Trong hoạt động tìm kiếm và mở rộng thị trường của mình, Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà và Tổng Công ty chè Việt Nam luôn đặc biệt chú trọng tới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Mặt hàng xuất khẩu là một trong những yếu tố cơ bản nhưng lại hết sức quan trọng và cần thiết để hoạt động xuất khẩu diễn ra một cách thường xuyên liên tục và có hiệu quả. Hiểu được tầm quan trọng đó của yếu tố mặt hàng xuất khẩu, bên cạnh việc không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm chè, Công ty và Tổng Công ty đã rất coi trọng việc đa dạng hóa sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của từng thị trường và từng khu vực. Qua đó, có thể duy trì và phát triển các thị trường đã có và có thể mở rộng thêm thị trường mới.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tâp tổng hợp tại Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà – Tổng Công ty chè Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, đóng gói các loại sản phẩm chè…) của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà.
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - KỸ THUẬT CHỦ YẾU CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI VÀ DU LỊCH HỒNG TRÀ.
1. Đặc điểm về sản phẩm chè của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà.
Sản phẩm chè của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà nói riêng và Tổng Công ty chè Việt Nam nói chung rất đa dạng về chủng loại (chè đen: OTD, CTC, chè xanh Pouchung, Oolong, gunpowder, kiểu truyền thống Việt Nam, kiểu xanh dẹt Nhật Bản...).
Chất lượng các loại sản phẩm chè của Tổng Công ty chè Việt Nam luôn đạt tiêu chuẩn của Nhà nước Việt Nam (TCVN) và tiêu chuẩn quốc tế.
Chè đen: Chiếm phần trăm lớn nhất trên thị trường buôn bán chè thế giới, theo quy trình công nghệ OTD: Chè nguyên liệu tươi → làm héo → vò → lên men → sấy khô → sàng phân loại. Nước chè đen có màu nâu đỏ tươi, vị dịu, hương thơm nhẹ.
Sau khi sàng sẩy, chúng được phân loại (trong quá trình tinh chế) thành nhiều loại như: OP, P, BOP, BP, FBOP, PS, F, D chất lượng từ cao đến thấp theo kích thước của cánh chè.
Chè đen mảnh: Búp chè tươi sau khi héo được đưa vào thiết bị vò và nghiền sau đó đưa ra máy cắt → lên men → sấy, gọi là chè đen CTC.
Chè xanh (xưa gọi là chè lục): Được sản xuất theo quy trình: Chè nguyên liệu tươi → diệt men → làm nguội → vò → sấy khô → sàng phân loại thành phẩm. Chè xanh có nước xanh vàng, tươi sáng, vị chát mạnh, có hậu, hương thơm nồng mùi cốm. Diệt men bằng cách sao trên chảo gang hoặc máy diệt men có nhiệt độ 230 đến 250oC (chè sao), hấp hơi nước nóng hay hơi nước nóng (chè hấp), hay nhúng nhanh vào nước sôi (chè chần). Sấy khô bằng hơi nóng, sao chảo (sao suốt), sấy than hoa, sấy lửa củi (chè lửa), hay phơi nắng kết hợp sấy than (chè nắng) các loại sản phẩm này có chất lượng rất khác nhau.
Chè hương: Dùng các hương liệu khô, như hoa ngâu khô, hoa cúc khô, hạt mùi, tiểu hồi, đại hồi, cam thảo, quế… pha trộn với các tỷ lệ khác nhau để tạo cho sản phẩm chè có các hương vị đặc trưng. Theo công nghệ: chuẩn bị hương liệu → sao chè → cho hương liệu và sao → ướp hương trong thùng. Các loại sản phẩm chè ướp hương của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà được đóng gói từ 8 gr/gói đến 500 gr/gói hoặc trong hộp Carton duplex.
Chè hoa tươi: Được Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà sản xuất kết hợp với các loại hoa: sen, nhài, ngọc lan,sói, ngâu, bưởi quế,… dựa trên cơ sở công nghệ chung như sau: Chuẩn bị chè và hoa tươi → ướp hương (trộn chè và hoa) → thông hoa → sàng hoa → sấy khô → để nguội → để hoa → sàng hoa → chè hoa tươi thành phẩm.
Chè hoà tan: Được sản xuất theo công nghệ: Chè nguyên liệu đã chế biến → chiết suất → cô đặc → sấy phun sương; nguyên liệu là chè xanh hoặc chè đen vụn già, thứ phẩm. Chè hoà tan có dạng bột tơi xốp, rất mịn, gồm những hạt nhỏ, màu vàng nhạt (chè xanh), nâu nhạt (chè đen). Hàm lượng tanin, catesin, axit amin, cafeine rất cao, gấp nhiều lần so với chè nguyên liệu. Chè hòa tan có màu nước và vị chè đạt yêu cầu, nhưng hương nhạt, vì bay hết trong quá trình chiết xuất, cô đặc và sấy.
Chè túi (tea bag): Tỷ lệ chè mảnh, chè vụn có nhiều trong công nghệ chè CTC và OTD; để tiết kiệm và thu hồi chè tốt, đã có công nghệ làm túi giấy đặc biệt để đựng các loại chè đó. Túi chè có sợi dây buộc nhãn hiệu của hãng sản xuất, khi pha chỉ cần nhúng túi vào cốc hoặc chén nước sôi, túi bã chè vớt lên dễ dàng, không cần ấm pha trà mà lại sạch.
Chè dược thảo: Gồm chè đen trộn với một dược liệu như cỏ ngọt, vừa có vị chè lại có giá trị chữa bệnh.
Ngoài ra, Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà còn có các mặt hàng nông sản thực phẩm khác như: Café, hạt tiêu, hoa hòe…
2. Đặc điểm về công nghệ và thiết bị của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà.
Là thành viên của Tổng Công ty chè Việt Nam, nên Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà được hưởng nhiều thành tựu kỹ thuật và công nghệ thuộc quyền sử dụng và sở hữu của Tổng Công ty.
Tổng Công ty chè Việt Nam trong thời gian qua đã đầu tư mạnh mẽ vào việc áp dụng và sử dụng các công nghệ và thiết bị chế biến, tinh chế chè. Kết quả là Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà đã có ba nhà máy chế biến và tinh chế sản phẩm chè với thiết bị và công nghệ hiện đại, tiên tiến nhập khẩu từ Nhật Bản, Đài Loan, Ấn Độ, Italia...
Công ty luôn coi trọng và đặt mục tiêu hàng đầu của công tác chế biến chè là: An toàn thực phẩm và vệ sinh công nghiệp gắn với chất lượng sản phẩm cao, chất lượng sản phẩm mà khách hàng ưa thích.
Công ty có đội ngũ công nhân lành nghề và cán bộ kỹ thuật có tay nghề cao luôn kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm từng công đoạn trong quá trình sản xuất ở từng nhà máy và công xưởng. Việc áp dụng các chương trình quản lý chất lượng theo ISO đang được phổ cập tại Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà, đến từng công nhân, nhân viên, cán bộ của Công ty.
Tổng Công ty chè Việt Nam là doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh chè duy nhất ở Việt Nam có Phòng Kiểm nghiệm chất lượng chè độc lập thuộc hệ thống đo lường chất lượng của Nhà nước Việt Nam, đây là ưu thế không nhỏ của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà trong việc kiểm tra chất lượng sản phẩm chè phục vụ cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Tổng Công ty chè Việt Nam đang dần từng bước thiết lập hệ thống quản lý an toàn thực phẩm HACCP từ khâu trồng trọt, chăm sóc cây chè đến tận đóng gói và phân phối cho khách hàng. Tổng Công ty chè Việt Nam luôn quan tâm và chú trọng đến sức khoẻ của các Người sản suất và Người tiêu dùng chè, coi đó là lương tâm, là tiêu chuẩn nghề nghiệp của nhân viên Tổng Công ty chè Việt Nam.
Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà là một trong số Công ty thành viên của Tổng Công ty chè Việt Nam là doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh chè có Trung tâm tinh chế chè với các thiết bị tinh xảo và hiện đại, có hệ thống kho hiện đại bảo quản chè khô tại Cổ Loa - Đông Anh - Hà Nội đảm bảo tiêu chuẩn thực phẩm và rất thuận tiện cho việc giao nhận chè bằng container các loại.
Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà là một trong số đơn vị đầu tiên ở Việt Nam trang bị máy đóng chè túi nhúng (tea bag) với dây chuyền thiết bị đồng bộ được nhập khẩu từ Italia.
Trong những năm gần đây Tổng Công ty chè Việt Nam đã tập trung nghiên cứu, thiết kế rất phong phú về mẫu mã bao gói phù hợp với từng đối tượng khách hàng với thiết kế hết sức chuyên nghiệp. Sản phẩm chè bao gói dạng thành phẩm ngoài việc cung cấp cho thị trường trong nước cũng đã được Công ty xuất khẩu ra các nước trên thế giới với sản lượng hàng ngàn tấn/năm.
3. Đặc điểm nguyên liệu của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà.
Việc Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà là thành viên của Tổng Công ty chè Việt Nam, nên nguồn nguyên liệu của Công ty nằm trong vùng nguyên liệu của Tổng Công ty. Với đội ngũ các nhà nghiên cứu, thực nghiệm hàng đầu Việt Nam, kết hợp với nhiều viện nghiên cứu cây trồng nổi tiếng trên thế giới, Tổng Công ty chè Việt Nam đã xây dựng được tập đoàn quỹ Gen với hơn 100 giống chè các loại, tuyển chọn - lai tạo được 8 giống chè tốt phù hợp với các công nghệ chế biến và theo kịp đòi hỏi khắt khe về chất lượng sản phẩm của thị trường trong và ngoài nước.
Tổng Công ty chè Việt Nam đã hoàn toàn chủ động về giống và nguyên liệu chè búp tươi để sản xuất riêng rẽ các mặt hàng chè đen, chè xanh Pouchung, Oolong, chè xanh kiểu Nhật Bản, chè xanh Gunpowder...
Tổng Công ty chè Việt Nam với hàng ngàn hecta chè được áp dụng các quy trình canh tác hiện đại, từng bước được cơ giới hoá, việc chăm sóc các vườn chè luôn luôn được chú trọng đến an toàn thực phẩm, các vườn chè tập trung của Tổng Công ty đến nay đã có năng suất bình quân gần 15 tấn chè búp tươi/hecta.
Tổng Công ty chè Việt Nam tổ chức khai thác các nguồn nguyên liệu của tự nhiên để sản xuất phân bón hữu cơ, phân hữu cơ vi sinh chuyên dùng cho cây chè phù hợp với từng điều kiện thổ nhưỡng, nông hoá và bảo vệ nguồn lợi lâu dài của đất đai.
4. Đặc điểm về vốn và nguồn vốn của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà.
Vốn cố định: 5 000 000 000 VNĐ là vốn đầu tư của Tổng Công ty chè Việt Nam.
Vốn lưu động: 20 000 000 000 VNĐ trong đó chủ yếu là vốn vay ngân hàng và phụ thuộc vào kế hoạch sản xuất của từng năm.
Nhìn chung, nguồn vốn tự có của Công ty không thể đáp ứng được hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, mà tùy vào kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty trong từng giai đoạn khác nhau mà Công ty có kế hoạch huy động vốn cho phù hợp. Công ty thường huy động vốn chủ yếu từ nguồn vốn vay từ Ngân hàng.
PHẦN II
PHÂN TÍCH CÁC MẶT HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHỦ YẾU CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI VÀ
DU LỊCH HỒNG TRÀ.
I. LĨNH VỰC KINH DOANH VÀ THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI VÀ DU LỊCH HỒNG TRÀ.
1. Lĩnh vực kinh doanh của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà.
Kể từ khi thành lập đến nay, Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà luôn luôn hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực sau:
- Thu mua các loại chè nguyên liệu phục vụ cho yêu cầu sản xuất của Công ty và thực hiện chế biến các loại sản phẩm chè chủ yếu tại hai vùng chè là Hòa Bình và Thái Nguyên.
- Dịch vụ kỹ thuật đầu tư, phát triển vùng nguyên liệu và công nghiệp chế biến chè.
- Bán buôn, bán lẻ, bán đại lý các sản phẩm chè và các sản phẩm khác của ngành nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm…, hàng hóa phục vụ cho sản xuất và đời sống.
- Xuất nhập khẩu:
+ Xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm chè và các mặt hàng nông lâm sản, hàng thủ công mỹ nghệ.
+ Nhập khẩu trực tiếp nguyên vật liệu, vật tư, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải và hàng tiêu dùng.
- Dịch vụ du lịch, khách sạn và nhà hàng.
- Sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ trong các ngành nghề khác theo quy định của pháp luật Nhà nước Việt Nam. Đồng thời, hoạt động của Công ty luôn đặt dưới sự giám sát của Tổng Công ty chè Việt Nam.
2. Thị trường tiêu thụ của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà.
Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà có quan hệ buôn bán với hơn 20 nước trên thế giới. Xuất phát từ nhận thức thị trường tiêu thụ có ý nghĩa quyết định đối với sự ổn định và phát triển đối với hoạt động sản xuất của Công ty. Vì vậy, công tác khai thác, tìm kiếm và mở rộng thị trường luôn được lãnh đạo Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà cũng như lãnh đạo Tổng Công ty chè Việt Nam đặc biệt quan tâm. Kể từ khi Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà ra đời thì thị trường truyền thống của ngành chè nói chung và của Tổng Công ty chè Việt Nam nói riêng là Liên Xô và các nước Đông Âu mất đi, làm cho thị trường xuất khẩu của Tổng Công ty giảm khoảng 64,35%. Tuy vậy, kể từ khi thành lập, cùng với Tổng Công ty chè Việt Nam, Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà đã tìm kiếm và đưa ra nhiều giải pháp thị trường để đưa Tổng Công ty chè Việt Nam thoát ra khỏi tình trạng khó khăn và giúp Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà từng bước ổn định và phát triển, nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm, đồng thời cố gắng khôi phục thị trường Nga và Đông Âu, tích cực khai thác và mở rộng thị trường mới.
Trong hoạt động tìm kiếm và mở rộng thị trường của mình, Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà và Tổng Công ty chè Việt Nam luôn đặc biệt chú trọng tới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Mặt hàng xuất khẩu là một trong những yếu tố cơ bản nhưng lại hết sức quan trọng và cần thiết để hoạt động xuất khẩu diễn ra một cách thường xuyên liên tục và có hiệu quả. Hiểu được tầm quan trọng đó của yếu tố mặt hàng xuất khẩu, bên cạnh việc không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm chè, Công ty và Tổng Công ty đã rất coi trọng việc đa dạng hóa sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của từng thị trường và từng khu vực. Qua đó, có thể duy trì và phát triển các thị trường đã có và có thể mở rộng thêm thị trường mới.
Dưới đây là một số thị trường tiêu thụ chè quan trọng của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà.
Bảng 2.1. KHỐI LƯỢNG CHÈ XUẤT KHẨU ĐẾN MỘT SỐ
THỊ TRƯỜNG
Đơn vị: Tấn
Stt
Tên nước
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
1
Anh
2.2
12.34
18.62
32.85
2
Ả Rập
6.69
13.35
28.84
42.59
3
Ấn Độ
1.86
1.6
31.82
58.74
4
Ba Lan
41.45
57.14
27.39
40.12
5
Đài Loan
34.09
20.05
41.82
65.39
6
Đức
8.31
14.36
42.52
61.08
7
Iraq
1 641.24
1 420.14
1 458.11
1 581.28
8
Mỹ
1.21
6.32
13.4
21.85
9
Nhật
46.19
73.04
39.89
50.96
10
Nga
32.38
52.62
55.51
95.62
11
Pakistan
59.76
154.18
67.58
72.16
12
Singapore
31.28
32.82
30.19
34.23
13
Syria
21.62
26.95
11.27
29.83
14
Thổ nhĩ kỳ
3.6
4.8
11.47
15.27
15
Ucraina
4.14
3.31
4.95
18.68
16
Nước khác
28.97
48.25
236.38
357.65
Tổng
1 964.99
1 941.27
2 119.76
2 578.3
Nguồn: Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà năm 2005.
* Thị trường Anh:
Ngay từ khi ra đời Công ty đã rất chú trọng đến thị trường này. Đây chính là trung tâm đấu giá chè lớn nhất thế giới và là đầu mối quan trọng để thâm nhập các thị trường khác ở Châu Âu và thế giới. Thị hiếu của người tiêu dùng ở đây ưa chuộng các loại chè đen như OTD và một vài loại chè đen cấp thấp như chè D, F. Để thuận lợi cho việc bao tiêu sản phẩm tại thị trường Anh, Công ty đã đặt văn phòng đại diện tại London và ký hợp đồng trực tiếp với các khách hàng tại đây. Đặ biệt Công ty đã thực hiện chính sách giá thấm dần để thâm nhập thị trường tại đây. Năm 2002 Công ty xuất sang đây 2,2 tấn, đến năm 2003 khối lượng đó là 12,34 tấn và đến năm 2004 khối lượng chè mà Công ty xuất sang thị trường Anh đã tăng lên 18,62 tấn.
*Thị trường Đài Loan:
Đây là thị trường Công ty được kế thừa từ Tổng Công ty chè Việt Nam. Thị trường này có nhu cầu về chè khá cao, do đáp ứng được yêu cầu về giá cũng như chất lượng nên trong những năm qua Công ty đã xuất sang đây khối lượng chè khá lớn, mặc dù vậy khối lượng chè xuất sang thị trường này còn tăng giảm thất thường, năm 2002 là 34,09 tấn thì năm 2003 khối lượng đó lại giảm xuống 20,05 tấn, nhưg đến năm 2004 thì khối lượng chè xuất sang thị trường này lại tăng cao lên mức 41,82 tấn. thị hiếu tiêu dùng tại Đài Loan là các loại chè cấp thấp, chè xanh đặc sản và chè ướp hương. Đây là thị trường có quan hệ liên doanh với Công ty cũng như một số Công ty khác của Tổng Công ty chè Việt Nam như: Mộc Châu, Kim Anh, Nam Sơn...
* Thị trường Iraq:
đây là thị trường có dung lượng tiêu thụ lớn, là một trong những nước nhập khẩu chè hàng đầu thế giới. Với Công ty đây là bạn hàng lớn nhất trong những năm gần đây, nó luôn chiếm tỷ trọng rất lớn, do vậy Công ty phải chú trọng để mở rộng và phát triển thị trường này. Sản lượng xuất khẩu sang thị trường này thường là cao. Năm 2002 là 1641,24 tấn, năm 2003 là 1420,14 tấn và năm 2004 là 1458,11 tấn, khối lượng chè xuất sang Iraq co xu hướng giảm như trên phần lớn là do hậu quả đất nước này phải đối đầu với cuộc tấn công của quân đôi Hoa Kỳ. Thị hiếu tiêu dùng của thị trường Iraq là chè đen cánh nhỏ, chè hương với giá trung bình khoảng 1,86 USD/kg.
* Thị trường Hoa Kỳ:
Đây là thị trường mới của Công ty, cũng như nhiều mặt hàng khác, Hoa Kỳ là thị trường rất khó tính đối với các sản phẩm chè. Công ty ra đời tron hoàn cảnh Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ mới được ký kết và đang trong quá trình đi vào thực hiện nên Công ty có nhiều thuận lợi trong hoạt động thâm nhập thị trường này. Loại chè xuất khẩu sang thị trường Hoa kỳ là loại chè cao cấp, bao bì đẹp, giá giao động trong khoảng 30 – 6.000 USD/tấn, chè đen giá khoảng 1.069 – 1.523 USD/tấn. Khối lượng chè xuất sang thị trường này các năm qua lần lượt là: Năm 2002 đạt 1,21 tấn là do hậu quả của sự kiện 11 tháng 9 năm 2001 với lại Công ty mới thành lập, năm 2003 đạt 6,23 tấn và năm 2004 đạt 13,40 tấn.
* Thị trường Nga:
Đây là thị trường truyền thống của Tổng Công ty chè Việt Nam từ trước năm 1990, do ảnh hưởng của những vấn đề chính trị ở Liên Xô và các Đông Âu, nên thị trường của Tổng Công ty bị thu hẹp. Tuy nhiên, với sự cố gắng của mình, Công ty đã dần khôi phục và mở rộng thị trường này. Thị hiếu của thị trường Nga là ưa thích loại chè đen, chè xanh với chủng loại OTD và CTC. Thông qua văn phòng đại diện của Tổng Công ty chè Việt Nam tại Moscow Công ty tiến hành giao dịch và ký kết hợp đồng với các đối tác tại thị trường Nga. Khối lượng chè của Công ty xuất sang thị trường Nga trong thời gian qua như sau: Năm 2002 đạt 32,38 tấn, năm 2003 đạt 52,62 tấn và năm 2004 đạt 55,51 tấn.
* Thị trường Nhật Bản:
Người Nhật có truyền thống độc đáo đó là nghệ thuật pha trà và thưởng thức trà, do đó lượng chè tiêu thụ tại thị trường này là rất nhiều. thị hiếu tiêu dùng tại thị trường này là thích uống chè xanh dẹt, chè sản xuất theo công nghệ Nhật Bản, ngoài ra chè đen cũng được ưa thích. Đây là thị trường đầy triển vọng của Công ty. Khối lượng chè của Công ty xuất sang thị trường Nhật Bản thời gian qua là: Năm 2002 đạt 46,19 tấn, năm 2003 đạt 73,04 tấn và năm 2004 đạt 39,89 tấn.
* Các thị trường khác:
Ngoài các thị trường kể trên Công ty còn có nhiều đối tác khác có sức tiêu thụ khá cao như thị trường: Pakistan, Singapore, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Malaysia…hàng năm các thị trường này tiêu thụ hàng trăm tấn chè các loại. Qua đó thấy rằng Công ty đã từng bước nắm bắt được thị hiếu tiêu dùng của khách hàng tại các thị trường nước ngoài của Công ty và đã dần thích nghi với điều kiện kinh doanh quốc tế đang diễn ra rất khốc nghiệt nhằm tăng doanh thu và lợi nhuận cho Công ty.
Có thể nói thị trường xuất khẩu của Công ty có quy mô khá lớn, song đây chỉ là thuận lợi bước đầu của Công ty. Trong thời gian tới Công ty phải duy trì và thiết chặt các mối quan hệ đã có để đảm bảo về mặt chất của các thị trường xuất khẩu, tức là kim ngạch xuất khẩu tại mỗi thị trường nay càng tăng lên trên cơ sở mức giá đảm bảo có lãi cho Công ty.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TY THƯƠNG MẠI VÀ DU LỊCH HỒNG TRÀ.
1. Những ưu điểm của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà.
Với 96% sản phẩm của Công ty đã có mặt trên thị trường quốc tế vì vậy vấn đề thị trường là vấn đề hết sức quan trọng, các hoạt động nghiên cứu tiếp thị hết sức được chú trọng. Công ty đã cử cán bộ đi nghiên cứu khảo sát ở nhiều nước sản xuất cũng như xuất khẩu chè, từ đó tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật tiên tiến, tiếp cận với những công nghệ hiện đại và nắm bắt được nhu cầu của thị trường để có phương án sản xuất phù hợp.
Công ty đã thực hiện tốt kế hoạch xuất khẩu của Tổng Công ty góp phần xóa bỏ tình trạng thua lỗ “thu không đủ bù chi”.
Công ty đã giữ được chữ tín với khách hàng thông qua chất lượng của hàng hóa, thời hạn giao hàng và đội ngũ nhân viên thành thạo về nghiệp vụ, thành thạo với công việc… Các thị trường truyền thống của Tổng Công ty được giữ vững như: Nga, Iraq, Nhật,… Và công ty đã khai thác được một số thị trường mới như: Iran, Libi, Hoa Kỳ. Hầu hết các sản phẩm của công ty đều được tiêu thụ kịp thời, không có tình trạng ứ đọng sản phẩm.
Công ty đã tạo được mối liên hệ chặt chẽ với các Công ty thành viên khác và với Tổng Công ty trong việc huy động nguyên liệu cũng như nguồn hàng phục vụ cho xuất khẩu. Công ty cũng duy trì được mối quan hệ tốt đẹp với các đơn vị cung cấp nguyên liệu thông qua việc thực hiện các điều kiện mua bán thuận lợi, không ép giá, duy trì giá mua ở mức cao nhất có thể. Do vậy, nguồn chè phục vụ cho xuất khẩu ngày càng được bổ sung do hiệu quả kinh tế của nó cao hơn nhiều so với cây lương thực. Do vậy, người trồng chè yên tâm gắn bó với vườn chè, không xảy ra hiện tượng chặt cây chè để trồng cây khác như đối với cây cà phê.
Những thành tích trên được cụ thể qua những đóng góp của Công ty như sau:
- Tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt là người lao động ở trung du, miền núi phía Bắc (Hòa Bình, Thái Nguyên). Việc sản xuất và thu mua xuất khẩu chè đã tác động đến việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Nhờ vậy, đời sống của người làm chè được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân chung của người lao động toàn công ty năm 2002 vào khoảng 1 triệu đồng/tháng. Và con số đó lần lượt tăng vào các năm 2003 và 2004 với tỷ lệ tăng vào khoảng 13 %.
- Xuất khẩu chè đóng góp doanh thu ngoại tệ cho đất nước làm giảm sự thâm hụt cán cân thanh toán. Đóng góp vào dự trữ ngoại tệ của quốc gia, nâng cao vị thế hàng hóa Việt nam trên thị trường thế giới.
2. Những tồn tại và vướng mắc phát sinh của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà.
* Về chất lượng chè:
Nhiều đánh giá cho rằng chất lượng chè xuất khẩu của Việt nam chỉ đạt mức trung bình so với thế giới, do đó làm giảm năng lực cạnh tranh kéo theo giá chè xuất khẩu của Việt nam thấp hơn hẳn giá chè thế giới và cản trở việc tăng cao sản lượng xuất khẩu vào các thị trường khó tính như : Anh, Hoa Kỳ, Nhật. Việc quảng bá thương hiệu của Tổng Công ty chè nói chung và của Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà nói riêng chưa được quan tâm thỏa đáng. Do vậy người tiêu dùng quốc tế chưa biết đến thương hiệu chè của Việt Nam nên các sản phẩm chè của ta thường bị ép giá. Việc quản lý chất lượng chè xuất khẩu trong cả hai khâu sản xuất và lưu thông còn kém, việc quản lý sử dụng thuốc trừ sâu thiếu chặt chẽ có nguy cơ dẫn đến giảm uy tín của các loại sản phẩm chè xuất khẩu. Bên cạnh đó sản phẩm chè xuất khẩu của Công ty còn đơn điệu về chủng loại, mẫu mã, bao bì. Chủ yếu là xuất khẩu chè có kích thước và kiểu dáng tự nhiên trong khi người tiêu dùng, đặc biệt là các nước tư bản lại yêu thích sự tiện dụng và tiết kiệm thời gian.
Khâu sản xuất chế biến chưa giữ gìn và phát huy những tính năng tốt của nguyên liệu, các thông số kỹ thuật bị vi phạm ở nhiều công đoạn, dẫn đến chè sản phẩm có nhiều khuyết tật, số lượng chè trả lại vẫn còn cao (13,5%). Ở các nước xuất khẩu chè như Ấn Độ, Trung Quốc, Srilanca, Kenia họ cũng có vùng chè ngon và không ngon song họ chế biến cẩn thận hầu như không vi phạm kỹ thuật nên sản phẩm không mắc khuyết tật. Thêm vào nữa sản xuất của Công ty còn manh mún, cá thể, không tập trung, chủ yếu là nguồn trong dân. Nguồn hàng chè không ổn định gây ra tình trạng cung vượt quá cầu hoặc ngược lại; chưa phát huy được hết tiềm năng vốn có của những nơi, những vùng có khả năng sản xuất chè có chất lượng cao.
Công nghệ chậm đổi mới, vẫn thực hiện nhiều quy trình chế biến cũ của Liên Xô. Chưa đầu tư nhiều cho dây chuyển sản xuất chè thành phẩm.
* Về thị trường tiêu thụ:
Tồn tại và khó khăn lớn nhất đối với ngành chè và Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà trong quá trình phát triển là thị trường tiêu thụ chè. Đến nay Công ty vẫn chưa thực sự có thị trường ổn định và vững chắc, thị trường chính là Iraq hiện nay thì đang gặp phải tình trạng bất ổn về chính trị và rất bấp bênh.
Tuy Công ty đã có thị trường xuất khẩu tại hơn 20 nước trên thế giới song vẫn chưa hình thành được hệ thống kênh phân phối trực tiếp ở nước ngoài một cách hoàn chỉnh.
Chi phí dành cho các hoạt động xúc tiến thương mại, yểm trợ bán hàng, quảng cáo còn thấp; các hình thức quảng cáo nghèo nàn, công tác marketing yếu, do chưa có đội ngũ marketing chuyên môn.
Hiện tượng tranh mua, tranh bán diễn ra phổ biến gây ra sự xáo trộn thị trường làm cản trở quá trình chế biến và xuất khẩu chè. Giá cả còn phụ thuộc vào thị trường thế giới, làm mất đi tính chủ động của Công ty trong cạnh tranh.
* Về vốn và nguồn vốn:
Nhu cầu vốn lưu động của Công ty hàng năm khoảng trên 20 tỷ nhưng thực tế Tổng Công ty chỉ cấp khoảng 5 tỷ nên Công ty phải vay ngân hàng một lượng vốn khá lớn, lãi suất cao.
Việc huy động các nguồn vốn trong Công ty để phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh mới và các trọng điểm đầu tư còn hạn chế.
* Về tổ chức – quản lý:
Trình độ quản lý về xuất khẩu của Công ty còn có những thiếu sót, có những đơn vị vì lợi ích cục bộ chỉ chạy theo số lượng cốt để hoàn thành kế hoạch mà không có trách nhiệm với người tiêu dùng; không quan tâm duy trì, cải tiến chất lượng, mẫu mã, chủng loại làm ảnh hưởng tới hiệu quả chung của Công ty và Tổng Công ty.
Chính những vấn đề còn tồn tại ở trên mà Công ty chưa giải quyết được đã đặt ra yêu cầu phải có những giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu chè trong thời gian tới.
3. Nguyên nhân của các vướng mắc trong Công ty Thương mại và du lịch Hồng Trà.
3.1. Nguyên nhân chủ quan:
* Chất lượng sản phẩm:
Do không thực hiện đúng quy trình canh tác làm cho các vườn chè xuống cấp; mặt khác do giống chè còn nghèo, việc quản lý, chăm sóc kém làm cho năng suất chè thấp, chất lượng kém.
Phần lớn các cơ sở chế biến có công nghệ và thiết bị cũ, thường đã lạc hậu 2 đến 3 thế hệ, hao phí nhiều năng lượng, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và cơ cấu mặt hàng. Chế biến thủ công truyền thống chưa được chú trọng đúng mức và có biện pháp hiện đại hóa khâu thích hợp nên sản phẩm thiếu đồng bộ. Việc kiểm tra chất lượng sản phẩm mới chỉ tập trung vào các mặt phát hiện khuyết tật hơn là có giải pháp ngăn chặn sản phẩm kém lọt ra thị trường.
* Về vấn đề nghiên cứu và phát triển thị trường:
Hoạt động nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước còn yếu, tất cả mới chỉ dừng lại doanh thu bao nhiêu, vòng quay vốn, lãi.
Nghiên cứu cung cầu chè trên thế giới, Tổng Công ty và Công ty chưa có định hướng chiến lược thực hiện kế hoạch lâu dài trong xuất khẩu chè mà chủ yếu kinh doanh theo phương thức “được chuyến nào hay chuyến ấy”.
Mặt khác, Công ty chưa có quan hệ thân thiết với các chân hàng theo kiểu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 525.doc