MỤC LỤC.
A.Lịch sử hình thành và phát triển của công ty vật liệu điện và dụng cụ cơ khí Elmaco.
I.Vài nét về Công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí ELMACO.
II.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
III.Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí.
1.Chức năng của Công ty.
2.Nhiệm vụ của Công ty.
3.Quyền hạn của Công ty.
B.Cơ cấu bộ máy tổ chức của Công ty.
I.Cơ cấu tổ chức của Công ty.
II.Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong Công ty
C.Thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty:
I.Môi trường kinh doanh của công ty.
1.Môi trường kinh doanh bên ngoài.
2.Môi trường kinh doanh bên trong.
3.Môi trường cạnh tranh của công ty.
II.Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
III.Đánh giá hoạt động kinh doanh của Công ty:
1.Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh.
2.Đánh giá công tác quản trị của Công ty.
D.Phương hướng và biện pháp phát triển của công ty trong thời gian tới.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1741 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập tổng hợp tại công ty vật liệu Điện và dụng cụ cơ khí (ELMACO), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ để khai thác và nâng cao chất lượng kinh doanh. Đảm bảo văn minh thương nghiệp nhằm đáp ứng vật tư cho mọi nhu cầu.
-Tổ chức quản lý toàn diện trong công ty, bằng hệ thống văn hóa, nội quy, quy chế, chế độ. Đảm bảo cho công ty hoạt động không ngừng vươn lên.
-Sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, bảo toàn vốn và không ngừng tăng trưởng vốn theo quy định của Nhà nước và hướng dẫn của Công ty, tự trang trải về tài chính, sản xuất kinh doanh có lãi, không ngừng cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên.
3.Quyền hạn của công ty:
Được quyền chủ động trong việc giao dịch đàm phán ký kết và tổ chức thực hiện các hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua, hợp đồng bán và hợp đồng liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước đảm bảo đúng chính sách của ngành và của Nhà nước.
Công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí là đơn vị kinh tế kinh doanh được Tổng công ty giao vốn.
Được quyền huy động vốn ở các tổ chức, cá nhân trong nước.
Được quyền hợp tác đầu tư sản xuất kinh doanh với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo đúng luật của Nhà nước hiện hành và hướng dẫn của Tổng công ty.
Được tham gia các cuộc hội nghị, hội thảo chuyên đề có liên quan đến kinh doanh tại thị trường trong nước và quốc tế.
Được chủ động trong việc tổ chức mạng lưới kinh doanh theo sự phân cấp của Tổng công ty cho phù hợp, đảm bảo kinh doanh có lãi và chiếm lĩnh được thị trường của ngành hàng.
Được quyền tuyển dụng và cho thôi việc đối với các cán bộ công nhân viên trong công ty theo đúng chế độ chính sách.
Được quyền quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng bổ nhiệm và miễn nhiệm các cán bộ cấp trưởng phòng, giám đốc xí nghiệp trong Công ty. Đồng thời đề nghị lên Tổng công ty và Bộ bổ nhiệm chức Phó Giám đốc, Giám đốc Công ty.
Căn cứ vào quy chế và khả năng kinh doanh, Công ty đước phép cử cán bộ đi nước ngoài và được mời khách nước ngoài vào Việt Nam để tìm hiểu, đàm phán ký hợp đồng kinh tế phục vụ kinh doanh của Công ty, thực hiện chính sách của ngành và pháp luật của Nhà nước, đảm bảo an ninh bí mật.
Với phương châm và đường lối đúng đắn của mình, Công ty hoàn toàn trụ vững trong cơ chế mới, xứng đáng là một trong những đơn vị đạt mức tăng trưởng nhanh và vững chắc nhất trong ngành Thương mại. Ngoài phần đóng góp cho ngân sách Nhà nước, Công ty còn dành được một phần tích lũy dùng cho đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, xây dựng cơ bản và đầu tư kinh doanh.
Trong vòng 5 năm trở lại đây cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á và sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt của ngành vật tư, nguyên nhiên liệu đã gây không ít những thiệt hại và khó khăn cho Công ty. Song với sự lãnh đạo tài tình của ban lãnh đạo, với tinh thần trách nhiệm, cố gắng của toàn bộ công nhân viên những khó khăn đó đã được khắc phục và Công ty ngày càng phát triển.
B.Cơ cấu bộ máy tổ chức của Công ty.
I.Cơ cấu tổ chức:
Công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí ELMACO là một doanh nghiệp Nhà nước với hơn 400 nhân viên. Nhà máy có cơ cấu tổ chức cũng giống như cơ cấu tổ chức chung của các doanh nghiệp Nhà nước khác với đầy đủ các phòng ban và các phòng chức năng từ giám đốc tới phòng tổ chức hành chính, phòng kinh doanh...Các phòng ban này được liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Cơ cấu tổ chức được bố trí theo sơ đồ sau:
Phó giám đốc
Giám đốc
Phó giám đốc
Phòng tài vụ kế toán và vốn
Phó giám đốc
Phòng kinh doanh cáp
Phòng kinh doanh nguyên liệu
Phòng kinh doanh vòng bi
Phòng kinh doanh xuất khẩu
Phòng kinh doanh hóa chất
Các chi nhánh đại diện kinh doanh
Phòng tổ chức hành chính
Xí nghiệp thiết bị điện
Nhà máy cáp
Các xí nghiệp kinh doanh
II.Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban:
Đứng đầu Công ty là giám đốc Công ty do Bộ trưởng Bộ thương mại trực tiếp bổ nhiệm, là người chịu trách nhiện toàn diện và điều hành chung toàn bộ hoạt động của Công ty, đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của toàn Công ty trước cơ quan quản lý cấp trên và trước pháp luật.
Giúp việc cho giám đốc là 3 phó giám đốc do giám đốc Công ty đề bát và Bộ thương mại quyết định bổ nhiệm và miễn nhiệm.
Bộ phân chuyên môn gồm có 2 phòng quản lý và 5 phòng kinh doanh. Ngoài ra Công ty còn có 2 đơn vị sản xuất đó là Nhà máy sản xuất dây và cáp điện, Xí nghiệp sản xuất thiết bị điện. Phụ trách mỗi đơn vị là giám đốc, phó giám đốc, trưởng các chi nhánh, các trưởng phó các phòng ban.
Nhiệm vụ cụ thể của các phòng ban như sau:
-Phòng tổ chức hành chính: Có nhiệm vụ sắp xếp, tổ chức phân công lực lượng lao động, tuyển dụng, đào tạo cán bộ, nâng bậc lương cho nhân viên hàng năm theo đúng quy định hiện hành của Bộ lao động. Phòng tổ chức hành chính có 19 nhân viên.
STT
Chỉ tiêu
Số lượng
1
Lao động có trình độ đại học và trên đại học
7
2
Lao động trung cấp
2
3
Bảo vệ
8
-Phòng tài chính- kế toán: Có nhiệm vụ theo dõi tình hình tăng giảm và số hiện có của các loại vốn, quĩ, tình hình tiêu thụ sản phẩm và kết quả kinh doanh hàng năm, lập báo cáo tài chính và tổ chức bảo quản, lưu trữ số liệu, hồ sơ…
-Phòng vốn và kế hoạch: Là đơn vị trực thuộc phòng tài chính kế toán có nhiệm vụ xây dựng các kế hoạch tham mưu cho Công ty đồng thời quản lý trực tiếp tình hình chu chuyển tài chính tiền tệ và giải quyết các công nợ.
-Các phòng kinh doanh: Tùy thuộc vào sự phân công, phân nhiệm của ban quản lý các phòng kinh doanh có nhiệm vụ tổ chức sản xuất, đẩy mạnh công tác tiêu thụ hàng hóa trong nhóm ngành hàng được giao.
-Các đơn vị sản xuất: Là những đơn vị hạch toán phụ thuộc trực tiếp sản xuất kinh doanh theo chuyên ngành được phân công, chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình trước ban giám đốc Công ty và pháp luật.
-Các chi nhánh: Là các đơn vị hạch toán phụ thuộc, thực hiện nghiên cứu và mở rộng thị trường tiêu thụ toàn bộ những mặt hàng kinh doanh của Công ty trên địa bàn chi nhánh quản lý.
C.Thực trạng sản xuất kinh doanh của Công ty:
I.Môi trường kinh doanh:
1.Môi trường kinh doanh bên ngoài Công ty:
ELMACO là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực lưu thông tư liệu sản xuất. Trước khi chuyển sang cơ chế kinh doanh mới, cũng như tất cả các đơn vị cùng lĩnh vực nói đến lưu thông tư liệu sản xuất cả trong lý luận và thực tiễn người ta thường coi đó là một lĩnh vực lưu thông đặc biệt được gọi là cung ứng vật tư. Tính chất đặc biệt của hàng hóa tư liệu sản xuất được người ta gán cho nó một cách chủ quan duy ý chí vì nó được tiêu dùng cho sản xuất. Phù hợp và gắn liền với quan điểm đó là cơ chế bao cấp trong việc đảm bảo vật tư của nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên đây là vấn đề chung mang tính lịch sử của quá trình nhận thức, quá trình phát triển. Chỉ có điều khi nào và lúc nào thì vấn đề được nhận thức đầy đủ và biến thành hoạt động thực tiễn. Những biểu hiện và tác hại của cơ chế đó đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và với ELMACO nói riêng đã từng được đánh giá và phân tích.
Năm 1986 là năm đầu tiên của thời kỳ chuyển đổi tư duy, đường lối chính sách kinh tế và năm 1988 là năm đầu tiên của thời kỳ vận hành nền kinh tế theo cơ chế mới. Thực chất của cơ chế mới là sự nhận thức và vận dụng đầy đủ các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa vào quá trình điều hành nền kinh tế. Đối với mỗi doanh nghiệp nói riêng cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế thì thời điểm bắt đầu đổi mới trong doanh nghiệp có thể khác nhau. Quá trình vận hành doanh nghiệp và chuyển sang cơ chế mới đối với EELMACO đã được chuẩn bị những tiền đề lý luận và thực tiễn từ rất sớm, nên quá trình tiếp thu và vận hành theo cơ chế mới vừa có những điểm khác biệt vừa có bước đi rất ngắn đã hòa nhập được với môi trường kinh doanh mới. Sự khác biệt này vừa là đặc điểm của một quá trình tìm kiếm những mô hình giải pháp chung đối với quản lý nền kinh tế của Đảng và Nhà nước, vừa là đặc điểm riêng của ELMACO.
Việt Nam đang trên đà phát triển cùng hội nhập vào nền kinh tế thế giới là một trong những thuận lợi cho sự phát triển của Công ty. Chính phủ đang khuyến khích sự đầu tư từ nước ngoài nên dẫn tới nhu cầu về sản phẩm mà Công ty đang kinh doanh là rất lớn. Tuy nhiên lượng vật liệu điện sản xuất trong nước chỉ đảm bảo 40% cho nên nếu chỉ dựa vào sản xuất trong nước thì Công ty không thể phát triển được. Để đảm bảo cung ứng đầy đủ cho nhu cầu nền kinh tế, Công ty phải nhập cáp từ nước ngoài. Công ty có quan hệ bạn hàng với nhiều nước như Đức, Hungari, Hàn Quốc, Trung Quốc…
Công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí có trụ sở chính đặt tại thủ đô Hà Nội, một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước, cho nên có rất nhiều thuận lợi cho việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên Công ty cũng phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của các Công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân, công ty liên doanh rất năng động, linh hoạt trong nền kinh tế.
Môi trường kinh doanh bên ngoài Công ty mang lại cho Công ty rất nhiều cơ hội kinh doanh nhưng đồng thời cũng mang đến nhiều thử thách cho Công ty.
2.Môi trường kinh doanh bên trong của Công ty:
*Về nhân sự của Công ty:
Theo bảng tổng hợp số lượng, chất lượng lao động trong 3 năm gần đây, số lao động trong Công ty nói chung không thay đổi nhiều, chênh lệch chỉ trong khoảng từ 5 đến 10 người. Đây là yếu tố rất thuận lợi cho việc quản lý nhân sự của Công ty.
Đại đa số lao động của Công ty có trình độ là trung học chuyên nghiệp, con số này lên đến khoảng 150 người.
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
1.Tổng số lao động trong diện quản lý.
Trong đó: Lao động nữ
420
175
410
172
415
170
2.Phân theo trình độ lao động.
- Lao động có trình độ cao đẳng trở lên
- Trung học chuyên nghiệp.
- Công nhân kỹ thuật bậc 4 trở lên.
- Công nhân kỹ thuật dưới bậc 4.
- Công nhân kỹ thuật chưa qua đào tạo.
110
146
73
36
55
117
151
73
34
45
119
150
73
34
44
3. Phân theo độ tuổi lao động và giới tính
- Dưới 30 tuổi.
+Nữ
+Nam.
- Từ 31 đến 40 tuổi.
+Nữ
+Nam
- Từ 41 đến 50 tuổi.
+Nữ
+Nam
- Từ 51 đến 60 tuổi.
+Nữ
+Nam
70
36
34
130
48
82
120
35
85
100
50
50
86
40
46
135
52
83
31
89
49
40
88
41
47
136
52
84
28
88
47
41
4.Phân theo cơ cấu lao động
-Thương mại dịch vụ.
+Lao động trực tiếp.
+Lao động gián tiếp.
-Lao động sản xuất.
+Lao động trực tiếp.
+Lao động gián tiếp
210
80
105
25
220
70
110
20
223
67
112
18
*Về mặt hàng kinh doanh của Công ty:
Năm 1981 theo quyết định của Chính phủ, sự bao cấp không còn, những ngành hàng không thiết yếu như ngành hàng vật liệu điện và dụng cụ cơ khí hoàn toàn được thả nổi. Đây là ngành hàng mà hầu hết là sản phẩm hàng hóa đã hoàn chỉnh, đặc biệt phức tạp về chủng loại, quy cách, nhỏ lẻ và khó kinh doanh nhất trong toàn bộ hệ thống cung ứng vật tư trước đây, mà chỉ riêng ELMACO là doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh mặt hàng này và không kinh doanh các mặt hàng khác. ELMACO thường chiếm từ 70% đến 75% doanh số bán của ngành hàng trên toàn quốc nên khi chuyển sang cơ chế mới thì doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy, cái khó không bó cái không bởi ngay từ khi mới bắt đầu chuyển sang cơ chế mới thì quan điểm xuyên suốt của ELMACO là phải đối xử hàng hóa đúng với tư cách của hàng hóa. Do vậy ELMACO đã từng bước mở rộng mặt hàng và lĩnh vực kinh doanh của mình. Đa dạng hóa kinh doanh của ELMACO bao gồm nhiều lĩnh vực: Thương mại, dịch vụ công nghiệp, sản xuất. Về mặt hàng thì không bó hẹp trong mặt hàng được phân công kinh doanh mà chuyển hướng sang kinh doanh tổng hợp để khai thác và tận dụng hết những tiềm năng nhỏ bé của chính mình.
Trong lĩnh vực thương mại, ELMACO chú trọng đầu tư phát triển kinh doanh trước hết là các loại vật tư hàng hó có liên quan chặt chẽ đến các mặt hàng được phân công chuyên doanh trước đây bao gồm các loại vật tư hàng hóa cùng nhóm và gần nhóm tính năng sử dụng, đồng bộ hóa hoặc nâng cao tính năng sử dụng, các loại vật tư cho sản xuất thiết bị và sản phẩm vật liệu điện. Đây là những loại vật tư hàng hóa mà ELMACO có thể dễ dàng tiếp cận về kỹ thuật và thương mại, mặt khác nếu là vật tư nguyên liệu cho sản xuất các sản phẩm mà ELMACO kinh doanh thì quan hệ cung cấp vật tư và tiêu thụ sản phẩm giữa hai bên dễ tạo được mối quan tâm chung vì lợi ích của người sản xuất và của cả ELMACO. Với định hướng này ELMACO đã triển khai kinh doanh thành công nhiều mặt hàng mới như cáp nhôm(thuộc ngành kim khí, cùng nhóm tiêu dùng của cáp điện), vòng bi, dây điện từ (thuộc ngành thiết bị phụ tùng, cho sản xuất động cơ điện, quạt điện), kim loại màu, thép lá kỹ thuật điện (thuộc ngành kim khí, cho sản xuất dây và cáp điện, sản xuất thiết bị điện), chất dẻo (thuộc ngành hóa chất, cho sản xuất dây và cáp điện, sản xuất khí cụ điện), máy phát điện, máy nén khí, máy bơm nước (thuộc ngành thiết bị phụ tùng) và một số mặt hàng cho sản xuất các sản phẩm khác. Bên cạnh đó, những mặt hàng có nhu cầu cao trên thị trường hoặc có mối quan hệ thương mại rộng rãi, có nhu cầu đồng bộ hó cung cấp đều được ELMACO quan tâm nghiên cứu và đầu tư nếu có thể, một số mặt hàng đã được triển khai kinh doanh tốt như que hàn điện, cáp thép, khung nhôm, săm lốp ô tô, bình điện, xe máy.
Trong lĩnh vực dịch vụ, không kể những dịch vụ thông thường mang tính bổ sung và hoàn thiện của quá trình kinh doanh thương mại, ELMACO đi vào lĩnh vực dịch vụ có tính chất công nghiệp như sửa chữa thu đổi thiết bị công nghiệp, lắp đặt điện nội thất, điện chiếu sáng công cộng, xây lắp đường dây và trạm biến áp 35 kv. Những dịch vụ này có lợi thế là dược hỗ trợ từ chính hoạt động thương mại qua việc cung cấp vật tư thiết bị và thông tin từ các nguồn tiềm năng cũng như nhu cầu. Hoạt động dịch vụ cho thuê kho bãi, cửa hàng theo nguyên tắc lợi thế so sánh cũng được tận dụng triệt để, vừa khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất hiện có, vừa tạo tiền đề tái tạo nhanh và mở rộng dầu tư cơ sở vật chất cho kinh doanh thương mại, dịch vụ từ chính nguồn thu của hoạt động dịch vụ này.
Trong lĩnh vực sản xuất, ELMACO bắt đầu đi từ liên kết sản xuất phi hình thức thông qua việc cấp nguyên liệu để mua sản phẩm dưới cả hai hình thức là bán nguyên liệu mua sản phẩm và cấp nguyên liệu mua sản phẩm, đặt hàng theo tính năng, mẫu mã. Sau giai đoạn này, ELMACO tiến hành đặt sản xuất chi tiết cơ bản rồi tổ chức sản xuất chi tiết phụ, lắp ráp thành sản phẩm hoàn chỉnh. Là một doanh nghiệp thương mại, ELMACO có lợi thế về nắm nhu cầu và hiểu rõ nhu cầu tiêu dùng nên đối với những sản phẩm không quá phức tạp về kỹ thuật thì con đường đi đến sản xuất dễ dàng được thực hiện. ELMACO thành công trong việc sản xuất hầu hết các phụ kiện điện thông dụng như cầu dao, cầu chì, ổ cắm, phích cắm, đui đèn và các mặt hàng khác như đèn chiếu sáng công cộng, dây điện, máy hàn hồ quang…
*Về thị trường của Công ty:
Không chỉ đa dạng hóa kinh doanh mà việc mở rộng thị trường kinh doanh cũng rất quan trọng. Kể từ khi giải tán Liên hiệp xuất nhập khẩu vật tư và Liên hiệp cung ứng vật tư khu vực để tổ chức lại các tổng công ty ngành hàng năm 1985, duy nhất ELMACO là một công ty chuyên doanh ngành hàng khu vực chỉ kinh doanh vật liệu điện và dụng cụ cơ khí nằm trong Tổng công ty Hóa chất- Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí. Với địa bàn được phân công là trực tiếp cung ứng đến các đơn vị sử dụng tạo địa bàn Hà Nội và rót hàng điều chuyển cho các công ty vật tư tổng hợp của 14 tỉnh từ Hà Tĩnh trở ra (trừ 4 tỉnh duyên hải phía Bắc) và điều chuyển nội bộ ngành hàng cho các công ty chuyên doanh khu vực. Việc điều chuyển nội bộ trong ngành vật tư hoặc trong nội bộ ngành hàng là một nhiệm vụ theo chức năng và cơ chế tổ chức hoạt động của ngành lúc đó. Khi chuyển sang cơ chế kinh doanh mới, các nguồn hàng truyền thống do Tổng công ty phân chia bị thu hẹp và tỷ trọng các nguồn tự tạo của Công ty tăng lên, giá cả thực hiện theo chế độ mới thì phần hàng do Công ty tạo nguồn không thể thực hiện chiết khấu như nguồn hàng do Tổng công ty “cho” mà phải thực hiện theo cơ chế thị trường. Từ đầu năm 1990, ELMACO đã tổ chức hàng loạt các nhóm tiền trạm tiến hành khảo sát thị trường các khu vực kinh tế trọng điểm bao gồm các thành phố lớn, các khu công nghiệp, đầu mối giao thông để chuẩn bị cho việc mở rộng thị trường một cách quy mô và bài bản hơn. Từ cuối năm 1990 đến đầu năm 1992, sau bước khảo sát điều tra cơ bản, lần lượt hệ thống kinh doanh và tiếp thị của ELMACO được chính thức triển khai dưới hình thức chi nhánh tại Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Nguyên, Nam Định, Thanh Hóa, Vinh, Đông Hà, Đà Nẵng, Quy Nhơn, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu và hệ thống các xí nghiệp, cửa hàng kinh doanh tại khu vực nội ngoại thành Hà Nội. Cho đến nay ngoài hệ thống tại Hà Nội được tăng cường và mở rộng ELMACO đã đứng vững và tiếp tục duy trì hoạt động có hiệu quả ở các chi nhánh Thái Nguyên, Quảng Ninh, Đông Hà, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Các chi nhánh này không chỉ tổ chức kinh doanh tại địa phương mà chi nhánh đặt trụ sở mà trở thành những ELMACO khu vực đồng thời với hệ thống chi nhánh, ELMACO cũng tạo dựng, hình thành một số đại lý, nhà phân phối chính tại nhiều tỉnh và thành phố khác.
Ngoài việc phát triển thị trường trong nước, Công ty cũng chú trọng đến việc mở rộng thị trường ra nước ngoài. Hiện nay sản phẩm của Công ty đã có mặt tại nhiều nước trên thế giới như Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan, Đức, Braxin, Hàn Quốc…
3.Môi trường cạnh tranh:
Ngành hàng mà ELMACO kinh doanh là ngành hàng khó kinh doanh nhất trong các loại vật tư kỹ thuật, ngay cả trong thời bao cấp khi mà cả nước có một tổng công ty ngành hàng thì các đơn vị trong ngành cũng chỉ tập trung vào kinh doanh hóa chất và cho đến nay duy nhất chỉ có ELMACO là doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh ngành hàng vật liệu điện –dụng cụ cơ khí là chính. Tuy nhiên bên cạnh Công ty ELMACO còn có nhiều công ty khác có cùng kinh doanh mặt hàng như ELMACO kinh doanh. Có thể kể đến các Công ty trước đây trực thuộc Tổng công ty hóa chất như Công ty Hóa chất – Vật liệu điện Hà Nội, Công ty Hóa chất – Vật liệu điện Hải Phòng, Công ty Hóa chất- Vật liệu điện Đà Nẵng, Công ty Hóa chất – Vật liệu điện thành phố Hồ Chí Minh. Đây là những công ty cạnh tranh mạnh nhất với ELMACO. Bên cạnh đó còn có những công ty trách nhiệm hữu hạn khác như Công ty TNHH Hà Việt, Công ty Nhật Linh, Hợp tác xã Tự Cường.
II.Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty:
Ra đời từ khi đất nước còn chiến tranh, đến nay ELMACO đã trải qua 30 năm xây dựng và phát triển. Mười lăm năm đầu trong lịch sử của mình, ELMACO đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển phụ thuộc vào quá trình cải tổ hệ thống cung cấp tư liệu sản xuất của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong sự thay đổi đó có lẽ không có sự thay đổi nào về chất trong quá trình hoạt động và phát triển của ELMACO. Thế hệ những người đi trước đã xây dựng ELMACO bằng tất cả tinh thần và nhiệt huyết của mình có được. Biết bao công sức, trí tuệ và mồ hôi đã đổ ra cho việc tạo dựng cơ sở vật chất ban đầu, tổ chức tiếp nhận, bảo vệ, bảo quản hàng hó trong thời kỳ chiến tranh phá hoại lần thứ hai và đặc biệt là giai đoạn đảm bảo và phát triển nguồn hàng phục vụ cho nhu cầu sản xuất sau chiến tranh. Những bài học, cách làm trong việc phát triển tạo nguồn của ngành vật tư có lẽ chỉ riêng có ở ELMACO, Công ty đã nhận thấy không thể chỉ trông chờ vào nhập khẩu mà còn có thể tổ chức sản xuất trong nước với nhiều mặt hàng và chính điều đó đã tạo ra sự năng động, nhạy bén và sát thực tế với quá trình sản xuất.
Tình hình tài chính của Công ty phụ thuộc rất nhiều vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và ngược lại vấn đề tài chính cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Chỉ tiêu
Đơn vị
1999
2000
Ước thực hiện 2001
So sánh
2000/1999
2001/2000
1.Tổng doanh thu
Tr.đồng
148789
244996
285000
131.56
116.3
2.Nộp ngân sách
Tr.đồng
29137
32450
22000
111.37
67.79
3.Thu nhập bình quân người/tháng
Đồng
600000
745000
860000
124.16
115.43
4.Tổng chi phí kinh doanh
Tr.đồng
10556
12943
14641
122.6
131.12
5.Tỷ suất chi phí
%
7.09
5.28
2.639
74.47
49.981
6.Lợi nhuận.
Ng.đồng
131310
180420
137.4
7.Tỷ suất lợi nhuận
%
0.088
0.094
106.01
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 1999, 2000, 2001)
Dựa vào Báo cáo kết quả kinh doanh của 3 năm 1999, 2000, 2001 có thể thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty liên tục tăng. Năm 2000 kết quả kinh doanh của Công ty khả quan hơn so với năm 1999. Các chỉ tiêu đặt ra đầu năm kế hoạch thực hiện khá tốt.
Về doanh thu bán hàng năm 2000: 10 tháng đầu năm doanh số đạt 190538 triệu đồng bằng 100.2% kế hoạch. Cả năm đạt 244936 triệu đồng bằng 126% so với kế hoạch tăng 26%. So với năm 1999 tăng số tuyệt đối là 86000 triệu đồng, số tương đối là 53%.
Về cơ cấu kinh doanh: Xuất khẩu đạt 300000 USD tương ứng với 4350 triệu đồng đạt 24% chiếm 2% tổng doanh thu. Bán nội địa đạt 225650 triệu đồng tăng so với kế hoạch 50650 triệu đồng, số tương đối là 29%.
Cơ cấu bán hàng trong thị trường nội địa bao gồm: bán hàng công ty tự sản xuất là 18400 triệu đồng đạt 83.6% kế hoạch, bằng 8% tổng doanh thu. Bán hàng nhập khẩu là 172000 triệu đồng đạt 75.4%. Bán hàng mua nội khác là 35250 triệu đồng đạt 15.6%
Qua Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, tuy rằng doanh thu bán hàng tăng qua các năm nhưng Công ty vẫn cần phải có những biện pháp thích hợp để giữ vững và duy trì được kết quả này.
III.Đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh:
1.Đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong 3 năm:
Qua báo cáo trên nhìn chung kinh doanh của Công ty là tốt, tuy nhiên Công ty vẫn còn nhiều điểm tồn tại yếu kém làm ảnh hưởng quá lớn đến kinh doanh như hàng tồn kho cao, chủ yếu là hàng chậm luân chuyển, khó bán. Công ty thường xuyên bị chiếm dụng vốn, hệ thống bán lẻ của Công ty tuy đã được củng cố nhưng chưa đủ mạnh, hiệu quả sử dụng vốn thấp, lực lượng lao động quá lớn nhưng chưa đảm bảo chất lượng nhất là lao động phổ thông đơn giản, mặc dù kinh doanh có lãi song lãi còn rất thấp do công ty phải chịu lãi suất cao.
Công ty đã đạt được rất nhiều thành tích trong thời gian qua. Thứ nhất về chất lượng hàng hóa: Chất lượng sản phẩm của Công ty ngày càng được nâng lên, được người tiêu dùng tín nhiệm. Công ty là một doanh nghiệp Nhà nước đã trải qua 30 năm hoạt động nên tạo được uy tín trên thương trường và chính điều này đã tạo cho Công ty một lợi thế là được các nhà cung ứng có uy tín, có vị thế để ý đến nên chất lượng sản phẩm ngày càng hoàn thiện hơn.
Thứ hai là về cơ cấu sản phẩm: Sản phẩm của Công ty ngày càng phong phú và đa dạng về mẫu mã kiểu dáng. Hiện tại Công ty có hai ngành hàng chủ yếu là ngành hàng vật liệu điện và ngành hàng dụng cụ cơ khí.
Công ty đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong các nghiệp vụ ngoại thương. Công ty sử dụng vốn ngân sách Nhà nước ngày càng có hiệu quả đóng góp cho ngân sách Nhà nước ngày càng cao.
Một lợi thế quan trọng của Công ty là Công ty có một hệ thống kho bãi, nhà xưởng rộng lớn, cho thuê văn phòng, cửa hàng, các hoạt động phụ trợ sản xuất kinh doanh, dịch vụ đại lý ký gửi…
Ngoài những thành tích đáng kể trên thì Công ty ELMACO cũng như nhiều Công ty khác không thể tránh khỏi những sai sót. Đó là Công ty chưa khuyếch trương được hình ảnh của mình chưa có chương trình quảng cáo khuyến mại hay tham gia hội chợ triển lãm trong cơ chế thị trường hiện nay các Công ty cạnh tranh với nhau rất mạnh. Hàng hóa ứ đọng trong kho dẫn đến kém, mất phẩm chất chiếm tỷ lệ lớn trong doanh thu hàng hóa, hơn nữa vòng quay vốn thấp dẫn đến hiệu quả kinh doanh không cao. Thêm vào đó, lực lượng lao động lớn mà đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề chưa đáp ứng được nhu cầu của công nghệ hiện đại mà Công ty mới nhập về.
*Đánh giá công tác quản trị theo chức năng:
a.Công tác hoạch định:
Công ty vật liệu điện và dụng cụ cơ khí ELMACO đã có phương pháp để xây dựng kế hoạch kinh doanh của mình trong những năm tới như sau:
Tạo lập các căn cứ để xây dựng mục tiêu- kế hoạch kinh doanh của Công ty. Căn cứ vào tốc độ phát triển kinh tế của đất nước và chỉ số tăng trưởng của toàn ngành, của Bộ thương mại trong những năm trước, các chỉ thị và định hướng chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước và các bộ ngành có liên quan.
Kết quả nghiên cứu thị trường là cơ sở để xác định ngành hàng kinh doanh trong đó cần tạo ta ngành hàng chủ lực về quy mô và cơ cấu mặt hàng, hệ thống khơi nguồn hàng và tổ chức kinh doanh bán hàng, xác định các thị trường có triển vọng.
Phân tích và đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu chỉ tiêu kế hoạch của những năm trước để từ đó có được những hướng phát triển đúng đắn cho những năm tiếp theo.
b.Công tác tổ chức:
Để có được sự thích ứng với sự biến động của môi trường và đòi hỏi của công tác quản lý kinh doanh, Công ty đã tổ chức mô hình quản lý theo cơ cấu trực tuyến chức năng, ưu điểm của mô hình này là gọn nhẹ, linh hoạt và năng đông, các nhân viên có cơ hội hòan thành tốt công việc của mình và cùng với sự hoàn thiện của hệ thống kế hoạch hóa chiến lược nên đã tạo ra được một nề nếp tổ chức và cơ cấu tổ chức khá phù hợp với việc hoạch định và tổ chức thực hiện các chiến lược kinh doanh của Công ty. Điều quan trọng góp phần vào sự thành công của Công ty đó là năng lực và kinh nghiệm quản lý của ban lãnh đạo cùng với sự nhận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo tại công ty vật liệu Điện và dụng cụ cơ khí (ELMACO).doc