số ít trong tổng số những người gửi tiền có nhu cầu rút tiền hằng ngày. Do đó phần lớn số tiền dư gửi hằng ngày trở thành số tiền dư gửi thường xuyên hằng ngày, cung cấp nguồn vốn dài hạn cho Ngân hàng. Đồng thời, những nhu cầu rút tiền gửi hằng ngày, được cân đối chủ yếu bằng các khoản tiền gửi mới, và các khoản thu nhập từ hoạt động Ngân hàng.
Có hai phương án chính để Ngân hàng giải quyết rủi ro thanh khoản là:
(1). Thông qua quản lí tài sản nợ.
(2). Là thông qua quản lí tài sản có.
Theo truyền thống, Ngân hàng thường dựa vào quản lí tài sản có, nhưng ngày nay các Ngân hàng, đặc biệt là các Ngân hàng lớn thường sử dụng phương án quản lí tài sản nợ thông qua việc tiếp cận thị trường tiền để tăng nguồn vốn tín dụng tức thời đáp ứng nhu cầu thanh khoản của Ngân hàng.
2.3.2. Phương pháp quản lí tài sản nợ
Phương pháp quản lí tài sản nợ là việc ngân hàng tiếp cận với thị trường tiền tệ để tăng vốn tức thời bằng các khoản tín dụng ngắn hạn, bao gồm thị trường chính thức (giao dịch với NHTW), thị trường Interbank và hợp đồng mua lại. Ngoài ra, Ngân hàng có thể thực hiện một phương án khác là Ngân hàng có thể phát hành kì phiếu ngắn hạn, hay phát hành một số trái phiếu có thời hạn dài. Nhưng phương pháp này có một hạn chế là chi phí của nó rất cao. Vì trên thị trường Iterbank là thị trường bán buôn nên lãi suất của nó cao hơn so với lãi suất trên thị trường bán lẻ.
Biện pháp quản lí tài sản nợ không làm thay đổi quy mô bảng cân đối tài sản và kết cấu tài sản có, mà chỉ làm thay đổi kết cấu tài sản nợ. Do đó, nếu Ngân hàng có một phương pháp quản lí, tài sản nợ hiệu quả thì bên tài sản nợ sẽ không bị ảnh hưởng khi khách hàng rút tiền bất thường. Đây là lí do tại sao ngày nay, các kĩ thuật quản lí tài sản nợ lại phát triển nhanh và nhiều đến vậy. Đặc biệt với sự phát triển của thị trường chứng khoán là nguồn cung cấp nguồn vốn huy động cho Ngân hàng khi cần.
2.3.3. Phương pháp quản lí tài sản có (chuyển hoá tài sản)
Thay vì vay trên thị trường bán buôn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, ngân hàng có thể chuyển hoá một bộ phận tài sản thanh khoản, Ngân hàng có thể chuyển thành tiền mặt.
Một tài sản được coi là tài sản thanh khoản thì phải đáp ứng được các điều kiện sau:
- Có thể chuyển hoá thành tiền mặt nhanh chóng.
- Chi phí chuyển đổi thấp.
- Với giá cả tương đương với giá thị trường
- Được giao dịch trên thị trường hoàn hảo. Thị trường hoàn hảo là thị trường mà tại mức giá nhất định của thị trường thì nhu cầu mua được đáp ứng, và có bao nhiêu hàng hoá muốn bán đều được bán hết.
Tiền mặt là tài sản có tính thanh khản cao nhất. Nó có thể được giữ dưới dạng tiền gửi tại NHTW, hay các tổ chức tín dụng khác, hay tại các quỹ dự phòng của Ngân hàng. Tiếp đến là trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ. Việc duy trì một lượng tài sản thanh khoản, một mặt làm giảm được rủi ro thanh khoản, mặt khác làm cho Ngân hàng phải chịu chi phí cơ hội, do việc tài sản thanh khoản mang lại thu nhập thấp cho Ngân hàng. Nhưng việc Ngân hàng duy trì quá ít tài sản thanh khoản sẽ khiến Ngân hàng đối mặt với rủi ro rút tiền và các cam kết tín dụng.
Như vậy, ngân hàng luôn phải đánh đổi giữa việc đảm bảo khả năng thanh khoản với lợi nhuận. Việc nắm giưa tài sản thanh khoản đảm bảo cho Ngân hàng giảm thiểu rủi ro thanh khoản với lợi nhuận. Việc nắm giữ tài sản thanh khoản đảm bảo cho Ngân hàng giảm thiểu rủi ro thanh khoản, nhưng đem lại lợi nhuận thấp. Những tài sản ít thanh khoản có thu nhập cao nhưng lại làm giảm khả năng thanh khoản của Ngân hàng, đặt Ngân hàng vào rủi ro thanh khoản cao khi khách hàng rút tiền và khi các cam kết tín dụng được thực hiện.
2.3.4. Xử lí rủi ro thanh khoản phát sinh bên tài sản có
Sự rút tiền quá mức có thể gây nên những vấn đề thanh khoản cho Ngân hàng. Tương tự như vậy, khi những người vay tiền thực hiện các cam kết tín dụng hay sử dụng cũng có thể gây cho Ngân hàng gặp phải những vấn đề về thanh khoản.
3. Chiến lược quản lí tài sản nợ
3.1. Chiến lược phát triển ổn định ở thị trường bán lẻ
Chiến lược quản lí tài sản nợ đối với hầu hết các Ngân hàng là phát triển vững chắc các thị trường bán lẻ. Những khoản tiền bán lẻ (các khoản tiền gửi của khách hàng cá nhân và tổ chức kinh tế) là nguồn vốn chiến lược chính hình thành sức mạnh của Ngân hàng, bởi vì chúng có đặc điểm là ổn định trong dài hạn và có chi phí thấp hơn trong thị trường bán buôn.
Xét về mặt kì hạn, nguồn vốn bán lẻ bao gồm nhiều tiền gửi không kì hạn, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kì hạn có thể rút ra bất kì lúc nào, tiền gửi có kì hạn là ngắn hoặc có thể rút ra trước hạn. Nhưng trong thực tế, phần lớn số dư của nguồn vốn bán lẻ lại ổn định thường xuyên như nguồn vốn dài hạn vì người gửi tiền chỉ rút tiền trong những trường hợp bất thường.
Bên cạnh những ưu điểm và có chi phí thấp, chiến lược này có nhược điểm là phải chịu chi phí cơ sở hạ tầng cao. Để thu hút được nguồn vốn khách hàng, thì Ngân hàng phải có mạng lưới chi nhánh rộng khắp, cung cấp được những dịch vụ tốt nhất, có hệ thống thông tin điện tử để duy trì và phát triển thị trường bán lẻ. Ngoài ra cuộc chiến tranh lãi xuất với các Ngân hàng đòi hỏi Ngân hàng phải luôn có những phương án khả thi để đối phó với những thay đổi trên thị trường.
Và Ngân hàng luôn luôn thường xuyên đầu tư mở rộng đúng mức đối với thị trường bán lẻ.
3.2. Chiến lược đa dạng hoá nguồn vốn
Việc đa dạng hoá nguồn vốn nhằm giảm sự phụ thuộc vào bất kì một thị trường nào, khu vực địa lí nào, công cụ huy động nào, kỳ hạn nào, khách hàng nào hay đồng tiền nào. Khi thị trường biến động, việc phụ thuộc vào một số ít nguồn huy động sẽ làm cho Ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn tại thời điểm đó. Khi nguồn vốn của ngân hàng được đa dạng hoá cao, Ngân hàng được đảm bảo tốt hơn về thanh khoản trong mọi điều kiện của thị trường. Tuy nhiên chi phí vốn cũng cao hơn.
Ngày nay, ngày càng có nhiều công cụ cho các ngân hàng huy động vốn trong một thời gian ngắn như:
- Nguồn vốn huy động có thể từ thị trường liên ngân hàng, các tổ chức phi tín dụng như bảo hiểm, tài chính, bưu điện…
- Huy động từ nhiều loại khách hàng: khách hàng cá nhân, công ty vừa và nhỏ, công ty liên doanh với nước ngoài, tổng công ty, công ty quốc gia…
- Từ thị trường chứng khoán với việc Ngân hàng phát hành cổ phiếu, trái phiếu của mình để huy động vốn.
3.3. Chiến lược tăng cường nguồn vốn dài hạn có lãi suất cố định
Danh mục tài sản nợ của các Ngân hàng hầu hết là thiếu hụt các nguồn vốn dài hạn có lãi suất cố định. Đó là sự không yêu thích đầu tư dài hạn của một bộ phận lớn các nhà đầu tư. Điều này càng thể hiện rõ khi lãi suất biến động và tỉ lệ lạm phát không chắc chắn. kết quả là Ngân hàng đã dùng vốn ngắn hạn để tài trợ cho các khoản tín dụng dài hạn. Điều này tạo ra rủi ro thanh khoản và các khó khăn trong việc thường xuyên phải tìm ra nguồn vốn mới thay thế.
Nhận rõ sự chênh lệch về kì hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Các nhà quản lí Ngân hàng đã tích cực tìm kiếm danh mục tài sản nợ có kì hạn dài hơn. Một danh mục tài sản nợ có kì hạn dài sẽ cho phép Ngân hàng tránh được sự không chắc chắn về nguồn vốn trong tương lai, giảm được tài sản dự trữ thu nhập thấp, và giải quyết được chi phí liên quan đến việc phải tuần hoàn thường xuyên nguồn vốn ngắn hạn, đông thời do lãi suất cố định chi phí vốn là biết trước, điều này cho phép Ngân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 130.doc