Báo cáo Thực tập tại nhà máy bia Hà Thành

Mục lục

Phần I. Mở đầu

PhầnII. Tổng quan về nhà máy

I . Lịch sử nhà máy

II. Cơ cấu tổ chức

III. Tình hình nguyên liệu

IV. Tình hình kinh doanh

V. Mặt bằng nhà máy

Phần III. Quy trình sản xuất bia

Sơ đồ dây chuyền công nghệ

I. Nghiền nguyên liêu

II. Nấu nguyên liệu

III. Iọc dịch đường

IV. Nấu hoa

V. Lắng xoáy

VI. Làm lạnh nhanh

VII. Lên men

VIII. Lọc trong bia

IX. Bão hoà CO2

X. Chiết bock

XI. Chiết chai

XII. Dán nhãn

XIII. Kcs và các thiêt bị khác

Phần IV. Kết luận

 

 

 

doc41 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1860 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập tại nhà máy bia Hà Thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m tăng độ bền hoạt lực của enzym trong khi tăng nhiệt độ, nó giúp cho enzym tránh được sự sốc nhiệt độ. Sau đó tiến hành bật cánh khuấy hoạt động , tốc độ canh khuấy là31v/ph. Tiến hành xuống bột đổ malt vào qua cửa nạp liệu , thời gian xả bột là 20 phút giúp cho bột malt hoà tan tốt vào nước Sau dó bơm1/2 dịch cháo sang- cánh khuây có tốc độ lớn. Lúc này nhiệt độ đạt 50-520C giữ ở nhiệt độ này trong thời gian 30 phút. Đây là nhiệt độ thích hợp cho prôteaza hoạt động , nó sẽ phân cắt phân tử prôtein thành các hợp chất đơn giản hơn như albumoza, pepton, polypeptid, peptid, axit amin cung cấp nguồn thức ăn cho nấm men, tạo vị đậm đà, tham gia vào quá trình tạo và giữ bọt cho bia. Sau đó bơm nốt 1/2 dịch cháo từ từ nồi cháo sang đảm bảo nhiệt độ là khoảng 65oC , thời gian bơm rất ngắn khoảng 5 phút . ở nhiệt độ này thích hợp cho hệ enzym đường hoá có trong malt hoạt động ở đây là enzym - amylaza hoạt động phân cắt tinh bột thành đường maltoza và các dextrin phân tử lượng thấp là nguồn thức ăn cho nấm men đồng thời là cơ chất để chuyển hoá thành rượu và các sản phẩm bậc hai cho bia. Tiếp tục cấp hơI để nâng nhiệt độ của khối dịch lên 75oC, thời gian nâng nhiệt là 10 phút, thời gian giữ nhiệt là 30 phút-thực hiện đuong hoá lần 2. Đây là nhiệt độ thích hợp cho -amylaza hoạt động phân cắt tinh bột thành dextrin phân tử lượng thấp . Nâng nhiệt lên 760c-duy tri đến hết quá trình đường hoá.Đồng thời đây cũng là nhiệt độ thích hợp cho qúa trình lọc. Kết thúc quá trình giữ nhiệt dịch đường được bơm sang nồi lọc. Yêu cầu của dịch đường sau khi đường hoá là hàm lượng đường maltoza : dextrin= 4:1. Tuy nhiên việc kiểm tra dịch đường là không thường xuyên , công việc kiểm tra chỉ được thực hiện trong những khoảng thời gian nhất định. Chế độ vệ sinh thiết bị tương tự như nồi nấu cháo. II.2. 4. Thiết bị. -Sơ đồ : Như hình vẽ Nôi đường hoá Cấu tạo Cũng tường tự như nồi nấu cháo , nồi đường hoá là thiết bị thân trụ đáy, có hai vỏ , dùng bông thuỷ tinh để cách nhiệt , bên trong có hệ thống cánh khuấy được đặt sát đáy phần nón bên trong có cần gạt, thiết bị có gắn nhiệt độ đêt theo dõi nhiệt độ của nồi đường hoá. Phía trên có ống thông hơI để ngưng phần hơI nước bốc lên và thảI khí không ngưng ra môI trường ,thiết bị có gắn -Cấu tạo : hệ thống CIP.Các kích thước như trên hình vẽ. III. Lọc dịch đường. III.1. Mục đích : Tách dịch đường ra khỏi bã với hiệu suất thu hồi lớn nhất. III.2. Tiến hành. Trước khi tiến hành lọc dịch đường thiết bị được vệ sinh sạch sẽ rồi bơm nước nóng 78oC để lót lọc lượng nước cách mặt lưới lọc khoảng 1cm mục đích của việc này là đuổi hết oxy, tránh hiện tường oxy hoá dịch đường, vừa chứa đầy khoảng không gian giữa hai thanh trùng nồi. Đồng thời quá trình lót lọc còn tránh được hiện tượng bã bít xuống lưới lọc gây khó khăn hoặc làm giảm năng suất lọc. Sau khi giai đoạn ủ nhiệt ở 76oC kết thúc dịch đường được bơm sang nồi lọc kết hợp với bật cánh khuấy, tốc độ cánh khuấy là 3v/ph để dàn đều bã. Khi bơm xong tắt cánh khuấy để yên trong 30 phút để bã kết lắng tạo thành lớp lọc phụ. Sau đó tiến hành bơm dịch lọc ,trong thời gian đầu dịch chưa trong ta tiến hành hồi lưu dịch, để tránh hiện tượng phá vỡ lớp bã lọc người ta cho dịch hồi về theo đường phía trên sát thành thùng. Trong suốt quá trình lọc nhiệt độ của khối dịch luôn được giữ ở 76oC nhờ hệ thống cách nhiệt của nồi lọc. Đây là nhiệt độ thích hợp cho quá trình lọc nếu nhiệt độ cao hơn gây biến tính prôtein, hồ hoá tiếp những hạt tinh bột còn sót lạI sẽ làm tăng độ nhớt và đục bia,làm vô hoạt enzym -amylaza , nhiệt độ thấp quá cũng làm tăng độ nhớt bia. áp lực của quá trình lọc chính là sự chênh lệch áp suất ở phía trên và phía dưới của lớp lọc, dịch đường sẽ tự chảy xuống khoảng không giữa hai lớp lọc và ra ngoàI. Thời gian của quá trình lọc là khoảng 1- 1,5 h. Kết thúc quá trình lọc ta tiến hành rửa bã. Nước rửa bã cũng là nước 78oC. Quá trình rửa bã diễn ra như sau: Lần 1 : Nước rửa bã được lấy từ hai đường phía trên và phía dưới. Phía trên qua đường CIP phía dưới qua một hệ thống phun ở phía dưới, mục đích của việc lấy nước từ hai đường là làm tơI lớp bã để thu hồi chất chiết tốt hơn. Trong quá trình rửa bã này cánh khuấy có hoạt động trong 1-2 phút đầu sau đó ngừng khuấy để lằng trong 10 phút, lượng nước rửa bã lần một khoảng 400-500 l. Lần 2: ở lần này nước chỉ vào bằng một đường qua hệ thống CIP và lượng nước rửa khoảng 300l, trong lần rửa bã lần hai không tiến hành bật cánh khuấy. Số lần rửa bã không khống chế lấy đủ dịch cho nồi hoa. Dịch sau khi lọc được bơm sang nồi hoa , trong những trường hợp dịch lọc xong nhưng nồi hoa dang nấu thì dịch được chứa vào hai thùng tạm chứa ở phía trên. Còn bã sau khi lọc được dao cào bã đẩy ra lỗ tháo bã ,bã sau khi lọc còn chứa khoảng 1,5-2oBx tuy nhiên không thu triệt để vì như vậy sẽ chiết những chất chát có trong bã vào dịch đường.Thời gian rửa bã khoảng 1,5h. Kết thúc quá trinh lọc tiến hành vệ sinh thiết bị như đối với các nồi nấu khác. III.3. Thiết bị. Thùng lọc 2 đáy -Cấu tạo : Thiết bị là thùng lọc đáy bằng gồm hai đáy , đáy thật và đáy giả , đáy thật cách đáy giả 1cm. Đáy giả gồm nhiều mảnh kim loạI hình rẻ quạt đục lỗ kích thước của lỗ là : Mặt trên tiếp xúc với bã : 41x1 Mặt dưới tiếp xúc với dịch lọc : 60x3 Khi làm việc các hình rẻ quạt được ghép với nhau rất kín. Thiết bị là thân hình trụ , hai vỏ ở giữa có lớp cách nhiệt bằng bông thuỷ tinh để đảm bảo nhiệt độ lọc là 76oC. Bên trong có hệ thống cào bã có thể nâng lên hạ xuống nhờ một hệ thống van thuỷ lực đặt ở dưới trục ở dưới thiết bị , phía trên có ống thông hơI và cửa quan sát. ở đáy có một ống tháo bã khoảng 20 cm. Kích thước thiết bị được ghi như trên hình vẽ. IV. Nấu hoa. IV.1. Mục đích. Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình sản xuất bia. Quá trình này nhằm mục đích : Trích ly các chất có trong hoa houblon tạo vị đắng và hương thơm đặc trưng cho bia. Tăng độ bền keo cho sản phẩm : độ bền sinh học , hoá sinh và keo. Tăng màu và cô đặc dịch đường. IV.2. Nguyên liệu. 1 mẻ: đường : kg hoa cao : 0,3kg hoa viên : 1,2kg CaCl2 : 200g IV.3.Tiến hành. Trước khi nấu hoa nồi được vệ sinh sạch sẽ. Dịch đường sau khi lọc được bơm sang thiết bị nấu hoa. Trong quá trình rửa bã ở nồi lọc sau khi rửa xong nước đầu tiên người ta tiến hành cấp nhiệt ở nồi hoa sao cho khi kết thúc quá trình rửa bã ở nồi lọc khoảng 10 phút thì nồi hoa sôI. Để định lượng lượng nước cho vào nồi hoa họ sử dụng một chiếc thước gỗ có vạch chia để định lượng . HơI được cấp bằng hai đường qua áo hơI và qua hệ thống gia nhiệt trung tâm. Khi bắt đầu sôI thì tiến hành bổ xung đường. Đun sôI 10 phút thì cho toàn bộ hoa cao và CaCl2, bổ xung thêm CaCl2 nhằm mục đích tăng khả năng kết lắng của các phần tử keo. Vì trong quá trình nấu hoa , quá trình trích ly các chất đắng có trong hoa houblon tạo ra các phức protein- tanin kết tủa. Đun sôI 40 phút cho 2/3 hoa viên và sau 50 phút cho nốt 1/3 hoa cao đồng thời khoá van hơI của hệ thống gia nhiệt trung tâm để giảm cường độ sôI để giữ hương cho bia. Việc bổ xung hoa làm hai lần nhằm mục đích tạo hương tốt hơn cho bia, bởi vì trong quá trình đun hoa lượng tinh dầu thơm sẽ tổn hao là 80-90% vì vậy việc bổ xung làm hai lần như vậy sẽ giảm tổn thất. Toàn bộ quá trình kết thúc nhiêt độ đạt 100-106oc- mot số protein bị kết tủa làm trong bia sau này. IV.4. Thiết bị. -Sơ đồ : Nồi nấu hoa -Cấu tạo : Cũng giống như thiết bị nấu khác thiết bị nấu hoa cũng dang hình trụ đáy và nắp hình chóp, thiết bị cũng có cấu tạo hai vỏ ở giữa hai vỏ cũng có lớp cách nhiệt bắng bông thuỷ tinh. Bên trong có thiết bị gia nhiệt trung tâm dạng ống chùm , thiết bị này được giữ bởi các thanh bắt cứng với thành nồi. Cánh khuấy được gắn với môtơ đặt ở phía dưới sát với phần nón của thiết bị . Phía trên thiết bị có gắn nhiệt kế để theo dõi nhiệt độ của nồi nấu. Thiết bị có ống thông hơI để ngưng tụ phần nước bay hơI. V.Lắng xoáy. V.1. Mục đích: Tách các phần tử rắn, cặn có trong dịch ra khỏi dịch đường . V.2. Tiến hành. Trước khi làm việc thùng lắng xoáy được vệ sinh bằng nước sôI và chỉ tháo khi bơm dịch vào lắng xoáy. Vì đây là công đoạn rất dễ nhiễm vi sinh vật. Sau khi nấu hoa dịch đường được bơm sang thùng lắng xoáy,dịch đI vào lắng xoáy theo phương tiếp tuyến với thành thiết bị. Trước khi đI vào thùng dịch được đI theo đường ống cong lên để tạo cho dòng dịch có tốc độ cao hơn tạo dòng xoáy lớn. Thời gian bơm là khoảng 15 phút. Nhờ lực ly tâm và sự chênh lệch trọng lượng riêng mà các phần tử rắn và cặn sẽ lắng xuống dưới đáy thiết bị đồng thời nhờ có các thanh định hướng mà các cặn này sẽ tập trung váo phần tâm của thiết bị. Thời gian lắng là 30 phút. Nhiệt độ của dịch ra khỏi thùng lắng là khoảng 90oC . Vào mùa hè nhiệt độ cao người ta tiến hành phun nước lên trên vỏ của thiết bị để làm giảm nhiệt độ của thùng lắng. Kết thúc qúa trình lắng tiến hành tháo bã và vệ sinh thiết bị. V.3. Thiết bị. -Sơ đồ : Thùng lắng xoáy -Cấu tạo: Thân hình trụ, chiều cao của thiết bị bằng 0,5D khác với các trường hợp thông thường H=1,2D và dịch vào cách đáy 0,17H cũng khác với các trường hợp thông thường dịch vào cách đáy 1/3H. Tuy nhiên ở đáy thiết bị có hai thanh định hướng nhờ vậy vẫn đảm bảo dịch ra trong. Bên ngoàI có ống thuỷ để theo dõi mức dịch trong thùng lắng xoáy, khi mà lượng dịch cao thì tiến hành lấy dịch theo đường phía trên khi mà gần kết thúc quá trình lắng người ta mở van lấy dịch theo đường dưới để thu được lượng dịch triệt để nhất. Phía dưới có đường để tháo bã. VI.Làm lạnh nhanh. VI.1. Mục đích. Làm lạnh dịch đường tới nhiệt độ lên men. Yêu cầu giảm nhanh nhiệt độ dịch đường xuống nhiệt độ cần thiết (10- 12 oC), hạn chế sự nhiễm tạp vi sinh vật, đồng thời bão hoà thêm một lượng oxy (oxy được bão hoà vào dịch khi được bơm trên đường ống) để cung cấp cho nấm men sinh trưởng phát triển trong giai đoạn đầu. VI.2. Tiến hành. Trước khi làm lạnh thiết bị được vệ sinh bằng nước lạnh rồi bơm nước sôI trên toàn bộ thiết bị và đường ống dẫn vào tank lên men, xả hết nước vệ sinh rồi mới bơm dịch vào lạnh nhanh. Sau khi dịch được tách cặn đưa vào lạnh nhanh .Tác nhân làm lạnh là nước 1oC . Khi làm lạnh sẽ trao đổi nhiệt gián tiếp qua các tấm bản. Nhiệt độ dịch đường vào máy lạnh nhanh là 10-12oC, nhiệt độ của nước ra khỏi máy lạnh nhanh khoảng 55-75oC, nước này được tận dụng để nấu và rửa bã.Sau khi làm lạnh xong dịch được trộn với men giống và bơm sang tank lên men. Tuy nhiên trên đường đI tới tank nó được nạp thêm oxy, van cấp phảI mở từ từ . Lượng oxy cung cấp để đảm bảo một lượng oxy ban đầu cho nấm men tạo sinh khối đủ cho qúa trình lên men, nếu lượng oxy quá nhiều sẽ dẫn tới trường hợp nấm men sẽ sử dụng nhiều đường để tạo lượng sinh khối không cần thiết vì vậy sẽ làm giảm hiệu suất lên men. Nếu thiếu oxy cũng không tốt vì như vậy sẽ không đủ mật độ tế bào cho quá trình lên men, nấm men sẽ chóng già xảy ra hiện tượng ỳ. Khí ở đây phaỉ là khí vô trùng. Khi kết thúc lạnh nhanh thì ta tiến hành: - đóng van lấy dịch lạnh ra và tháo ống dẫn vào tank. - đóng van lấy nước lạnh. - mở van CIP. - mở van xả cặn đáy thùng lắng và van xả của ống thủy. - đóng van tháo dịch ở đáy thùng lắng. - bơm nước nóng vệ sinh đường lấy dịch và thùng lắng. - xả hết nước vệ sinh trước khi lắng và làm lạnh mẻ mới. Hao hụt tính cho khâu lắng xoáy và làm lạnh nhanh là 100 lít/mẻ. VI.3. Thiết bị. : -Cấu tạo : Thiết bị là một khối hình chữ nhật có chân đỡ gồm nhiều tấm xếp rất khít nhau, bên trong có các đường cho dịch và nước lạnh đi. Năng suất thiết kế của máy là 3m3/h tuy nhiên máy chỉ làm việc với năng suất 1,2-1,5 m3/h .Phía đường dịch ra có ống quan sát . VII. Lên men. VII.1. Mục đích. Là quá trình chuyển hoá đường thành rượu, CO2 và các sản phẩm bậc hai khác tạo thành sản phẩm bia non. VII.2. Các quá trình phát triển của nấm men. Quá trình phát triển của nấm men trảI qua bốn giai đoạn như sau : Giai đoạn thích nghi. Giai đoạn này nấm men làm quen dần với dịch lên men, nấm men lấy của dịch đường và bắt đầu hấp thu các chất dinh dưỡng có trong dịch đường như axit amin,đường maltoza…. để sinh năng lượng cung cấp cho quá trình sinh tổng hợp tế bào. Giai đoạn logarit. ở giai đoạn này nấm men đạt tốc độ sinh sản lớn nhất và với tốc độ không đổi, tế bào được tăng theo cấp số nhân. Giai đoạn này tế bào hoạt động mạnh nhất, số tế bào nảy chồi và tế bào trẻ là cao. Giai đoạn cân bằng. Nấm men ngừng sinh sản, số tế bào có trong dịch là không đổi, số tế bào nảy chồi là giảm. Giai đoạn suy vong. Là giai đoạn nấm men bắt đầu kết bông lắng xuống đáy thiết bị, giai đoạn này số tế bào chết chiếm nhiều. VII.3. Thiết bị lên men Sơ đồ : VII.3.1. Men giống. Mục đích của việc này là tạo ra một lượng sinh khối cần thiết cho quá trình lên men. Nguồn men giống cho quá trình lên men của nhà máy gồm hai nguồn đó là : Men giống thuần khiết : + Giai đoạn trong phòng thí nghiệm như sau : ống thạch nghiêng ống nghiệm 10ml bình tam giác 100ml bình tam giác 1 lít +Giai đoạn trong sản xuất : bình 1 lít bình 25 lít thùng trung gian 500lít Từ thùng trung gian này men được nạp vào các tank lên men, lượng men giống nạp vào là 10% so với lượng dịch đường. Sữa men : Lượng sữa men được nạp vào tuỳ theo tank, với các tank lớn là 25-30 kg, tank nhỏ là 15-20 kg, ở nhà máy sử d VII.3.2.Lên men chính. Mục đích : Chuyển hoá đường thành rượu ,CO2 và các sản phẩm khác. b. Tiến hành : Thiết bị sau khi được vệ sinh sạch sẽ, bơm dịch đường đã được làm lạnh sang. Khi mẻ đầu tiên được bơm vào tank lên men người ta tiến hành nạp toàn bộ lường men giống cho một mẻ vào tank. Nếu sử dụng nấm men thuần khiết thi dùng khí nén để đẩy, còn nếu sử dụng men sữa thì công nhân tiến hành nạp men một cách thủ công men đã được cho vào từng can và công nhân cứ vậy đổ vào. Sữâ men được cho vào qua một cửa nhỏ trên thân thiết bị sau khi nạp xong công nhân dùng cồn để vệ sinh miêng cửa tránh nhiễm cho dịch lên men. Mục đích của việc tiếp men ngay từ đầu là giúp cho nấm men thích nghi dần với dịch lên men đồng thời với mật độ nấm men ban đầu lớn sẽ hạn chế được sự nhiễm tạp. Đến khi tiếp đủ lượng dịch thì lượng sinh khối cũng đủ cho quá trình lên men. Ban đầu người ta chỉ mở lạnh khoang trên cùng và mở một phần khoang thứ hai để khống chế nhiệt độ lên men trong khoảng 12-14OC, còn khoang đáy không mở. Mục đích để tạo ra sự chênh lệch nhiệt độ giữa các khoang nhờ đó tạo ra sự đối lưu nấm men sẽ chuyển động từ dưới lên trên. Đồng thời trong quá trình lên men CO2 tạo ra bám vào bề mặt của nấm men dưới dạng bọt khí khi lượng CO2 tạo ra nhiều đủ lớn nó sẽ kéo theo tế bào nấm men nổi lên trên bề mặt, bọt khí vỡ ra nấm men lạI rơI xuống cứ như vậy mà nấm men được đảo trộn giúp quá trình lên men diễn ra nhanh hơn và đều hơn. Thời gian lên men chính khoảng 5-7 ngày. Khi nồng độ chất khô giảm xuống người ta tiến hành lên men phụ. Trong thời gian lên men chính lượng CO2 tạo ra nhiều nhưng hệ thống thu CO2 của nhà máy đã hỏng nên lượng CO2 được thảI ra ngoàI vì vậy mà áp suất dư của các tank lên men chỉ ở 0. Trong quá trình lên men van thu CO2 phảI được mở vì nếu không thoát CO2 nó sẽ là tác nhân gây ức chế hoạt động của nấm men.Trong quá trình lên men phải lấy mẫu để kiểm tra quá trinh lên men. Kết thúc quá trình lên men chính, mở lạnh khoang dưới cùng hạ nhiệt độ xuống 50C để 8 giờ để nấm men lắng, sau đó tiến hành tách men. VII.3.3.Lên men phụ. Mục đích : Làm chín bia, tạo ra các sản phẩm bậc hai, hoà tan CO2, tạo hương vị cho bia. Tiến hành: Kết thúc quá trình lên men chính tiến hành xuống phụ. Nhiệt độ của quá trình lên men phụ là 2-40C. ở giai đoạn này tốc độ lên men chậm hơn, nấm men tiếp tục sử dụng phần đường còn lại trong dịch lên men tạo thành CO2 và các sản phẩm bậc 2 làm hương vị của bia được hoàn thiện hơn( làm trong bia, khử Diaxetyl, làm chín và ổn định bia). Lượng CO2 tạo ra dưới tác dụng của nhiệt độ thấp sẽ hoà tan vào dịch lên men. Thời gian lên men phụ khoảng 7 ngày. Tuy nhiên, tuỳ theo mức độ tiêu thụ có thể kéo dàI hơn. Trong quá trình lên men, theo nguyên tắc mỗi ngày phảI lấy mẫu kiểm tra một lần, kiểm tra các yếu tố sau: PH Độ đường Soi tế bào nấm men để đánh giá quá trình lên men có diễn ra bình thường hay không. Nếu PH của dịch lên men tăng nghĩa là dịch lên men có thể bị nhiễm vi khuẩn lactic hoặc axetic. Soi tế bào nấm men để biết mật độ tế bào nấm men, tỉ lệ nảy chồi và đặc đIểm hình tháI của tế bào. Tuy nhiên, tạI nhà máy do vấn đề vệ sinh được tốt nên hằng ngày phòng kĩ thuật chỉ kiểm tra hàm lượng chất khô bằng đường kế. VII.3.4. Rửa sữa men. Kết thúc quá trình lên men chính ta tiến hành tách sữa men. Sữa men phân thành ba lớp : - Lớp trên cùng là lớp cặn mịn màu nâu. - Lớp ở giữa màu ngà. - Lớp đáy là lớp cặn thô gồm cặn bẩn và xác nấm men. Tiến hành rút men, xô đầu tiên bỏ để loại cặn. Sau đó rút lấy phần ở giữa có màu trắng ngà và bỏ phần trên cùng. Sau khi thu được phần men sữa ở giữa đây là phần sữa men có chứa nhiều nấm men trẻ và nảy chồi nhiều nhất, tiến hành rửa sữa men. Rửa bằng nước 1oC . Người ta bơm nước lạnh vào các thùng rửa men rồi để lắng khoảng 90 phút, sau đó gạn phần nước phìa trên vì phần nước phía trên chứa chủ yếu là các tế bào men già và xác tế bào nấm men. Tiến hành rửa khoảng 3-4 lần để thu sữa men sạch. Tuy nhiên vì nhà máy không có thiết bị bảo quản sữa men nên chỉ trước khi sử dụng người ta mới tiến hành rửa men. Men sau khi rửa được nạp vào các tank lên men. VII.3.5.Chế độ vệ sinh thiết bị. Hệ thống CIP gồm bốn thùng: 1:Thùng NaOH 2%: dùng để rửa các chất bẩn hữu cơ. 2: Thùng HNO3 2%: dùng để rửa các chất bẩn vô cơ và trung hoà xút. 3: Thùng chất sát trùng 0.1%:dùng để khử trùng. 4:Thùng nước nóng. Quy trình CIP tank: Tráng nước nóng Tuần hoàn xút 90 phút Tráng nước nóng cho sạch xút. Tráng nước lạnh. Tuần hoàn axit 45phút. Tráng nước lạnh. Tuần hoàn Javen 30 phút Vệ sinh 3 lần nước nóng 70-800C nước giếng. Vệ sinh một lần nước sôi ( nước máy) VIII. Lọc. VIII.1. Mục đích. LoạI bỏ vi sinh vật và xác tế bào nấm men còn trong bia, loạI bỏ cặn lạnh, các phức chất protein-tanin, polyphenol, các hạt keo…làm trong bia. VIII.2. Thiết bị. -Cấu tạo: Hình 3.15: thiết bị lọc đĩa Máy lọc khung bản: có bố trí các van để hồi lưu bia khi lọc chưa được trong, nén bia vào máy lọc và đường ống dẫn bia vào tank thành phẩm bão hoà CO2. Phía dưới máy lọc có để một khay để hứng bia do khoảng cách giữa khung và bản không kín. Giữa các khung và bản có đặt vải lọc, tay quay của máy để ép khung và bản với vải lọc cho thật kín và khi cần thiết để tháo khung và bản để tháo bã hoặc rửa thiết bị Hình 3.16:thiết bị lọc khung bản [3,592] Hình 3.17: sơ đồ lọc bia Bia được đưa từ thùng lên men vào thùng phối trộn bằng ống mềm. Đầu tiên đưa bia trộn với bột trợ lọc trong thùng trộn nhờ cánh khuấy, nhà máy sử dụng lượng bột: 2kg bột trợ lọc(1kg bột thô+1kg bột mịn)/100l bia. Khi trộn đều rồi dùng bơm ly tâm nén vào thiết bị lọc đĩa và cho bia đã lọc chảy tuần hoàn theo một đường hồi lưu về thùng phối trộn . Đến khi nào thấy bia trong, đồng thời trên bề mặt lưới lọc có một lớp trợ lọc đều (khoảng 15’) thì mở van cho bia nén vào máy lọc khung bản. Dịch bia đi qua một lỗ của khung , rồi nước bia đi qua vải lọc còn bã, các hạt rắn và bột trợ lọc không đi qua vải lọc được nên giữ lại trên bề mặt của vải lọc. Bia đã được lọc đi theo rãnh của bản và đi ra ngoài theo một lỗ của bản. Trong giai đoạn đầu nước bia chưa trong nên được hồi lưu về thùng trộn bột theo van hồi lưu. Quá trình hồi lưu diễn ra đến khi bia đã trong mới đóng van hồi lưu, mở van tháo bia ra để bia vào thiết bị bão hoà CO2. Đồng thời, đóng mở các van dẫn để bia đi thẳng vào thùng lọc đĩa rồi sang máy lọc khung bản, hai thiết bị lọc này làm việc nối tiếp. Khi làm việc, đối với thùng lọc đĩa thì ta phải thay đổi áp suất từ từ không được thay đổi đột ngột bởi vì khi thay đổi áp suất trong thùng nhanh làm ảnh hưởng đến lớp bột trợ lọc, đối với máy lọc khung bản thì giữ áp không đổi. Nhiệt độ của thùng lọc đĩa và máy lọc khung bản đều bằng nhiệt độ thùng lên men. Năng suất lọc bia 1500-2000l/h Nhà máy sử dụng máy lọc khung bản có sử dụng chất trợ lọc diatomit. Giữa khung và các bản có lớp vảI lọc. Gồm có 19 khung và 20 bản. Kích thước của khung là 400x400x20 (mm), của bản là 400x400x11 (mm). Phía trên có đường bia ra, trên đó có hệ thống khí nén, phía dưới là đường dịch vào.NgoàI ra còn có hệ thống thiết bị còn có thùng phủ bột. VIII.3. Tiến hành. Quá trình lọc gồm 2 quá trình: Quá trình phủ bột: Mục đích của quá trình này là tạo lớp màng lọc. Phần bia thừa trào ra ở phần chiết và phần bán hàng được thu gom về thùng phủ bột. Khi bắt đầu lọc bật cánh khuấy và bổ sung 1 kg bột diatomit thô, tiến hành phủ bột đồng thời tuần hoàn bột, thời gian phủ bột 5-10 phút. Sau đó tiến hành phủ bột tinh, lượng bột tinh đem phủ là 1 kg. Thời gian phủ bột là 10 phút và cũng tiến hành tuần hoàn bột tương tự như phủ bột thô. Kết thúc quá trình phủ bột, bột diatomit sẽ được giữ lại trên lớp vải lọc trên hai mặt của khung tạo thành lớp lọc xốp. Giai đoạn lọc: Dịch từ các tank lên men được bơm vào máy lọc, trước đó bia được làm lạnh tới 0oC để tách tối đa căn lạnh,để tăng áp suất đẩy, người ta tiến hành thổi khí nén vào các tank lên men tuy nhiên áp suất khí nén phải nhỏ hơn 1kg/cm2. Kiểm tra bia ra đến khi nào đạt độ trong theo yêu cầu. Kết thúc quá trình lọc, tiến hành vệ sinh thiết bị. Tuy nhiên, đối với mùa hè cường độ hoạt động lớn, để tiết kiệm thời gian thì người ta không tháo máy vệ sinh mà bơm nước và thổi khí nén để làm tơi lớp bã đẩy ra ngoài. Bia sau khi lọc được bơm vào các tank chứa IX. Bão hoà CO2 Trong thực tế sản xuất, chẳng mấy khi CO2 bão hoà vào bia theo phương pháp tự nhiên lại đạt đến nồng độ cần thiết. Vì vậy việc bão hoà bổ sung CO2 cho bia là tác nghiệp công nghệ không thể bỏ qua được [3,502]. Bia được cacbonic hoá ở nhiều thời điểm khác nhau: sau lên men chính; trong thời kì lên men phụ và tằng trữ. Nhưng phổ biến nhất và gấp rút nhất là sau khi lọc và trước khi chiết chai. Thiết bị bo hồ CO2 l thiết bị hình trụ lm bằng inox gần giống với tank ln men nhưng nhỏ hơn. Cũng có lớp áo lạnh, lớp bảo ôn, đường dẫn dịch vào ở dưới, đường sục CO2, bên trên có quả cầu vệ sinh đồng thời để xả khí khi áp suất tới ngưỡng. ở Hà Thành sử dụng 10 tank bo hồ CO2. Sau khi lọc bia song, nhiệt độ của bia khoảng 7-8oC. Cho nn thng nạp CO2 phải có hệ thống hạ nhịêt độ của bia xuống 0 -4oC. ở Hà Thành sử dụng glycon để hạ lạnh bia. Bia được bơm vào theo đường ống dưới để tránh sàu bọt. Bia chiếm khoảng 80% thể tích thùng. Khi đ bơm song đóng các van lại, mở van nạp CO2 vào thùng đ được xử l#, p suất nạp CO2 đến 3,5 - 4 kg/ cm2. Thời gian tăng áp lực là: 15 -30 phút, giữ ở áp suất này trong khoảng 12h. Để lượng CO2 hoà tan tối đa có thể tiến hành nạp 2 -3 lần. Sau khi nạp hàm lượng CO2 phải đạt: Bia hơi từ: 3 -4 g/lít. Bia chai từ: 4 -4.5 g/lít. X. Chiết bock: Thùng bock của nhà máy là dụng cụ để chứa bia thành phẩm, có hình tang trống, với dung tich 25l, 30l và 50 , làm bằng hợp kim nhôm. Mục đích của việc đóng bia vào thùng bock là để vận chuyển đến các cơ sở tiêu thụ ngay trong ngày. Trong chiết bock thì bia khơng cần phải bổ sung CO2 mà phải đảm bảo ba yêu cầu sau: + Rót đầy thể tích thùng bock. + Rĩt khơng sủi bọt. + Hao phí bia ít nhất. XI. Hoàn thiện bia chai: Chai đem chiết phải đủ tiêu chuẩn: Vệ sinh sạch sẽ. Máy chiết làm việc theo nguyên tắc đẳng áp có ưu điểm: - Hạn chế được bia tiếp xúc với không khí - Bia khơng bị tro bọt, ít tổn hao CO2 - Chiết rót nhanh đúng định mức - Nhưng ở Hà Thành chưa tự động hoá được khâu này, vẫn sử dụng máy chiết chai thủ công Hình 3.18: sơ đồ chiết chai Chiết chai Dập nút Bia hơi Bia bo hồ CO2 Chai thanh trùng Làm khô Dán nhãn Xuất xưởng Chiết bock Xuấtxưởng xươn xưởng Chai thuỷ tinh Hà Thành sử dụng chai của HaLiDa và Hà Nội là loại thuỷ tinh trong màu nâu sẫm để tránh tác động của phản ứng quang hoá gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng sản phẩm. Mục đích rửa chai: diệt hết vi khuẩn, cặn bẩn, kiểm tra chất lượng chai, trước khi đưa vào chiết. Nhà máy rửa chai bằng nước lạnh có pha xút rồi ngâm nước ấm. Sau khi rửa chai song đưa qua bộ phận hấp chai ở 0,7kg/cm2 và qua bộ phận kiểm tra để loại bỏ các chai không đạt yêu cầu. Sau đó chai được đưa vào chiết và dập nút. Sau giai đoạn dập nút là giai đoạn thanh trùng. ở nhà máy Hà Thành ngoài chai thuỷ tinh thì chai nhựa cũng được sử dụng để chứa sản phẩm, tuy nhiên chai nhựa không trải qua giai đoạn thanh trùng. Hệ thống chiết chai: Hình 3.19 : máy chiết bia bằng tay Đối với loại máy này thì mọi thao tác được thực hiện bằng tay. Người ta hạ cái khay lò xo xuống và ấn cổ chai vào một cái nút cao su gắn với vòi; khi thả lò xo thì chai được gắn kín với vòi. Sau đó, người ta dùng tay gạt cái cần gắn với vòi xuống; trước tiên, ống tạo áp suất được mở ra nhờ thao tác này, sau đó nó đóng lại và những ống dẫn bia và ống thoát khí mở ra đồng thời. Khi chai đầy người ta nâng cần gạt lên và lấy chai ra. Với thiết bị này thì có năng suất là khoảng 750 chai/h và như

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35314.DOC
Tài liệu liên quan