MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI 2
1.1 Tóm lược lịch sử phát triển 2
1.3 Vị trí và chức năng 2
1.4 Nhiệm vụ và quyền hạn 2
1.5 Cơ cấu tổ chức 9
PHẦN 2. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI 12
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI - 25 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH 12
2.1.1. Sự hình thành của Viện Khoa học Lao động và Xã hội 12
2.1.2. Những thành tựu qua 25 năm hoạt động 12
2.1.2.1. Thời kỳ trước đổi mới (1978-1986) 13
2.1.2.2. Thời kỳ sau đổi mới 13
2.2. CHỨC NĂNG 20
2.3. NHIỆM VỤ 20
2.4. TỔ CHỨC BỘ MÁY 21
2.5. TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ CÔNG TÁC NĂM 2007-2008 21
2.5.1. Nghiên cứu khoa học 22
2.5.1.1. Các đề tài đã thực hiện: 22
2.5.1.2. Các đề tài nghiên cứu khoa học do Viện chủ trì phối hợp 23
2.5.1.3. Các hoạt động khoa học khác: 26
2.6 Một số đề tài nghiên cứu của Viện trong giai đoạn tới 26
2.6.1 Nhóm đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ 26
2.6.2 Nhóm đề tài nghiên cứu hợp tác quốc tế 27
3. TRUNG TÂM THÔNG TIN, PHÂN TÍCH VÀ DỰ BÁO CHIẾN LƯỢC 29
3.1. CHỨC NĂNG 29
3.2. NHIỆM VỤ 29
4. ĐỀ TÀI 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1633 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập tổng hợp ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHCN
Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em
Trung tâm Thông tin
Vụ Bảo hiểm xã hội
Trường Đào tạo, BD CB, CC LĐXH.
Cục Bảo trợ
Báo Lao động và Xã hội
Vụ Pháp chế
Tạp chí lao động và Xã hội
Vụ Hợp tác quốc tế
Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam
Vụ Kế hoạch - Tài chính
Vụ Tổ chức cán bộ
Cục Quản lý lao động ngoài nước
Cục An toàn lao động
Cục Người có công
Cục PC TN Xã hội
Tổng cục dạy nghề
Thanh tra Bộ
Văn Phòng Bộ
PHẦN 2. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI - 25 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH
2.1.1. Sự hình thành của Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Viện Khoa học lao động được thành lập vào ngày 14 tháng 4 năm 1978 tại Quyết định số 79/CP của Hội đồng Chính phủ. Đến tháng 3 năm 1987, Viện được đổi tên thành Viện Khoa học Lao động và các vấn đề Xã hội (VKHLĐ&CVĐXH). Theo Quyết định 782/TTg ngày 24 tháng 10 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp các cơ quan nghiên cứu - triển khai khoa học và công nghệ, Viện KHLĐ&CVĐXH được xác định là viện đầu ngành trực thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, cung cấp luận cứ phục vụ xây dựng và chính sách, chiến lược thuộc lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã hội. Đến ngày 18 tháng 11 năm 2002, trên cơ sở quán triệt kết luận của Hội nghị lần thứ sáu BCHTW khóa IX về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 2 khóa VII, phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo khoa học và công nghệ từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ký quyết định số 1445/2002/QĐ-BLĐTB&XH đổi tên Viện Khoa học Lao động và Các vấn đề xã hội thành Viện Khoa học Lao động và Xã hội, đồng thời quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Viện cho phù hợp với thời kỳ tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa.
Kể từ khi thành lập Viện đến nay, Viện đã không ngừng phát triển, trưởng thành và đã khẳng định được vị trí của mình trong hệ thống các Viện nghiên cứu khoa học xã hội ở nước ta. Các công trình nghiên cứu của Viện ngày càng gắn nhiều hơn với nhiệm vụ quản lý nhà nước của ngành, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định và thực hiện các chính sách thuộc lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã hội trong các thời kỳ, nhất là thời kỳ đổi mới vừa qua.
2.1.2. Những thành tựu qua 25 năm hoạt động
Quá trình xây dựng và trưởng thành của Viện đã trải qua nhiều thời kỳ gắn liền với quá trình phát triển của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, đã để lại những dấu ấn khá đậm nét, có thể chia ra thành 2 thời kỳ: trước đổi mới (1978 - 1986) và sau đổi mới đến nay.
2.1.2.1. Thời kỳ trước đổi mới (1978-1986)
Thời kỳ này, Viện tập trung nghiên cứu cơ bản và ứng dụng thuộc lĩnh vực ngành quản lý phù hợp với phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Nghiên cứu luận cứ phục vụ hoạch định chính sách, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và phục vụ cho quản lý vi mô, nhất là trong các doanh nghiệp nhà nước, là nét đặc trưng chủ yếu trong thời kỳ này. Một số kết quả nghiên cứu nổi bật, có giá trị là: Nghiên cứu xây dựng 11 tập định mức thi công thống nhất trong xây dựng cơ bản; tiêu chuẩn thời gian chung để tính định mức cho các công việc gia công cơ khí; phương pháp xây dựng tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật thống nhất các nghề công nhân và hướng dẫn xây dựng các danh mục nghề công nhân; phương pháp phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới năng suất lao động ở đơn vị kinh tế cơ sở; nghiên cứu các mô hình sản xuất kinh doanh-có hiệu quả, dự báo dân số và phân bố lao động đến năm 2000… Hàng loạt các nghiên cứu đã giúp các doanh nghiệp tổ chức lại lao động một cách khoa học nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Về cơ bản, các công trình nghiên cứu của Viện đã phục vụ kịp thời cho việc xây dựng chính sách, cải tiến quản lý lao động ở cơ sở, nhiều công trình nghiên cứu cho đến nay về định mức lao động, xây dựng tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật, năng suất lao động chỉ cần điều chỉnh chút ít vẫn có thể phục vụ công tác quản lý ở các doanh nghiệp. Đến nay, kết quả của một số công trình nghiên cứu khoa học về cơ bản vẫn là tài liệu tham khảo tốt để phục vụ cho xây dựng chính sách trong lĩnh vực lao động.
Thời kỳ này, hợp tác quốc tế trong nghiên cứu bắt đầu được mở ra, song chủ yếu là với các nước thuộc Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV), nhất là trong các lĩnh vực tổ chức lao động khoa học, định mức lao động, tiền lương, Ergonomy,…
Phải khẳng định rằng, mặc dù trong thời kỳ này, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung phong trào thi đua trong học tập và nghiên cứu được toàn thể cán bộ, nghiên cứu viên nhiệt tình hưởng ứng. Chính những cán bộ này, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường lại là những người tiên phong trong học tập đổi mới kiến thức và nhiều người trong số đó đang giữ những cương vị chủ chốt trong Bộ, trở thành những nhà khoa học đầu ngành.
2.1.2.2. Thời kỳ sau đổi mới
Những năm 1986-1996 đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động nghiên cứu của Viện gắn với những năm đầu thập kỷ 90 của công cuộc đổi mới đất nước. Đó là thời kỳ nhiều vấn đề trong lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã hội đòi hỏi phải được đổi mới tư duy phù hợp với quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ yêu cầu bức xúc trong công tác quản lý của ngành, nhất là phải từng bước quán triệt, cụ thể hóa và thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế, về Lao động và Xã hội đặt ra cho Viện nhiệm vụ hết sức nặng nề trong việc nghiên cứu hình thành cơ sở lý luận, phương pháp luận mới, đáp ứng yêu cầu đổi mới của ngành trong lĩnh vực lao động, người có công, lĩnh vực xã hội; đồng thời tham gia nghiên cứu giải quyết những vấn đề bức xúc trong thực tiễn như giải quyết lao động dôi dư trong sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước; vấn đề việc làm cho lao động xã hội, cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội, Bảo trợ xã hội…
Đổi mới trong hoạt động nghiên cứu của Viện thực sự diễn ra khá mạnh mẽ từ những năm đầu thập kỷ 90, khởi đầu là khi Viện được Nhà nước giao cho thực hiện đồng thời hai đề tài khoa học cấp nhà nước về đổi mới chính sách tiền lương và đổi mới chính sách BHXH cho phù hợp với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Ý nghĩa quan trọng của bước ngoặt đổi mới này là Viện đã bắt đầu chuyển hướng sang tập trung nghiên cứu phục vụ cho việc đề ra các chính sách quản lý vĩ mô. Đề tài cấp Nhà nước về tiền lương đã giải quyết căn bản các vấn đề liên quan đến lý luận về tiền lương nói chung, phương pháp xác định mức lương tối thiểu; vấn đề thang, bảng lương; phụ cấp và vấn đề quản lý nhà nước về tiền lương. Đề tài BHXH cũng đã đưa ra các căn cứ khoa học cho việc hình thành quĩ BHXH trên cơ sở xác định các mức đóng và hưởng, nguồn quĩ này được hình thành và dần dần đi vào hạch toán độc lập và tách khỏi ngân sách nhà nước; xây dựng các chế độ BHXH bắt buộc; đề ra phương án thống nhất quản lý nhà nước về BHXH. Kết quả nghiên cứu của hai đề tài này đã góp phần tích cực xây dựng đề án trình Chính phủ về cải cách tiền lương và BHXH năm 1993. Viện triển khai hàng loạt các đề tài cấp Bộ nhằm đưa ra các cơ sở khoa học tin cậy phục vụ cho việc xây dựng Bộ luật Lao động năm 1995 và các văn bản dưới luật để hướng dẫn thực hiện Bộ luật Lao động. Trong thời kỳ này, Viện cũng được Bộ giao nghiên cứu một số lĩnh vực quan trọng khác như lao động nữ và giới; điều kiện lao động và môi trường lao động; tệ nạn xã hội… Trong lĩnh vực xã hội, các đề tài đã tập trung nghiên cứu phục vụ cho việc đề ra các chính sách đối với các đối tượng có công với cách mạng, bảo đảm cho các đối tượng này có được mức sống bằng hoặc trên mức trung bình của nhân dân tại địa phương nơi cư trú; thực hiện một số nghiên cứu nhằm phục vụ cho việc đề ra các chính sách bảo trợ xã hội cho các đối tượng, nghiên cứu về xóa đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội… theo hướng xã hội hóa.
Đặc biệt, một loạt các cuộc điều tra cơ bản đã được thực hiện nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu và tổng hợp thông tin từ thực tiễn để phục vụ cho xây dựng chính sách. Nhờ các cuộc điều tra này, Viện đã xây dựng được bộ cơ sở dữ liệu quan trọng về doanh nghiệp, về thực trạng lao động, việc làm của người lao động, đời sống của các đối tượng xã hội thông qua kết quả điều tra các hộ gia đình ở các vùng trong cả nước. Các dữ liệu này là căn cứ thực tiễn để xây dựng nhiều báo cáo chuyên đề về lao động, việc làm cung cấp luận cứ cho Bộ góp ý kiến vào các Nghị quyết TW khóa VI, khóa VII; báo cáo của Bộ trưởng với Tổng Bí thư về thực trạng đời sống, việc làm, thu nhập và nghèo đói và nhiều báo cáo khoa học khác; mặt khác cung cấp cơ sở khoa học để phục vụ xây dựng chính sách lao động và xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI và VII của Đảng. Cũng nhờ các thông tin này mà Viện đã chủ trì và phối hợp với các địa phương xây dựng thành công các qui hoạch phát triển ngành cho một số tỉnh và vùng kinh tế.
Đây là thời kỳ Viện bắt đầu mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Khởi đầu là dự án tạo việc làm thông qua phát triển doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam do SIDA Thụy Điển tài trợ và với sự hỗ trợ kỹ thuật của ILO/ARTEP của trường Kinh tế Stockholm và các hợp tác quốc tế khác, kể cả đa phương, song phương, và phi chính phủ. Các hợp tác quốc tế đã tạo điều kiện cho Viện tiếp cận với các lý luận, phương pháp luận, nhận thức mới của quốc tế về lĩnh vực Lao động và Xã hội, đồng thời nâng cao dần uy tín của Viện trong giới nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế. Viện đã trở thành thành viên mạng lưới các Viện nghiên cứu Lao động khu vực Châu Á-Thái Bình Dương từ năm 1995.
Thời kỳ 1997-2002, tiếp tục thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, nền kinh tế-xã hội nước ta đạt được những thành tựu quan trọng, song do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới làm cho tình hình kinh tế-xã hội nước ta diễn biến phức tạp, đặc biệt là tăng trưởng kinh tế trong các năm 1998-2000 có chiều hướng giảm sút, thiên tai liên tiếp xảy ra gây hậu quả nghiêm trọng ở hầu hết các tỉnh trong cả nước; nhiều vấn đề xã hội bức xúc đặt ra cần giải quyết…. Từ đó, nhiệm vụ của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội càng nặng nề. Để phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ của ngành, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tập trung chỉ đạo Viện Khoa học Lao động và Xã hội huy động lực lượng và đổi mới phương thức tổ chức nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu nên đã đạt được những tiến bộ nhất định và từng bước phát triển đáp ứng yêu cầu của một Viện nghiên cứu đầu ngành. Trong thời kỳ này, Viện đã thực hiện 32 đề tài nghiên cứu khoa học, 14 dự án nghiên cứu và 28 công trình nghiên cứu hợp tác với nước ngoài, nhiều công trình phối hợp nghiên cứu với các Bộ, ngành cơ quan nghiên cứu trong nước, các cơ sở sản xuất kinh doanh. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp các luận cứ khoa học quan trọng phục vụ cho việc xây dựng, hoàn thiện chính sách, luật pháp và triển khai trên nhiều lĩnh vực trọng điểm của ngành.
Nét nổi bật của thời kỳ từ 1997 đến nay là Viện đã tập trung nghiên cứu tham gia vào các dự thảo báo cáo và Nghị quyết TW khóa VIII và IX, dự thảo các báo cáo của Chính phủ, xây dựng các chiến lược và đề án lớn của ngành. Đặc biệt là Viện đã chủ trì xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và tham gia xây dựng Chương trình việc làm quốc gia thời kỳ 1998-2000, cả 2 chương trình này đã được Chính phủ phê chuẩn và triển khai thực hiện. Tiếp đó, Viện được giao chủ trì xây dựng chiến lược Việc làm và chiến lược xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2010, đồng thời tích cực tham gia xây dựng chiến lược xuất khẩu lao động, chiến lược dạy nghề; góp ý vào các chiến lược phát triển nguồn nhân lực và cải thiện đời sống nhân dân, chiến lược phát triển dân số, chiến lược phát triển giáo dục, chiến lược phát triển khoa học và công nghệ…
Năm 1998, Viện chủ trì nghiên cứu xây dựng báo cáo quốc gia của Chính phủ về sang kiến 20/20: “Nghiên cứu dịch vụ xã hội cơ bản của Việt Nam” phục vụ cho Hội nghị quốc tế OSLO II Hà Nội và Hội nghị các nhà tài trợ tổ chức tại Hà Nội tháng 12/1999. Năm 2000, Viện chủ trì nghiên cứu xây dựng báo cáo quốc gia của Chính phủ về kiểm định tình hình thực hiện các cam kết tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới Copenhaghen về phát triển xã hội ở Việt Nam phục vụ cho khóa họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về phát triển xã hội tại Giơnevơ tháng 6 năm 2000.
Viện được giao chủ trì soạn thảo chuyên đề 7 “Kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội” đóng góp vào văn kiện Hội nghị TW 6; nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến ngành đóng góp vào xây dựng văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (chuyên đề 1,2,3); chủ trì soạn thảo báo cáo tình hình thực hiện chính sách lao động trong khu vực kinh tế tư nhân phục vụ cho Nghị quyết TW V (khóa IX), chuyên đề “Những nguyên tắc cơ bản cần nắm vững khi giải quyết vấn đề đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân”; tham gia góp ý dự thảo báo cáo tổng kết công tác tổ chức và cán bộ từ Đại hội VII đến nay, đánh giá khái quát việc thực hiện những chủ trương lớn, những chính sách về lao động - việc làm - xóa đói giảm nghèo theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị TW 4 và 1 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, góp ý vào báo cáo kiểm điểm Nghị quyết TW 2 (khóa VII) về phát triển giáo dục, phát triển khoa học và công nghệ trình Hội nghị TW 6 (khóa IX)…
Nghiên cứu đón đầu và những vấn đề mới phát sinh trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhầp thuộc lĩnh vực Lao động - Thương binh và Xã hội được Viện rất quan tâm, nhất là các vấn đề liên quan đến các giải pháp phát triển thị trường lao động Việt Nam đúng hướng; các quan sát về thị trường lao động; đánh giá tác động của xu thế toàn cầu hóa đến lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001-2005; vấn đề đổi mới kế hoạch hóa lao động, việc làm trong nền kinh tế thị trường, đào tạo nguồn nhân lực theo định hướng cầu lao động trên thị trường lao động; các chính sách khuyến khích đào tạo lao động cho khu vực công nghệ cao và ngành kinh tế mũi nhọn; xu hướng hội nhập lao động Việt Nam với lao động khu vực trong những năm tới; nghiên cứu khả năng cạnh tranh của lao động nữ trong ngành dệt may trong bối cảnh tự do hóa thương mại; vấn đề bình đẳng giới trong công việc; vấn đề lao động trẻ em… Các nghiên cứu này đã từng bước vận dụng kinh nghiệm của quốc tế, các nhận thức mới của thế giới về lĩnh vực lao động và xã hội vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trên con đường hội nhập.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Viện trong 5 năm qua là nghiên cứu các đề tài ứng dụng phục vụ kịp thời cho việc bổ sung, sửa đổi luật pháp, cơ chế chính sách thuộc lĩnh vực Lao động và Xã hội cho phù hợp với thời kỳ đổi mới theo chiều sâu và giải quyết các vấn đề bức xúc trong cuộc sống. Các nghiên cứu này có sự phối hợp chặt chẽ hơn với các vụ chức năng của Bộ và kết quả nghiên cứu của nhiều đề tài đã được các Vụ chức năng tham khảo, sử dụng làm căn cứ xây dựng chính sách như nghiên cứu về tuần làm việc 40 giờ; cơ chế trả lương và quản lý nhà nước về tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước, khu vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; quản lý nhà nước về công tác dạy nghề; những vấn đề xã hội nảy sinh trong tuyển dụng, sử dụng và sa thải lao động ở các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; chính sách lao động trong sắp xếp lại và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; xác định nghề và công việc cần đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ; xác định mức trả công, chế độ bảo hiểm xã hội để thực hiện chế độ khoán đất và sản phẩm trong các nông, lâm trường quốc doanh; các chính sách khuyến khích đào tạo lao động cho khu vực công nghệ cao và ngành kinh tế quốc dân mũi nhọn; chính sách và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn; xác định nội dung, phạm vi, mức độ và cơ chế xã hội hóa các vấn đề xã hội thuộc ngành quản lý; các tiêu chí xác định hộ nghèo, xã nghèo… Đặc biệt, trong chương trình cải cách chính sách tiền lương thời kỳ 2001-2005, Viện được giao nghiên cứu xây dựng 2 đề án về “Tiền lương tối thiểu chung, vùng, ngành” và “Quan hệ tiền lương chung, quan hệ tiền lương giữa các khu vực (hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, sản xuất kinh doanh, bầu cử)”. Nhìn chung, các đề án do Viện xây dựng được đánh giá tốt và có tính khả thi.
Trong 5 năm qua, các dự án nghiên cứu, điều tra cơ bản phục vụ cho dự báo, quy hoạch một số lĩnh vực của ngành, cho hoàn thiện luật pháp, chính sách về lĩnh vực Lao động và Xã hội rất được coi trọng. Đó là các nghiên cứu điều tra “Quy hoạch tổng thể các cơ sở xã hội thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý” (1996-1998); “Nghiên cứu điều tra cơ bản tình hình đời sống – việc làm của người lao động làm việc trong các nghề đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm” (1998-1999); “Điều tra cơ bản tình tình thực hiện luật pháp lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” (1998-2000); “Đánh giá tác động của các chính sách kinh tế xã hội đến mục tiêu di dân, định canh, định cư, ổn định dân biên giới” (2000-2001); “Điều tra đánh giá hiệu lực và mức độ thực hiện luật pháp lao động hiện hành ở Việt Nam” (1999-2000); “Quy hoạch tổng thể mạng lưới các cơ sở dạy nghề trên toàn quốc” (2000-2001); “Điều tra đánh giá thực trạng và vai trò của các doanh nghiệp nhỏ trong tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở thành thị và nông thôn” (1997-1998 và 2002-2004)… Các kết quả nghiên cứu, điều tra cơ bản trên là nhữg cơ sở dữ liệu quý phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô của ngành.
Những năm gần đây, Viện còn tăng cường hợp tác nghiên cứu, hỗ trợ các địa phương và các tổng công ty, cơ sở sản xuất triển khai các chủ trương, luật pháp, chính sách lớn của ngành như quy hoạch ngành Lao động - Thương binh và Xã hội và quy hoạch các cơ sở đào tạo nghề một số tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hải Phòng, Hòa Bình, Hà Giang, Bình Dương, Đồng Nai, Khánh Hòa, Vĩnh Long, Bà Rịa – Vũng Tàu…); xây dựng cơ chế trả lương; xây dựng tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật và chức danh bộ máy quản lý các doanh nghiệp (Tổng công ty xi măng, mía đường, giấy…); rà soát định mức lao động Tổng công ty Điện lực Việt Nam; rà soát điều kiện lao động của các doanh nghiệp đông lạnh xuất khẩu ngành thủy sản, các nông trường cao su thuộc Tổng công ty cao su Việt Nam… Đó là các hợp tác nghiên cứu, hỗ trợ kỹ thuật của Viện rất thiết thực và được đánh giá tốt.
5 năm qua, hợp tác trong nghiên cứu của Viện đạt được những kết quả quan trọng, đã mở rộng được hợp tác nghiên cứu trong và ngoài nước. Đặc biệt, Viện đã thiết lập mối quan hệ chặt chẽ và lâu dài với hầu hết các tổ chức quốc tế đóng tại Việt Nam đang có các hoạt động liên quan đến lĩnh vực lao động và xã hội như WB, UNDP, UNICEF, UNFPA, SIDA Thụy Điển… với những chương trình hợp tác nghiên cứu chung về những vấn đề lao động trong bối cảnh toàn cầu hóa. Viện cũng đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác nghiên cứu với nhiều viện nghiên cứu của các quốc gia khác như Viện Lao động Nhật Bản (JIL), Viện nghiên cứu vì Sự phát triển của Cộng hòa Pháp (IRD), Học viện Lao động và Bảo hiểm xã hội Trung Quốc, Viện FES của Cộng hòa Liên bang Đức,… để trao đổi thông tin và kinh nghiệm, nhiều lượt cán bộ của Viện được đi nghiên cứu, khảo sát, dự hội thảo khoa học ở nước ngoài. Viện cũng đã thiết lập được đội ngũ cộng tác viên nghiên cứu đông đảo, gồm những nhà quản lý, chuyên gia và khoa học đầu ngành thuộc các lĩnh vực có liên quan làm cho tiềm lực nghiên cứu khoa học của Viện ngày càng mạnh hơn.
25 năm qua, mặc dù đội ngũ cán bộ luôn biến động nhưng nhìn chung Viện đã xây dựng được một lực lượng nghiên cứu có khả năng thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ và tham gia nghiên cứu trong các chương trình, dự án khu vực và quốc tế. Một số cán bộ của Viện đã trưởng thành và đang giữ cương vị chủ chốt ở nhiều đơn vị trong Bộ. Nhiều cán bộ đã chủ động học tập nâng cao kiến thức, trình độ ngoại ngữ và tin học để đáp ứng công tác nghiên cứu trong thời kỳ mới. Năm 1978, khi mới thành lập, Viện chỉ có gần 20 cán bộ, nghiên cứu viên được điều động từ các đơn vị trong Bộ, đến cuối năm 2002, Viện đã xây dựng được lực lượng cán bộ, nghiên cứu viên gồm 10 tiến sỹ, 8 thạc sỹ, gần 60 nghiên cứu viên có trình độ đại học, trong đó có 10 nghiên cứu viên đang làm nghiên cứu sinh tiến sỹ và thạc sỹ. Nhiều cán bộ khoa học của Viện còn tham gia đào tạo cán bộ sau đại học, giảng dạy tại các trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Công đoàn, Cao đẳng Lao động - Xã hội; Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội, Đại học dân lập Đông Đô…
Có thể nói rằng, qua 25 năm hoạt động, Viện đã từng bước khẳng định được vai trò là một Viện đầu ngành. Nghiên cứu của Viện đã chuyển dần từ nghiên cứu vi mô sang vĩ mô và ngày càng tập trung nhiều hơn vào các nhiệm vụ chiến lược và dài hạn. Cơ chế hoạt động của Viện ngày càng đổi mới theo hướng phát huy tối đa năng lực của mỗi cán bộ, hợp tác nghiên cứu ngày càng được mở rộng và chất lượng các công trình nghiên cứu từng bước được nâng cao. Một số công trình nghiên cứu của Viện đã góp phần làm phong phú thêm lý luận và nhận thức trong các lĩnh vực của ngành như quan hệ lao động, thị trường lao động, phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội, vấn đề giới… Kết quả các đề tài, đề án nghiên cứu góp phần giải quyết các nhiệm vụ bức xúc, cung cấp được các căn cứ lý luận và cơ sở thực tiễn cho xây dựng các chiến lược, cơ chế, chính sách, luật pháp, các chương trình mục tiêu về lao động và xã hội.
Với kết quả và thành tích đáng ghi nhận trên đây, liên tục trong nhiều năm Viện đã được tặng cờ thi đua xuất sắc và bằng khen của Bộ; năm 1997, nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập, Viện đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba và năm 2003, nhân dịp kỷ niệm 25 năm, Viện được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Hai.
Tuy nhiên, trước yêu cầu mới và ngày càng phát triển của ngành, nghiên cứu khoa học còn bộc lộ một số yếu kém và bất cập. Đặc biệt, do chưa có chiến lược nghiên cứu, nên nghiên cứu của Viện còn bị động, thiếu sự cân đối giữa nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và tổng kết thực tiễn. Còn ít các công trình nghiên cứu đón đầu về các vấn đề lớn của ngành như nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu lao động, phân bố lao động, tiêu chuẩn lao động, quan hệ lao động, an sinh xã hội… Một số công trình nghiên cứu còn thiếu tính thực tiễn, chưa nắm bắt được kịp thời sự thay đổi và đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, còn đi theo lối mòn, thiếu tính sáng tạo, đột phá; các đề xuất trong một số đề tài về chính sách và giải pháp đưa ra chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý của ngành. Tổ chức bộ máy chậm đổi mới, chưa theo kịp nhiệm vụ nghiên cứu, chưa có chiến lược đào tạo cán bộ, do đó cơ cấu cán bộ còn bất cập, thiếu chuyên gia đầu đàn và lực lượng cán bộ kế cận có năng lực; cơ sở vật chất phục vụ cho công tác nghiên cứu còn nghèo nàn.
2.2. CHỨC NĂNG
Viện KHLĐ&XH thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có chức năng nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và chính sách lĩnh vực lao động và xã hội; đào tạo sau đại học các chuyên ngành thuộc lĩnh vực lao động và xã hội.
2.3. NHIỆM VỤ
Nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và chính sách về lĩnh vực lao động và xã hội, bao gồm:
Cơ sở khoa học xây dựng định hướng chiến lược, tầm nhìn về lao động - xã hội; tham gia xây dựng chiến lược, quy hoạch, chương trình mục tiêu lĩnh vực lao động và xã hội;
Thông tin, phân tích, dự báo chiến lược về lao động - xã hội;
Dân số, phát triển nguồn lao động, di dân, dịch chuyển lao động, các giải pháp nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo việc làm và đáp ứng thị trường lao động;
Thị trường lao động và thất nghiệp;
Quan hệ lao động; tiền lương, tiền công, thu nhập; năng suất lao động; bảo hiểm xã hội;
Tiêu chuẩn lao động; môi trường và điều kiện lao động; an toàn - sức khỏe nghề nghiệp;
Lao động nữ; vấn đề giới và xã hội của lao động nữ; lao động đặc thù;
An sinh xã hội (người có công, giảm nghèo, bảo trợ xã hội, tệ nạn xã hội).
Điều tra cơ bản phục vụ nghiên cứu khoa học về lao động và xã hội;
Tổ chức, liên kết đào tạo trình độ sau đai học thuộc chuyên ngành kinh tế lao động (thạc sỹ, tiến sỹ) theo quy định của pháp luật;
Tham gia thẩm định, đánh giá các chương trình, dự án, chính sách, công trình nghiên cứu thuộc Bộ; cung cấp các dịch vụ tư vấn khoa học về lao động - xã hội;
Mở rộng hợp tác với các tổ chức, cơ quan nghiên cứu trong nước và nước ngoài, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ về lao động - xã hội theo quy định của pháp luật, của Bộ;
Quản lý cán bộ, viên chức và nhân viên; tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật và của Bộ.
2.4. TỔ CHỨC BỘ MÁY
Viện KHLĐ&XH có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng; tổ chức bộ máy của Viện gồm:
Phòng Tổ chức - Hành chính;
Phòng Kế hoạch - Đối ngoại;
Phòng Nghiên cứu quan hệ Lao động;
Phòng Nghiên cứu chính sách an sinh xã hội;
Trung tâm Nghiên cứu dân số, lao động, việc làm;
Trung tâm Nghiên cứu lao động nữ và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22411.doc