Trích BHXH, BHYT, KPCĐ (theo chế độ quy định): phải trích nộp 25% theo lương cấp bậc, trong đó:20% BHXH được tính theo lương cấp bậc: trong đó 15% BHXH hạch toán vào giá thành (tức khoản này được người sử dụng lao động nộp,không trừ vào lương), 5%người lao động phải nộp (hàng tháng được khấu trừ ngay khi phát lương). Kinh phí công đoàn 2%: khoản này được tính trên tiền lương thực tế của công nhân sản xuất, được hạch toán vào giá thành. BHYT: 3% tính theo lương cấp bậc trong đó 1% được trừ vào lương 2% được tính vào giá thành sản phẩm. Như vậy 19% được tính vào chi phí trong kỳ, 6% người lao động phải chịu.
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1865 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo thực tập tổng hợp tại Công ty cổ phần công nghiệp thương mại Sông Đà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăm 2006 tăng hơn năm 2005 là15.958.triệu đồng (123%). Lợi nhuận của năm 2006 tăng hơn năm2005 là: 1.323.000.000đ( tương đương với 170%) do chế độ của nhà nước tạo điều kiện cho các công ty cổ phần hoá sau 3 năm mới phải đóng thuế ,công ty được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp nên lợi nhuận trước thuế bằng lợi nhuận sau thuế
Về tổng chi phí năm 2006> tổng chi phí của năm 2005 (84105 tr >69870 tr). Vậy hiệu quả sử dụng năng lực sản xuất của năm 2006 tốt hơn năm 2005 nghĩa là vừa nâng cao hiệu quả sử dụng sản xuất và sử dụng năng lực sản xuất vừa phát triển năng lực sản xuất của mình vừa tăng hiệu quả sản xuất và mở rộng qui mô sản xuất của doanh nghiệp .
Tỷ suất LN/Doanh thu:
Tỷ suất LN /doanh thu = Lợi nhuận sau thuế/Doanh thu thuần
= 73.083.208/27.438.790.458 =0,27%
Tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu:
Tỷ suất LN vốn CSH = Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ SH bquân
= 73.083.208/3.729.412.331 = 1,96 %
Tỷ suất LN/nguồn vốn:
Tỷ suất LN/tổng nguồn vốn KD = Lợi nhuận trớc thuế/Tổng nguồn vốn KD bquân
= 73.083.208/3.656.329.123 = 2 %
CHỈ SỐ
NĂM 2003 (9T)
NĂM 2004
NĂM 2005
Năm 2006
Tỷ suất LN sau thuế/Doanh thu
3,9%
1,7%
2,3%
2.9%
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu
19,5%
12,4%
29,4%
9,1%
Tỷ suất LN sau thuế/tổng tài sản
3,3%
2,2%
4,1%
1,4%
Công tác đời sống và an toàn lao động.
Thu nhập bình quân của CBCNV tăng dần theo các năm đánh dấu kết quả của sự cố gắng phấn đấu không ngừng của tập thể CBCNV Công ty, đặc biệt là giai đoạn sau cổ phần hóa. Dưới đây là các số liệu cụ thể:
Năm 2002: Thu nhập bình quân =732.860 đ/người/tháng.
Năm 2003: Thu nhập bình quân =1.026.244 đ/người/tháng.
Năm 2004: Thu nhập bình quân =1.188.000 đ/người/tháng.
Năm 2005: Thu nhập bình quân =1.582.000 đ/người/tháng.
Năm 2006: Thu nhập bình quân = 1.886.780 đ/người/tháng
Năm 2007: Thu nhập bình quân = 1.921.773 đ/người/tháng
100% người lao động được trang bị đầy đủ bảo hộ lao động, hàng năm thực hiện đầy đủ và hiệu quả công tác huấn luyện an toàn lao động cho cán bộ công nhân viên. Các chế độ chính sách đối với người lao động được quan tâm giải quyết kịp thời đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động. Trong những năm qua không còn ý kiến thắc mắc nào của CBCNV công ty về việc giải quyết các chế độ đối với người lao động. Đầu tư sửa chữa nhà xưởng, cải thiện điều kiện môi trờng làm việc cho công nhân như: trang bị quạt công nghiệp, lắp đặt trên 3000 m2 trần xốp chống nóng cho các khu nhà xởng có công nhân làm việc làm giảm nhiệt độ từ 5 - 8oC trong mùa hè, cải thiện môi trường làm việc ngày càng tốt hơn cho người lao động. Lắp đặt các nhà cầu nối liền các nhà xưởng giúp cho việc luân chuyển bán thành phẩm giữa các bộ phận không bị ách tắc trong điều kiện thời tiết mưa gió.
Tham gia đầy đủ các phong trào, các hội thi do Tổng công ty tổ chức: thi nữ công, thi nấu ăn, các phong trào từ thiện tại địa phương và Tổng công ty tổ chức như: đóng góp các quỹ, ủng hộ tiền xây dựng trường học cho các tỉnh miền núi, tặng quần áo, sách vở cho người nghèo...
Tuy nhiên so với nhiều công ty khác và nhu cầu ngày càng cao của cán bộ công nhân viên chức thì mức thu nhập trên vẫn còn thấp. Vì thế mục tiêu mà công ty đặt ra trong những năm tới là đưa mức thu nhập của cán bộ công nhân viên chức ngày càng cao hơn nữa.
Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý và sản xuất của công ty
Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý
Công ty Cổ phần Công nghiệp Thương mại Sông Đà được tổ chức và hoạt động tuân thủ theo Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2005. Các hoạt động của Công ty tuân thủ Luật doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, các Luật khác có liên quan và Điều lệ Công ty. Do là một công ty cổ phần và là công ty trực thuộc trong Tổng công ty Sông Đà, công ty có tổ chức bộ máy quản lý theo mô hình trực tuyến chức năng, mỗi phòng ban có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng vẫn chịu sự quản lý của cấp trên. Sơ đồ tổ chức bộ máy của công ty như sau:
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN KIỂM SOÁT
BAN GIÁM ĐỐC
PHÒNG TỔNG HỢP
XƯỞNG I
XƯỞNG II
PHÒNG VẬT TƯ – THỊ TRƯỜNG
PHÒNG TÀI CHÍNH KẾ TOÁN
Đại hội đồng cổ đông
Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyền lực có thẩm quyền cao nhất của Công ty gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, họp mỗi năm ít nhất 01 lần. ĐHĐCĐ quyết định những vấn đề được Luật pháp và điều lệ Công ty quy định. Đặc biệt, ĐHĐCĐ sẽ thông qua các báo cáo tài chính hàng năm của Công ty và ngân sách tài chính cho năm tiếp theo, sẽ bầu hoặc bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát của Công ty.
Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý Công ty, có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của Công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị có trách nhiệm giám sát Giám đốc và các cán bộ quản lý khác. Hiện tại Hội đồng quản trị của công ty có 5 thành viên.
Ban kiểm soát
Ban kiểm soát là cơ quan trực thuộc Đại hội đồng cổ đông, do Đại hội đồng cổ đông bầu ra và bãi nhiệm với đa số tính theo số lượng cổ phần bằng thể thức trực tiếp và bỏ phiếu kín. Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm soát mọi mặt hoạt động quản trị và điều hành sản xuất của Công ty. Hiện Ban kiểm soát Công ty gồm 3 thành viên.
Ban Giám đốc
Ban Giám đốc của công ty gồm có Giám đốc điền hành và 02 Phó Giám đốc.
Giám đốc điều hành: là đại diện pháp nhân của công ty trong mọi giao dịch kinh doanh được toàn quyền quyết định trong phạm vi quyền hạn của mình đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và Pháp luật Nhà nước về mọi sự quản lý, điều hành của mình đối với công ty. Chủ tịch HĐQT của công ty là người kiêm Giám đốc
Phó giám đốc: do Hội đồng quản trị bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Giám đốc, là người giúp Giám đốc điều hành công việc hoạt động của công ty theo nhiệm vụ đă được giao.
* Phòng tổng hợp
Là phòng tham mưu giúp giám đốc công ty để thực hiện các phương án sắp xếp cải tiến tổ chức sản xuất, quản lý đào tạo, bồi dưỡng tuyển dụng quản lý, xây dựng kế hoạch, kiểm tra thực hiện kế hoạch, là đầu mối giải quyết công việc văn phòng hành chính giúp Giám đốc công ty điều hành và chỉ đạo nhanh, thống nhất tập trung trong hoạt động SXKD.
* Phòng tài chính kế toán
Phòng tài chính kế toán là phòng chức năng tham mưu giúp Giám đốc công ty tổ chức, chỉ đạo toàn bộ tài chính kế toán.
* Phòng vật tư thị trường
Pḥòng vật tư thị trường công ty là phòng chức năng tham mưu giúp Giám đốc công ty chỉ đạo kiểm tra thực hiện công tác quản lý vật tư trong công ty. Giúp giám đốc công ty trong công tác kinh doanh vật liệu xây dựng và các mặt hàng khác mà pháp luật cho phép, công tác sản xuất và quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của công ty.
* Xưởng
Công ty có 2 xưởng sản xuất và mỗi phân xưởng thực hiện chỉ một số công đoạn nhất định trong quy tŕnh sản xuất sản phẩm.
Xưởng 1 thực hiện công đoạn kéo sợi và công đoạn dệt.
Xưởng 2 thực hiện công đoạn phức, dựng bao và may.
*Mối quan hệ giữa các bộ phận trong hệ thống quản lý doanh nghiệp
Hoạt động tổ chức sản xuất và kinh doanh được chỉ đạo thống nhất từ công ty trực tiếp tới các phòng ban, xưởng sản xuất. Quan hệ chỉ đạo của công ty với các bộ phận theo nguyên tắc trực tuyến: công ty - Các phòng ban, công ty – các phân xưởng sản xuất, công ty trực tiếp và điều hành sản xuất, các xưởng sản xuất do quản đốc trực tiếp quản lý sản xuất.
Các phòng ban có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau: Nhận lệnh điều động sản xuất từ Giám Đốc công ty tới phòng Tổng hợp, phòng tổng hợp soạn thảo công văn : Lệnh điều động sản xuất, giấy giao nhiệm vụ, lập tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm cần làm, giấy yêu cầu giao hàng, trình Giám Đốc công ty duyệt rồi giao cho bộ phận quản lý phân xưởng sản xuất, phân xưởng trực tiếp chỉ đạo kiểm tra thực hiện tới từng bộ phận tổ sản xuất, phòng tổng hợp quản lý về công tác tổ chức nhân sự sắp xếp lao động hợp lý cho từng bộ phận kiểm tra đôn đốc về kỷ luật lao động theo dõi thực hiện các định mức kinh tế, gửi công văn dự trù vật tư, lệnh giao hàng tới phòng vật tư thị trường. Phòng vật tư chỉ đạo tới từng bộ phận trong phòng dự trù cấp vật cho từng tổ sản xuất, nhập hàng khi sản phẩm đã hoàn thành được nhận từ bộ phận kỹ thuật may bao của xưởng II.và lo khâu giao hàng đủ số lượng và chất lượng theo đúng tiến độ mà công ty yêu cầu . phòng vật tư có trách nhiệm dự trù mua vật tư, bảo quản kho vật tư khi vật tư nhập kho cùng phòng tổng hợp kiểm tra chất lượng và số lượng lập biên bản kiểm tra nguyên vật liệu khi số lượng và chất lượng đạt yêu cầu chuyển lên phòng kế toán công ty làm thủ tục nhập kho. Phòng tổng hợp lập các hợp đồng kinh tế chuyển lên ban Giám Đốc duyệt sau đó chuyển tới từng phòng ban trong công ty. Khi được lệnh của Giám Đốc công ty triển khai công việc trực tiếp tới các phòng ban trong công ty, phòng vật tư có trách nhiệm phát triển công tác tiếp thị thị trường, quảng cáo sản phẩm mở rộng thị trường tiêu thụ, kiểm tra theo dõi các nhà cung ứng đã nhập hàng theo hợp đồng và báo cho phòng tổng hợp khi đã hoàn tất theo hợp đồng. Các phòng ban trong công ty đều có liên quan tới nhau, xưỏng chỉ đạo trực tiếp sản xuất thống kê toàn bộ sản phẩm từng tổ, nhóm, cá nhân trong tuần, trong tháng chuyển về phòng kế toán để tính lương cho từng bộ phận. Từng tổ sản xuất viết yêu cầu cấp vật tư chuyển cho. Quản đốc phân xưởng ký duyệt chuyển lên phòng vật tư duyệt viết phiếu xuất kho. Khi cấp bảo hộ lao động tổ trưởng viết yêu cầu cấp bảo hộ lao động quản đốc phân xưởng ký duyệt chuyển phòng tổng hợp duyệt cấp, phòng vật tư viết phiếu xuất và xuống bộ phận kho cấp, Phòng tổng hợp chuyển bậc lương, mức đóng bảo hiểm xã hội về phòng kế toán, phòng vật tư chuyển toàn bộ phiếu xuất vật tư về phòng kế toán, phòng kế toán tập hợp phiếu nhập vật tư, phiếu xuất bán ngoài, phiếu thu, phiếu chi, bảng lương chuyển Giám đốc công ty duyệt. Toàn bộ giấy tờ từ các phòng ban trong công ty chuyển tới phòng kế toán công ty để vào hạch toán và phòng kế toán có trách nhiệm kiểm tra toàn bộ tính hợp pháp hợp lý của chứng từ. Viết phiếu xuất bán ngoài, phiếu nhập gửi xuống phòng vật tư để vào thẻ kho vật tư. Và hàng tháng, quý, kiểm kê 6 tháng, một năm, đối chiếu cùng thủ kho theo lũy kế nhập-xuất-tồn Phòng tổng hợp lên kế hoạch bảo dưỡng định kỳ hàng tháng, hàng quý, máy móc thiết bị gửi tới văn phòng xưởng chỉ đạo trực tiếp tới tổ cơ điện. Các phòng ban trong công ty có những công việc cần giải quyết trực tiếp gặp Giám đốc công ty xin lệnh điều động công việc. Giám đốc công ty trực tiếp hàng ngày giao nhiệm vụ tới từng bộ phận phòng ban, phân xưởng và ngược lại các phòng ban, phân xưởng có công việc cần thiết lên trình giám đốc duyệt và tìm phương hướng chỉ đạo sản xuất.
1.2.2. Đặc điểm về tổ chức sản xuất
Công ty sản xuất dưới loại hình phân xưởng, có 2 xưởng sản xuất và mỗi phân xưởng thực hiện chỉ một số công đoạn nhất định trong quy trình sản xuất sản phẩm. Xưởng 1 thực hiện công đoạn kéo sợi và công đoạn dệt. Xưởng 2 thực hiện công đoạn phức, dựng bao và may.
Công ty đã chú trọng đầu tư trang bị dây chuyền máy móc thiết bị đồng bộ, tiên tiến trên thế giới, có xuất xứ đài Loan, ấn Độ, Trung Quốc...là các nước có thế mạnh trong việc chế tạo các thiết bị công nghệ sản xuất bao bì trên thế giới. Các máy móc thiết bị chính của công ty đều là các máy móc hiện đại so với các doanh nghiệp trong nước sản xuất cùng ngành hàng bao bì đang sử dụng. Sử dụng công nghệ mới này cho phép tăng năng suất, chất lượng, tiết kiệm vật tư nhiên liệu. Chất lượng sản phẩm của công ty hiện được khách hàng đánh giá cao, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.
Các sản phẩm của công ty được sản xuất trên dây chuyền công nghệ mới, tiên tiến và đồng bộ chủ yếu do Đài Loan sản xuất gồm: 02 dây chuyền máy kéo sợi, 01 máy phức hợp, 01 dây chuyền máy dựng bao, 32 máy dệt vải PP, 04 dây chuyền máy may CN. Hiện nay công ty tiếp tục thực hiện các dự án đầu tư nâng cao năng lực sản xuất bằng công nghệ máy móc của Đài Loan, ấn Độ do tính ưu việt của công nghệ mới này nhằm thực hiện dự án nâng cao năng lực sản xuất thêm 15-20 triệu vỏ bao/năm với giá trị đầu tư dự kiến khoảng hơn 21 tỷ đồng thực hiện năm 2007 sẽ đưa vào vận hành đầu 2008.
Trong công ty cổ phần công nghiệp thương mại sông đà sản phẩm chính của công ty là sản xuất ra vỏ bao xi măng. dây truyền làm hoàn thành ra sản phẩm ở công ty là dây truyền làm ra sản phẩm vỏ bao xi măng trải qua 05 công đoạn sản xuất sau:
Nhiệm vụ từng công đoạn:
Quy trình sản xuất công nghệ đơn giản nhưng có mối quan hệ móc xích liên tục qua các công đoạn nhất định. Quy trình này được khái quát qua 5 công đoạn như sau:
CÔNG ĐOẠN KÉO SỢI
CÔNG ĐOẠN DỆT VẢI
CÔNG ĐOẠN DỰNG BAO
CÔNG ĐOẠN PHỨC
CÔNG ĐOẠN MAY
Nhựa kéo sợi
Nhựa Taical
Nhựa tái sinh
Nhựa Bicoat
Nhựa sủi
Sợi
Vải
Bao Phôi
Manh
VỎ BAO
Nhựa các loại
Giấy
Nhựa các loại
Giấy
Mực
Chỉ may
Giấy nẹp
Công đoạn 1: Kéo sợi
Quy trình sản xuất sợi là quá trình sử dụng thiết bị chuyên dùng nấu chảy hạt nhựa, kéo thành mảng mỏng, chẻ thành sợi gia công cho sợi nhựa có tiêu chuẩn kỹ thuật theo yêu cầu. Nguyên liệu được trộn theo chỉ tiêu kỹ thuật và đưa vào máy, nhựa được đẩy ra miệng khuôn tạo thành một màng nhựa chảy dẻo, màng nhựa được bể nước làm nguội và định hình, sau đó được hệ thống lô ép kéo căng và trục dao chẻ thành các sợi nhỏ. Sợi sau khi chẻ được kéo dăn qua bàn nhiệt để có sợi theo tiêu chuẩn và được cuộn lại thành từng ống sợi để chuyển sang công đoạn dệt bao.
Công đoạn 2: Dệt vải PP
Dệt vải PP là quá trình sử dụng sợi nhựa PP đan sợi ngang bằng thoi vào giàn sợi dọc theo một quy trình được thiết kế trên máy dệt để dệt thành vải PP dạng ống tṛơn hoặc manh vải phẳng.
Công đoạn 3: Phức
Phức hợp là việc ép dán giữa hai lớp nguyên vật liệu bằng 1 lớp liên kết để cho ra một sản phẩm mới
Công đoạn 4: Dựng bao
Dựng bao là quá trình dùng manh phức KP định dạng hình dáng của bao theo yêu cầu kỹ thuật, theo mẫu mã của khách hàng, lồng lớp giấy Krap làm ruột vào trong gấp cạnh dán và chặt thành các ống bao có kích thước theo quy định. Vải KP được chuyển sang bộ phận in, và được in mẫu mă theo yêu cầu của từng khách hàng rồi lắp các cuộn giấy vào trục máy, lồng giấy vào trong lòng manh KP, đục lỗ thoát khí đối với loại bao khách hàng yêu cầu, định hình bao, dán các mép bao và cắt bao.
Công đoạn 5: May
May bao là bước gấp tạo van nẹp và may hai đầu ống bao tạo thành vỏ bao hoàn chỉnh. Các ống bao trước khi may được gấp tạo van để nạp xi măng. Các van này sau khi đóng đầy xi măng sẽ tự động đóng kín. Sau khi được tạo van sẽ được chuyển lên để may hai đầu có nẹp bao bắng 1 đến 2 lớp nẹp tuỳ theo yêu cầu.
Trang thiết bị được sử dụng trong công ty như sau:
STT
Loại trang thiết bị
ĐVT
Số lượng
Năm sx
Nước sx
1
Máy kéo sợi
Dàn
02
2005
Đài loan
2
Máy dệt 06 thoi
Dàn
15
2004
Đài loan
3
Máy dệt 4 thoi
Dàn
18
1998
Trung quốc
4
Máy dệt 06 thoi
Dàn
06
2007
Ân độ
5
Máy Fức
Dàn
02
2002
Trung quốc
6
Máy dựng bao
Dàn
01
2004
Đài loan
7
Máy may CN
Dàn
04
2005
Nhật bản
Đặc điểm bố trí mặt bằng nhà xưởng: mặt bằng nhà xưởng rộng rãi, thoáng mát, diện tích nhà làm việc của khối văn phòng là dãy nhà 3 tầng, xưởng sản xuất được bố trí trên một mặt bằng rộng với diện tích: 4.500m2 gồm 5 dãy nhà xưởng, và 3 nhà cầu với diện tích 1. 340m2 rất thuận tiện cho việc sản xuất một dây truyền sản xuất khép kín. Nhà xưởng được bố trí xung quanh là quạt thông gió và điện ánh sáng đầy đủ
Loại hình sản xuất của doanh nghiệp: là loại hình sản xuất hàng loạt với số lượng lớn, làm theo đơn đặt hàng, chu kỳ sản xuất tùy theo số lô, mà khách hàng yêu cầu. Công ty ký hợp đồng theo chu kỳ là từng năm với các bạn hàng lớn như công ty xi măng Hoàng thạch, công ty xi măng Hoàng Mai, công ty xi măng Chin fon, công ty xi măng Thanh Ba…theo năm và được lấy theo từng tháng với số lượng đã được ấn định trước để công ty lập kế hoạch sản xuất và giao hàng theo đúng tiến. Chu kỳ sản xuất cũng có lúc làm theo thời vụ (ví dụ: mùa mưa thì nhu cầu cần vỏ bao xi măng giảm, còn mùa khô nhu cầu xây dựng cần nhiều và gấp thì công ty lại đẩy nhanh tiến độ sản xuất để đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng nên công ty luôn trú trọng đổi mới công nghệ sản xuất, máy móc thiêt bị phù hợp với tiến độ cũng như chất lượng sản phẩm thoả mãn mọi yêu cầu của khách hàng)
Đặc điểm tổ chức công tác kế toán
Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán
Công ty có một phòng kế toán tài chính riêng nằm ở tầng hai của dãy nhà hành chính. Hiện nay công ty đang tổ chức bộ máy kế toán theo hình thức tập trung. Toàn bộ công việc kế toán từ việc lập chứng từ, ghi sổ chi tiết đến tổng hợp số liệu, lập báo cáo tài chính... đều được thực hiện tại phòng kế toán tài chính của công ty. Ở mỗi phân xưởng đều có bộ phận thống kê làm nhiệm vụ ghi chép những thông tin kinh tế ban đầu về nguyên vật liệu, sản phẩm, tiền lương...sau đó định kỳ bộ phận này sẽ lập báo cáo theo từng chỉ tiêu để gửi về phòng kế toán tài chính để các nhân viên kế toán xử lý số liệu và lập các sổ sách, báo cáo cần thiết. Phòng kế toán có 5 người trong đó có 1 kế toán trưởng kiêm kế toán tổng hợp, 1 thủ quỹ và 3 kế toán còn lại thực hiện các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong công ty. Sơ đồ bộ máy kế toán của công ty như sau:
Kế toán trưởng
Kế toán tiền lương
Kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành
Kế toán vật tư và tài sản cố định
Thủ quỹ
Kế toán trưởng: điều hành bộ máy kế toán, thực thi theo đúng chế độ đồng thời là người đề xuất với các giám đốc về các chính sách tài chính, các quy định kế toán riêng cho công ty, các chiến lược kinh doanh... nhưng cũng phải chịu trách nhiệm trước Ban giám đốc công ty, trước pháp luật, các bên có liên quan đến số liệu mà kế toán cung cấp như công ty kiểm toán, nhà đầu tư, khách hàng, nhà cung cấp...
Kế toán vật tư và tài sản cố định: hàng ngày giám sát tình hình nhập-xuất-tồn vật tư và ký xác nhận về số lượng, chủng loại vật tư thực nhập, thực xuất, đối chiếu phiếu xuất kho cho từng phân xưởng với bảng định mức vật tư cấp, phát hiện và đề xuất biện pháp xử lý với lãnh đạo những trường hợp vật tư nhập kho không đảm bảo chất lượngj Đồng thời kiêm luôn kế toán tài sản cố định: có nhiệm vụ theo dõi tình hình biến động của tài sản cố định hàng tháng và tiến hành trích khấu hao tài sản cố định, phân bổ cho từng đối tượng có liên quan và ghi sổ kế toán
Kế toán tiền lương: có nhiệm vụ tính tiền lương và các khoản trích theo lương (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn), phụ cấp, tiền thưởng cho từng người ở từng bộ phận, phòng ban sau đó lập bảng tổng hợp tiền lương từng phân xưởng và toan bộ công ty
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm: có nhiệm vụ hàng tháng tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất, tính giá thành thực tế cho sản phẩm hoàn thành
Thủ quỹ: hàng ngày căn cứ vào phiếu thu, phiếu chi, kế toán thực hiện việc thu, chi đối với khách hàng và cuối ngày kế toán sẽ vào sổ thu chi tồn quỹ
Các phần hành kế toán không chỉ có mối liên hệ mật thiết với nhau mà còn có sự quan hệ mật thiết với các phòng ban khác trong công ty thông qua việc cung cấp số liệu. Tuy rằng phòng kế toán tài chính được phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng kế toán viên, tuy nhiên thực tế mọi người đều có thể làm tất cả các phần hành và nó không nhất thiết như sự phân công đó.
1.3.2.Đặc điểm tổ chức hình thức sổ kế toán
Bắt đầu niên độ kế toán, kế toán sẽ mở một bộ sổ mới và cuối niên độ thì thực hiện khóa sổ sau khi đã cộng sổ, tính số phát sinh và số dư cuối kỳ. Niên độ kế toán tại công ty bắt đầu từ ngày 01/12 và kết thúc vào ngày 31/12 hàng năm.
Công ty cổ phần công nghiệp thương mại Sông Đà là một công ty cổ phần có quy mô vừa. Để thuận tiện cho việc ghi chép, hệ thống hóa số liệu, hiện nay công ty đang sử dụng hình thức sổ kế toán là “Nhật ký chung” tức là: tất cả các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh đều phải được ghi vào sổ nhật ký, mà trọng tâm là sổ nhật ký chung theo trình tự thời gian phát sinh và định khoản kế toán của nghiệp vụ đó, sau đó lấy số liệu trên các sổ Nhật ký để ghi sổ cái theo từng nghiệp vụ phát sinh. Đồng thời sử dụng phần mềm kế toán SAP của trung tâm UNESCO Phát triển công nghệ thông tin để hỗ trợ quá trình ghi chép, lập sổ sách. Công ty hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên. Trình tự ghi sổ theo hình thức “Nhật ký chung” kết hợp với phần mềm kế toán như sau:
Sơ đồ luân chuyển chứng từ
Các bút toán điều chỉnh kết chuyển
Chứng từ gốc
Sổ nhật ký chung Sổ chi tiết
tài khoản
Sổ cái tài khoản Chứng từ gốc
Bảng cân đối thử
Báo cáo kế toán
Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng, hoặc định kỳ
Quan hệ đối chiếu
Hàng ngày căn cứ vào các chứng từ được dùng làm căn cứ ghi sổ, trước hết ghi nghiệp vụ phát sinh vào sổ nhật ký chung, sau đó tự phần mềm kế toán sẽ ghi vào sổ cái theo các tài khoản kế toán phù hợp, rồi ghi vào các sổ chi tiết có liên quan. Sau khi đã kiểm tra đối chiếu khớp đúng, số liệu ghi trên sổ cái và bảng tổng hợp chi tiết được dùng để lập các Báo cáo tài chính. Về nguyên tắc tổng số phát sinh Nợ và tổng số phát sinh Có trên bảng cân số phát sinh phải bằng tổng số phát sinh Nợ và tổng số phát sinh Có trên sổ Nhật ký chung cùng kỳ. Công ty không lập nhật ký đặc biệt.
Một số đặc điểm kinh tế tài chính khác
Phần 2: Đặc điểm một số phần hành kế toán
2.1. Đặc điểm các phần hành kế toán riêng
2.1.1. Kế toán về tiền
a) Đặc điểm
Kế toán về tiền theo dõi tình hình thu, chi, tồn quỹ của các loại tiền mặt, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý… và các khoản tạm ứng, thanh toán tạm ứng của đơn vị nhằm cung cấp những thông tin cần thiết cho kế toán và quản lý đơn vị trong lĩnh vực tiền tệ. Nhờ đó mà các nhà quản lý nắm bắt được tình hình tài chính của mình, từ đó ra các quyết định đầu tư phù hợp đồng thời có biện pháp để điều chỉnh và ồn định luồng tiền trong công ty nhằm luôn đảm bảo khả năng thanh toán
Việc thanh toán cho công nhân viên trong doanh nghiệp chủ yếu bằng tiền mặt. Vì là công ty cổ phần, giao dịch thường xuyên trên sàn chứng khoán và có khách hàng, nhà cung cấp ở khắp trong và ngoài nước nên việc sử dụng tài khoản ở ngân hàng để thanh toán là rất phổ biến. Ngân hàng chính mà công ty thường giao dịch và gửi tiền là ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh Hà Tây, ngoài ra công ty còn giao dịch với rất nhiều các ngân hàng khách như: ngân hàng công thương chi nhánh Hà Tây, ngân hàng ACB, ngân hàng Incombank… Địa bàn của công ty tuy hơi xa trung tâm thành phố nhưng công ty không sử dụng tài khoản 113- tiền đang chuyển, đây chính là một hạn chế của kế toán tiền
b) Chứng từ sử dụng
Để phục vụ cho hạch toán, kế toán tiền sử dụng các chứng từ sau:
phiếu thu, phiếu chi, giấy đề nghị tạm ứng, giấy thanh toán tiền tạm ứng, biên lai thu tiền, bảng kê ngoại tệ, vàng bạc, đá quý; bảng kiểm kê quỹ; báo cáo số dư tiền gửi ngân hàng
Quy trình hoạt động của phần hành kế toán tiền: khi khách hàng thanh toán cho công ty hoặc khi công ty thu được một khoản tiền nào đó về quỹ thì đồng thời kế toán phải tiến hành lập phiếu thu. Ngược lại khi công ty phải bỏ tiền ra để thanh toán cho nhà cung cấp, trả tiền lương cho cán bộ công nhân viên hay chi mua các vật dụng cần thiết…. thì kế toán phải ghi phiếu chi. Nếu bỏ tiền ra tạm ứng trước thì ghi vào phiếu chi tạm ứng. Sau đó kế toán sẽ phải hạch toán vào Nợ- Có của tài khoản thích hợp.
Quy trình hoạt động của phần hành kế toán tiền Hóa đơn bán hàng, bảng thanh toán cho nhà cung cấp, công nhân viên
Phiếu thu, phiếu chi, giấy báo có-nợ,giấy thanh toán tạm ứng
Tài khoản 111,112,141
2.1.2. Kế toán tiền lương
a) Đặc điểm
Kế toán tiền lương theo dõi tình hình sử dụng thời gian lao động và các khoản thanh toán cho người lao động như: tiền lương, các khoản phụ cấp, trợ cấp, bảo hiểm xã hội và tiền thưởng theo thời gian và hiệu quả lao động. Đồng thời cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc hạch toán chi phí sản xuất cụ thể như chi phí nhân công trực tiếp, tính giá thành sản phẩm, hạch toán thu nhập và một số nội dung khác có liên quan. Vì tiền công là khoản mục chi phí chiếm tỷ trọng tương đối trong giá thành sản phẩm ( 10 - 12 % ) nên kế toán tiền lương có vai trò rất quan trọng. Do đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ và trình độ quản lý xí nghiệp đã áp dụng 2 hình thức trả lương sau:
Hình thức trả lương theo thời gian ( xí nghiệp chỉ áp dụng hình thức này để tính lương cho bộ phận gián tiếp, phục vụ, sửa chữa...): là hình thức căn cứ vào giờ công lao động, lương cấp bậc, đơn giá tiền lương cho một ngày công hay tùy theo ca làm việc. Kế toán tính ra số tiền lương phải trả cho công nhân viên như sau:
Lương thời gian = Số giờ công x đơn giá lương
Hình thức trả lương theo sản phẩm: Đây là hình thức chủ yếu mà công ty áp dụng, đa số công nhân trực tiếp sản xuất tại Xí nghiệp làm theo hợp đồng đã ký. Xí nghiệp chỉ trả lương cho công nhân sản xuất ra bán thành phẩm, hoặc thành phẩm đủ tiêu chuẩn kỹ thuật qui định không kể đến sản phẩm làm dở. Theo hình thức này kế toán căn cứ vào phiếu xác nhận sản phẩm hoàn thành (bán t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26328.doc