Báo cáo thực tập tốt nghiệp Thực trạng quản lý rác thải sinh hoạt tại chợ xã Long An và Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang

Toàn địa bàn có 221 cơ sở sản xuất kinh doanh có liên quan đến môi trường bao gồm: cơ sở sản xuất nước đá, xay xát lúa gạo, kinh doanh vật tư nông nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật, mua bán phế liệu và sản xuất khô cá tra phồng, trong đó có 91 cơ sở đã đăng ký cam kết bảo vệ môi trường, các cơ sở còn lại không đăng ký do quy mô sản xuất nhỏ. Do Tân Châu có thế mạnh trong lĩnh vực xay xát (chủ yếu ở xã Long An và Tân An) nên vào vụ lúa nhiều nhất là vụ Đông xuân và vụ ba giá lúa tăng cao nên các nhà máy đã hoạt động hết công suất, lượng trấu thải ra nhiều quá mức không có kho chứa nên đã thải xuống sông gây ô nhiễm môi trường (Trần Thị Thu Hiền, 2010).

Về nước thải: khu vực trung tâm thị xã có 17.393m cống thoát nước và nguồn tiếp nhận nước thải là ao lắng có trồng lục bình với diện tích 6.000m2 trên địa bàn khóm Long Thị D, phường Long Thạnh (Trần Thị Thu Hiền, 2010). Các chợ xã thì chỉ có cống dẫn nước và chất thải được thải ra kênh nội đồng gây ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản tự nhiên và góp phần ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp ở địa phương.

 

doc36 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 7909 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo thực tập tốt nghiệp Thực trạng quản lý rác thải sinh hoạt tại chợ xã Long An và Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
02, được Cục Sở Hữu Trí Tuệ Việt Nam cấp bằng độc quyền sáng chế số 4631. Công nghệ Saraphin đã được đầu tư áp dụng tại thị xã Sơn Tây (tỉnh Hà Tây cũ). Công nghệ Seraphin là sự kết hợp của đa hợp phần công nghệ bao gồm: phân loại rác thải, xử lý cơ học – sinh học – nhiệt và tái chế các vật liệu khác nhau, nhằm đạt được hiệu quả xử lý và thu hồi cao nhất từ chất thải, giảm thiểu tối đa các phần chất thải phải chôn lấp. Nhà máy xử lý RTSH đô thị theo công nghệ Seraphin gồm 5 hợp phần công nghệ: chất thải rắn đô thị được phân loại và xử lý sơ bộ bằng các phương pháp thủ công và cơ học thành 4 loại chính, phù hợp với các quá trình công nghệ tiếp theo: Hợp phần công nghệ ủ phân compost: xử lý rác thải hữu cơ dễ phân hủy Hợp phần công nghệ đốt thu hồi nhiệt: xử lý hỗn hợp hữu cơ khó phân hủy Hợp phần công nghệ tái chế nhựa: xử lý phế thải dẻo Hợp phần công nghệ đóng rắn sản xuất vật liệu xây dựng: xử lý hỗn hợp vô cơ trơ Tuy nhiên, qua 4 năm thực hiện (2005 – 2009) hợp phần xử lý rác bằng công nghệ vi sinh và tái chế nhựa đã phát sinh nhiều điểm hạn chế như: giá bán phân compost, nhựa tái sinh quá thấp, thành phần rác đầu vào có sự thay đổi so với thời điểm khảo sát năm 2004 làm hạn chế khả năng xử lý của nhà máy. Vì vậy, tháng 02/2010 thành phố Hà Nội đã chấp thuận cho Công ty Cổ phần Công nghệ Môi trường Seraphin được chuyển đổi công nghệ tại khu xử lý rác Sơn Tây từ công nghệ xử lý rác tái chế nhựa và sản xuất compost sang công nghệ đối với công suất 300 tấn.ngày-1. 2.2.4.4. Quản lý rác thải theo phương thức 3R Theo Đoàn Thị Uyên Trinh và Nguyễn Văn Quán (2010), trong quản lý và xử lý chất thải rắn hiện nay, vấn đề được quan tâm nhất là phương thức quản lý đồng bộ chất thải rắn 3R (Reduce – Giảm thiểu, Reuse – Tái sử dụng, Recycle – Tái chế) để giảm thiểu lượng chất thải rắn phải chôn lấp. Phương thức 3R được coi là giải pháp để ngăn ngừa các vấn đề suy thoái môi trường, tiết kiệm nguồn tài nguyên, tiết kiệm chi phí thu gom và xử lý rác thải, giảm thiểu quỹ đất cần cho chôn lấp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện 3R ở Việt Nam vẫn tồn tại một số khó khăn như sau: Reduce – Giảm thiểu: giảm thiểu là công việc khó khăn nhất vì lý do công nghệ, tổ chức sản xuất và nhân lực… còn chưa phù hợp, việc giảm thiểu chất thải trong các hoạt động sản xuất, dịch vụ, tiêu dùng đến nay vẫn chưa được chú trọng. Reuse – Tái sử dụng: mới bắt đầu áp dụng, đang tiếp tục nghiên cứu để định ra hướng đi có hiệu quả. Recycle – Tái chế: còn mang tính tự phát, chưa có định hướng. Hoạt động tái chế hiện nay vẫn chưa xem chất thải rắn là nguồn nguyên liệu nên thiếu cách tiếp cận đúng mực. Hơn nữa, vấn đề môi trường trong quá trình tái chế, sản phẩm của tái chế như thế nào trong quan hệ với tài nguyên, môi trường cũng chưa được nghiên cứu. Đối với vần đề chất thải nói chung trong quá trình sản xuất thì định luật Bảo toàn vật chất của Newton hoàn toàn đúng, tất cả nguyên vật liệu tham gia vào quá trình sản xuất cuối cùng đều thải vào môi trường, khác nhau ở chỗ thời gian thải vào đó nhanh hay chậm, như các phế phẩm của sản xuất, nước thải, khí thải, chất thải rắn. Chất thải được thải vào môi trường ngay trong quá trình sản xuất, còn sản phẩm cuối cùng sẽ được thải vào môi trường sau khi đã qua sử dụng, mặc dù có tái sử dụng, tái chế như thế nào đi nữa thì cuối cùng chúng cũng đi vào môi trường và trở thành rác thải. Đôi khi chính việc tái chế có thể làm tăng thêm độc tính của sản phẩm hay tạo ra các chất ô nhiễm môi trường hơn thông qua việc tái chế tự do, không có khoa học. Do đó việc giảm thiểu và phân loại chất thải rắn ở đây cần được quan tâm nhiều hơn, nhìn nhận trong phạm vi rộng hơn, không chỉ là kêu gọi mọi người giảm thiểu, tái chế, tái sử dụng mà còn phải đưa ra chiến lược giảm thiểu, tái chế và tái sử dụng, sau đó đạt được mục đích cuối cùng là giảm việc phát thải và xả thải vào môi trường, hạn chế gây ô nhiễm môi trường từ chất phải rắn. Chương 3 Phương pháp nghiên cứu 3.1. Tổng quan địa bàn nghiên cứu 3.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành thị xã Tân Châu Năm 1837 Tân Châu là một trong những đô thị lớn vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), là cầu nối quan trọng với Campuchia do có cửa khẩu quốc tế. Năm 1870 Tân Châu là trung tâm kinh tế - văn hóa của vùng cù lao biên giới. Nhưng An Giang phát triển chủ yếu ở thành phố Long Xuyên và thị xã Châu Đốc, còn các vùng khác chiếm 75% diện tích và 74% dân số thì không có một vùng nào có quy mô đáp ứng nhu cầu phát triển KTXH của tỉnh (Bùi Thụy Đào Nguyên, 2010). Ngày 22/05/2007 Thủ tướng có Quyết định số 71/2007/QĐ-TTg về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển KTXH tỉnh An Giang đến năm 2020, nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, xây dựng An Giang thành địa bàn kinh tế mở, đầu mối thông thương giữa các tỉnh khu vực ĐBSCL với Campuchia và các nước Châu Á khác. Tăng cường, chủ động hội nhập và tích cực khai thác tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ tài nguyên và môi trường. Kết hợp tốt giữa công nghiệp hoá nông nghiệp – hiện đại hoá nông thôn với mở rộng và xây dựng mới các khu đô thị và các vùng kinh tế trọng điểm, có công nghiệp và dịch vụ phát triển năng động. Đến cuối năm 2007, Tân Châu được công nhận là đô thị loại IV, theo đó Chính phủ định hướng nhằm đưa khu vực Tân Châu – Vĩnh Xương trở thành đầu tàu kinh tế, lôi kéo các vùng khác phát triển, đưa Tân Châu trở thành trung tâm kinh tế văn hóa của vùng biên giới phía Bắc tỉnh An Giang (Nguyễn Tấn Dũng, 2007). Do có vai trò vị trí chiến lược quan trọng và đã có bước phát triển KTXH ổn định nên Tân Châu được công nhận là thị xã vào tháng 08/2009 nhằm khai thác những tiềm năng lợi thế để thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh phát triển trong giai đoạn mới, thị xã Tân Châu cùng với thị xã Châu Đốc và thành phố Long Xuyên trở thành tam giác tăng trưởng của tỉnh An Giang. Tân Châu Hình 1: Vùng tam giác tăng trưởng tỉnh An Giang Nguồn: Đề án UBND tỉnh An Giang, 2008 3.1.2. Vị trí địa lý Tân Châu là một thị xã nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh An Giang, thuộc phạm vi từ 10o47’53’’ đến 10o55’33’’ vĩ độ Bắc và từ 105o07’25’’ đến 105o14’45’’ kinh độ Nam, là điểm đầu nguồn của sông Tiền khi chảy vào Việt Nam. Thị xã Tân Châu gồm có 5 phường (Long Châu, Long Hưng, Long Phú, Long Thạnh, Long Sơn) và 9 xã (Phú Lộc, Vĩnh Xương, Vĩnh Hòa, Tân Thạnh, Tân An, Long An, Châu Phong, Lê Chánh, Phú Vĩnh). Vị trí tiếp giáp: Phía Bắc giáp quận Lecdec, tỉnh Kandal (Campuchia) Phía Nam giáp huyện Phú Tân Phía Đông giáp thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp Phía Tây giáp thị xã Châu Đốc và huyện An Phú Với điều kiện như thế, Tân Châu càng phát huy được thế mạnh của vùng, thuận lợi cho việc giao thương hàng hóa với các khu vực xung quanh, đặc biệt là với Campuchia và các nước Châu Á khác, đồng thời phát triển mạnh lợi thế của mình là dịch vụ và du lịch góp phần thúc đẩy KTXH của tỉnh. Vùng nghiên cứu Hình 2: Bản đồ hành chính thị xã Tân Châu Nguồn: Đề án UBND tỉnh An Giang, 2008 3.1.3. Điều kiện tự nhiên Thị xã Tân Châu mang đặc trưng khí hậu vùng ĐBSCL, mỗi năm chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 dương lịch, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 dương lịch (Võ Thị Hồng Ngọc, 2010). Nhiệt độ trung bình năm 2009 là 27,5oC, tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất là tháng 4 (28,9oC) và tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất là tháng 1 (24,6oC). Và độ ẩm trung bình là 81,7%, tháng có độ ẩm trung bình cao nhất là tháng 5 (85%), tháng có độ ẩm trung bình thấp nhất là tháng 1 (78%) (Phòng Thống kê thị xã Tân Châu, 2009). Nhìn chung khí hậu của vùng tương đối thuận lợi cho hoạt động du lịch. Đây là khu vực chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới ẩm, đồng thời số lượng kênh rạch tương đối nhiều và phân bố chằng chịt cũng là nguồn cung cấp ẩm cho khí hậu. Một đặc điểm khác khá thuận lợi đối với việc phát triển du lịch là ít chịu ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt như giông, bão... Bên cạnh đó, độ ẩm cao gây ra những khó khăn trong công tác xử lý rác thải tại địa phương, làm giảm hiệu quả phương pháp đốt rác, đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi để nhiều vi sinh vật phát triển, đa số là các vi sinh vật có hại cho con người, cây trồng và vật nuôi. 3.1.4. Kinh tế, văn hóa và xã hội Theo Phòng Thống kê thị xã Tân Châu (2009), toàn thị xã có 43.358 hộ với 171.305 nhân khẩu, mật độ dân số 970 người.km-2, trong đó dân tộc thiểu số có 5.613 người chiếm 3,71% tổng dân số toàn thị xã, có 1.661 hộ nghèo chiếm 3,83% tổng số hộ. Trong đó số người trong độ tuổi lao động là 109.969 người, chiếm khoảng 64,2% tổng dân số. Do vậy, thị xã Tân Châu là vùng có mật độ dân số khá cao so với các huyện khác trong tỉnh An Giang, việc tập trung khá đông dân cư như vậy dễ gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng, gây khó khăn cho đội ngũ y tế ở địa phương. Về thành phần dân tộc thị xã Tân Châu gồm có các thành phần dân tộc: dân tộc Kinh chiếm hơn 96,7%, dân tộc Chăm (tập trung chủ yếu ở xã Châu Phong) chiếm hơn 2,7% dân số, còn lại là các dân tộc khác như: Khmer, Hoa. Bên cạnh đó, thị xã Tân Châu đa dạng về tôn giáo, phần lớn là Đạo Phật, Phật Giáo Hòa Hảo, đặc biệt có Đạo Hồi của người dân tộc Chăm (thị xã Tân Châu là vùng có dân tộc Chăm tập trung đông nhất ĐBSCL). Văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc thu hút nhiều khách du lịch bao gồm du khách trong nước và ngoài nước đến tham quan và thưởng thức những món ăn độc đáo của vùng. Về mặt kinh tế, thị xã Tân Châu có nhiều đề án phát triển KTXH nhưng trọng điểm là đề án phát triển TM – DV và Du lịch giai đoạn 2008 – 2015 với mục đích xây dựng một nền TM – DV và Du lịch tại địa phương phát triển vững mạnh và hiện đại, coi trọng phát triển các doanh nghiệp nhỏ, các hộ kinh doanh, khuyến khích và thúc đẩy quá trình hình thành các doanh nghiệp lớn. Phát huy vai trò và vị trí của Thương mại, các loại hình Dịch vụ và Du lịch tại địa phương trong việc định hướng và thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tề và tăng trưởng kinh tế. Đề án dựa vào các thế mạnh: tỷ trọng TM – DV chiếm trên 50% qua các năm, du lịch với nhiều điểm thu hút khách đến tham quan du lịch như khu du lịch văn hóa Núi Nổi, du lịch trên sông, các công trình tôn giáo đặt trưng như: chùa Thiên Hoa, Bửu Sơn Kỳ Hương, Thánh Thất Cao Đài, Thánh Đường Hồi Giáo, tham gia các lễ hội văn hóa của dân tộc Chăm (Nguyễn Văn Lên, 2008). Do vậy, thị xã Tân Châu được xem là một trong bảy địa bàn du lịch trọng điểm của tỉnh An Giang với lợi thế vùng sông nước, tính đa dân tộc, đó là nền móng vững chắc và tốt đẹp cho sự phát triển của tỉnh An Giang trong những năm thực hiện đề án xây dựng nông thôn mới. 3.1.5. Môi trường Toàn địa bàn có 221 cơ sở sản xuất kinh doanh có liên quan đến môi trường bao gồm: cơ sở sản xuất nước đá, xay xát lúa gạo, kinh doanh vật tư nông nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật, mua bán phế liệu và sản xuất khô cá tra phồng, trong đó có 91 cơ sở đã đăng ký cam kết bảo vệ môi trường, các cơ sở còn lại không đăng ký do quy mô sản xuất nhỏ. Do Tân Châu có thế mạnh trong lĩnh vực xay xát (chủ yếu ở xã Long An và Tân An) nên vào vụ lúa nhiều nhất là vụ Đông xuân và vụ ba giá lúa tăng cao nên các nhà máy đã hoạt động hết công suất, lượng trấu thải ra nhiều quá mức không có kho chứa nên đã thải xuống sông gây ô nhiễm môi trường (Trần Thị Thu Hiền, 2010). Về nước thải: khu vực trung tâm thị xã có 17.393m cống thoát nước và nguồn tiếp nhận nước thải là ao lắng có trồng lục bình với diện tích 6.000m2 trên địa bàn khóm Long Thị D, phường Long Thạnh (Trần Thị Thu Hiền, 2010). Các chợ xã thì chỉ có cống dẫn nước và chất thải được thải ra kênh nội đồng gây ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản tự nhiên và góp phần ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp ở địa phương. Về rác thải: toàn thị xã chỉ có một bãi chứa rác thải được thành lập năm 1995 với diện tích 6.800m2, chủ yếu thu gom rác cho các khu vực trung tâm thị xã, xã Lê Chánh, xã Phú Vĩnh, một phần xã Châu Phong và khu vực chợ xã Long An. Các xã còn lại vẫn chưa có khu xử lý rác thải nên người dân tự quản lý rác thải, do vậy công tác bảo vệ môi trường của thị xã gặp nhiều khó khăn. Nhìn chung, hiện trạng ô nhiễm môi trường tại nội ô thị xã được đảm bảo, chỉ có các khu vực nông thôn thì chưa đảm bảo, do ý thức của người dân và chính quyền địa phương chưa quan tâm đến việc quản lý rác thải từ các hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn. 3.2. Phương pháp thu thập số liệu 3.2.1. Số liệu thứ cấp Các nguồn số liệu thứ cấp bao gồm: Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2010 của ban Công trình Công cộng (BCTCC) thị xã Tân Châu Báo cáo về thực trạng ô nhiễm môi trường trên địa bàn thị xã Tân Châu 2010 Kế hoạch thu gom rác thải tại thị xã Tân Châu năm 2010 Công văn số 615 ngày 23/09/2009 của UBND tỉnh An Giang Danh sách chợ dự kiến thực hiện kế hoạch vệ sinh môi trường Niên giám thống kê thị xã Tân Châu năm 2009 Ngoài ra những thông tin thu thập được từ các nghiên cứu trước, từ sách và internet. 3.2.2. Số liệu sơ cấp Đề tài chỉ sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu, phỏng vấn bằng bảng câu hỏi và dùng phương pháp quan sát trực tiếp làm phương pháp chính trong nghiên cứu để thu thập, tiếp cận thông tin có liên quan đến đề tài. 3.2.2.1. Phương pháp quan sát trực tiếp Mục đích: Tìm hiểu thực trạng quản lý RTSH của nông hộ và tình hình ô nhiễm môi trường do RTSH tại vùng nghiên cứu để đối chiếu với các số liệu thứ cấp đã thu thập được. Tiêu chí chọn mẫu: Tiến hành quan sát trực tiếp trên kênh Xáng, trong chợ chính thuộc 2 xã và xung quanh nhà người dân. Cách tiến hành: Quan sát bằng mắt thường ở những điểm đã chọn. 3.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu Mục đích: Tìm hiểu thông tin về hiện trạng quản lý rác thải của chính quyền địa phương, đồng thời tìm hiểu về đời sống, sinh hoạt, phương pháp quản lý và xử lý rác thải của người dân trên địa bàn nghiên cứu theo nhận định chung của chính quyền địa phương và thông tin về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường theo nhận định của các chuyên gia, cán bộ các phòng ban thị xã Tân Châu. Đồng thời tìm hiểu kế hoạch quản lý RTSH của địa phương trong thời gian tới. Tiêu chí chọn mẫu: Chọn những người am hiểu về những thực trạng ở địa phương về tình hình quản lý rác thải là 5 người (bao gồm: cán bộ phòng Tài nguyên – Môi trường, phòng Kinh tế, cán bộ ban Công trình Công cộng thị xã Tân Châu, cán bộ môi trường xã Long An và Châu Phong). Cách tiến hành: Tiến hành trao đổi, tiếp xúc với các đối tượng đã chọn khi chuẩn bị xong các thông tin cần thu thập (Phụ chương A). 3.2.2.3. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng câu hỏi Mục đích: Tìm hiểu thông tin về đời sống sinh hoạt, phương thức quản lý RTSH, nhận định về môi trường, đánh giá về rác thải của người dân, đề xuất và kiến nghị của người dân với chính quyền địa phương về vấn đề RTSH. Tiêu chí chọn mẫu: Phỏng vấn ngẫu nhiên 40 hộ bao gồm: 20 hộ thuộc ấp Long Hiệp, xã Long An (5 hộ sống trên hành lang sông, 10 hộ sống gần chợ và 5 hộ sống trong chợ) và 20 hộ thuộc ấp Vĩnh Tường I, xã Châu Phong (10 hộ sống gần chợ và 10 hộ sống trong chợ). Cách tiến hành: Sử dụng bảng câu hỏi đã được soạn sẵn tiến hành phỏng vấn ngẫu nhiên những hộ trong chợ chính, gần chợ chính của 2 xã (Phụ chương B). 3.3. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu sau khi thu thập được xử lý bằng Microsoft Office Excel 2003. Với mục đích tính tỷ lệ % của nông hộ bằng cách kết hợp tính năng Data Validation và hàm COUNTIF trong Excel, sau đó dùng các phép tính cơ bản trong toán học để tính. Chương 4 Kết quả nghiên cứu 4.1. Thực trạng quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt ở thị xã Tân Châu Hiện nay, trên địa bàn thị xã Tân Châu nói chung, vấn đề ô nhiễm môi trường từ các hoạt động của các cơ sở sản xuất kinh doanh, hộ gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, những hộ buôn bán trong chợ thải chất thải ra môi trường không đúng quy định về bảo vệ môi trường, trong nhiều năm nay gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt, sản xuất của người dân và công tác quản lý của Nhà nước. Do đó, BCTCC thị xã Tân Châu đã tổ chức thu gom rác thải ở các tuyến đường chính trong nội ô thị xã gồm 5 phường (Long Châu, Long Hưng, Long Phú, Long Thạnh, Long Sơn), 3 xã thuộc dự án Bắc Vàm Nao (Phú Vĩnh, Lê Chánh và Châu Phong) và 1 phần của xã Long An (gồm khu vực chợ chính của xã có xe kéo tay thu gom). Còn ở các xã Vĩnh Xương, Vĩnh Hòa, Phú Lộc, Tân Thạnh, Tân An và phần còn lại của xã Châu Phong là do người dân tự quản lý, vì không có bãi rác chứa và không có tuyến đường thu gom. Tại chợ xã Long An (ấp Long Hiệp) được BCTCC tổ chức thu gom rác bằng cách cho nhân viên đến lấy rác bằng xe kéo tay, sau đó tập trung rác tại bãi trung chuyển và dùng xe rác vận chuyển về bãi rác thị xã Tân Châu để xử lý. Ngoài ra, các khu vực khác của xã thì chưa được tổ chức thu gom nên người dân tự quản lý, đa số các hộ thường vứt rác xuống mái taluy của các tuyến dân cư, vứt xuống sông, kênh rạch gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề này đã đến mức cảnh báo, nếu không được sớm khắc phục thì sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống của cộng đồng xã hội. Khu vực chợ Châu Phong (ấp Vĩnh Tường I) tình hình thu gom rác thải cũng giống như tại chợ xã Long An. Tuy nhiên, có sự khác biệt là không có nhân viên thu gom rác bằng xe đẩy tay mà là xe chuyên dùng vận chuyển rác đến tận chợ để thu gom, trong quá trình thu gom rác mỗi ngày nên xe chở rác không được vệ sinh, vì vậy khi đến lấy rác tại nông hộ, xe rác mang lại mùi hôi khó chịu, điều này ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người dân trong chợ, và những người sống ven tuyến đường xe chuyển rác đi qua cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ (Phỏng vấn sâu, 2010). Tổng số lao động thu gom rác thải của BCTCC là 22 người trong đó có 4 tài xế. Phương tiện thu gom là 3 xe chuyên dùng, 1 xe kobe loại 3 và 30 xe đẩy tay, 142 thùng nhựa chứa rác. Tổng lượng rác thu gom mỗi ngày (không được phân loại) do BCTCC tổ chức thu gom là 40 tấn.ngày-1, rác thải sau khi thu gom được vận chuyển về bãi rác thị xã Tân Châu tại khóm Long An B, phường Long Phú cách khu dân cư 500m và được xử lý bằng phương pháp cào phơi đốt, chôn lắp và phun hóa chất E.M khử mùi hôi (Phỏng vấn sâu, 2010). Phương pháp phơi đốt: đây là phương pháp cổ điển, dễ thực hiện, phụ thuộc vào khí hậu và ẩm độ của vùng, phương pháp này thường được áp dụng vào mùa khô. Tuy nhiên, phương pháp này không thể áp dụng với các loại rác ướt như thực phẩm thừa, rau quả. Hộp thông tin số 1: Theo Ông V.P.P, 42 tuổi cho biết: “Việc xử lý rác thải có nhiều phương pháp. Tuy nhiên, việc xử lý bằng phương pháp đốt đang được áp dụng chưa mang tính khả thi cao vì rất tốn công để phân loại rác nào phù hợp với cách xử lý nào, đặc biệt các loại thức ăn thừa như cơm, canh… thì không thể đốt mà chỉ thải chúng xuống hố, xuống mương để chúng tự phân hủy hay cho chúng vào bọc nilon rồi vứt xuống sông” (ấp Long Hiệp, xã Long An, ngày 07/12/2010). Xử lý bằng phương pháp chôn rác: đây là phương pháp được nhiều người ủng hộ do hiệu quả xử lý cao, tất cả các loại rác đều có thể đổ xuống hố để phân hủy từ từ. Bên cạnh những lợi ích trước mắt mà người dân không nghĩ đến việc ô nhiễm môi trường đất gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp của địa phương, ô nhiễm mạch nước ngầm gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe những người sử dụng nước giếng, nước sông. Phun hóa chất E.M: đây là phương pháp được BCTCC áp dụng phun định kỳ 7 ngày.lần-1 với mục đích khử mùi, diệt côn trùng gây bệnh như ruồi, muỗi, gián, chuột. Do hiện nay bãi rác thị xã đã quá tải nên phương pháp này không mang lại hiệu quả cao. Chợ Hộ gia đình Thu gom rác thải Vận chuyển rác Xử lý rác tại bãi rác Phơi đốt rác (khoảng 40%) Chôn rác Phun hóa chất khử mùi Hình 3: Sơ đồ biện pháp xử lý rác thải tại thị xã Tân Châu Nguồn: Phỏng vấn sâu, 2010 Theo báo cáo của BCTCC (2010) về công tác thu phí vệ sinh môi trường, đối với những hộ nằm trên tuyến đường thu gom rác thải sẽ được áp dụng ở mức 6.000 đồng.hộ.tháng-2 (thuộc khu vực nông thôn) và 10.000 đồng.hộ.tháng-2 (thuộc nội ô thị xã). Theo mức phí này thì đa số hộ dân đều chấp nhận nhưng hiệu quả xử lý rác thải của BCTCC chưa cao nên tình trạng ô nhiễm môi trường do RTSH vẫn còn tiếp diễn tại các hộ gia đình và nhất là khu vực chợ. Đối với một số hộ gia đình chỉ 2 – 3 thành viên thì họ không chấp nhận vì lượng rác thải hàng ngày của họ là rất ít, có khi 2 – 3 ngày chỉ có một túi nilon rác nhỏ mà phải đóng phí như vậy, đều này gây nhiều trở ngại cho công tác thu phí. Bên cạnh đó, còn có một số hộ dân sống trong khu vực chợ xã Châu Phong không đồng ý vì đã đóng phí vệ sinh môi trường rồi, nhưng cứ 2 – 3 ngày mới có người đến gom rác một lần nên dẫn đến tình trạng thùng rác quá tải, tràn ra ngoài gây ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh trong chợ của một số hộ dân. Từ đó, tác động xấu đến môi trường không khí làm cho người dân trong chợ hàng ngày luôn đối mặt với mùi hôi thối, ảnh hưởng đến sức khỏe của họ. Hộp thông tin số 2: Theo N.T.T, 43 tuổi cho biết: “Tôi bán tạp hóa và trái cây trong chợ, tôi cũng đóng phí thu gom rác hàng tháng đầy đủ, rác thải ra mỗi ngày tôi đều đem đến thùng rác nhưng cứ 2 – 3 ngày xe rác mới đến thu gom 1 lần, nên thùng rác đầy rồi tràn ra ngoài bốc mùi hôi làm cho khách hàng cũng ngại đến mua hàng hóa của tôi, còn gây ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của gia đình tôi” (ấp Vĩnh Tường I, xã Châu Phong, ngày 07/12/2010). 4.2. Tác động của rác thải sinh hoạt đến đời sống người dân 4.2.1. Ý thức của người dân trong việc quản lý rác thải sinh hoạt Theo kết quả phỏng vấn nông hộ (2010), có đến 70% dụng cụ chứa rác của người dân là bọc nilon, đây là rác thải được người dân tái sử dụng để chứa rác rất phổ biến vì nó tiện lợi và ít tốn chi phí mua dụng cụ chứa rác. Còn lại là những hộ dân có dụng cụ chứa rác, chủ yếu là thùng nhựa đựng thức ăn thừa và bọc nilon dùng để đựng RTSH. Bảng 1: Dụng cụ chứa rác của người dân Dụng cụ chứa rác Số lượng hộ Tỷ lệ % Bọc nilon 28 70 Thùng nhựa, sọt rác 12 30 Dụng cụ khác 0 0 Tổng 40 100 Nguồn: Phỏng vấn nông hộ, 2010 Đa số người dân địa phương biết về tác hại của rác thải, nó có ảnh hưởng đến môi trường và cộng đồng, họ cũng hiểu rác thải là nguyên nhân lây truyền mầm bệnh, gây mùi hôi thối, gây mất cảnh quan đô thị. Theo kết quả phỏng vấn nông hộ (2010), có 70% hộ dân vứt rác bừa bãi như: vứt xuống sông, kênh, rạch (đối với những hộ dân không đóng phí vệ sinh), còn những nơi hộ dân có tham gia vứt rác đúng nơi quy định thì do người thu gom rác, cứ 2 – 3 ngày thu gom 1 lần làm cho dụng cụ chứa rác quá tải gây hôi thối nên người dân nơi đây cũng phải vứt rác bớt đi nơi khác để tránh tình trạng ô nhiễm hơn. Người dân chỉ thấy giảm tác hại trước mắt mà không nghĩ về ảnh hưởng của rác thải trong tương lai và ảnh hưởng đến những người xung quanh nói riêng và các khu vực khác nói chung (do rác được vứt xuống sông, kênh được lưu chuyển theo dòng chảy). Vứt rác theo thói quen là nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm môi trường của địa phương, đồng thời gây mất cảnh quan đô thị, mang lại khó khăn cho công tác thu gom rác và giữ gìn môi trường. Bảng 2: Nhận định của người dân về rác thải Tác hại của rác thải Số lượng hộ Tỷ lệ % Rác thải có hại 28 70 Rác thải không hại 0 0 Không biết 12 30 Tổng 40 100 Nguồn: Phỏng vấn nông hộ, 2010 Qua quan sát thực tế (2010) cho thấy ý thức vệ sinh môi trường của các hộ dân vẫn còn thấp, rác thải vẫn còn nhiều ở ven đường, dọc theo kênh Xáng và hầu hết rác thải được chứa trong bọc nilon được người dân vứt xuống sông, kênh tự nhiên. Nhưng chính quyền địa phương vẫn chưa có quan tâm cao về vấn đề rác thải, chưa có các hình thức tuyên truyền tốt cho người dân về ý thức bảo vệ môi trường, chưa áp dụng hình thức chế tài để người dân vứt rác đúng nơi quy định. Từ đó, đã tạo cho người dân thói quen vứt rác bừa bãi, gây tác động xấu đến môi trường nói chung và ảnh hưởng đến quá trình phát triển KTXH của thị xã Tân Châu nói riêng. Hộp thông tin số 3: Theo P.A.V, 47 tuổi, cán bộ Địa chính – Môi trường xã Long An cho biết: “Nếu chính quyền địa phương phát hiện người dân vứt rác bừa bãi, vứt rác xuống sông thì chỉ la rầy, nhắc nhở người dân ý thức hơn trong việc bảo vệ môi trường chứ không có phạt gì” (xã Long An, ngày 03/12/2010). Phần lớn, ý thức của người dân được quyết định thông qua 2 chỉ tiêu là trình độ học vấn và nghề nghiệp của họ (Trần Thị Thu Hiền, 2010). Đa số người dân trong vùng đều biết đọc, biết viết chiếm 80%. Trong đó, chủ hộ có trình độ tiểu học chiếm 55%, trung học cơ sở chiếm 22,5%, trung học phổ thông chiếm 2,5%, mù chữ chiếm 20% và không có trình độ đại học, cao đẳng (Phỏng vấn nông hộ, 2010). Qua đó cho thấy trình độ học vấn của nông hộ vẫn còn thấp và điều này ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng tiếp cận thông tin, tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật hay các cơ hội việc làm khác. Bên cạnh đó, trình độ học vấn còn tác động đến ý thức của họ trong các hoạt động như vệ sinh môi trường, quản lý rác thải. Bảng 3: Cơ cấu trình độ học vấn của nông hộ Trình độ học vấn Số lượng hộ Tỷ lệ % Mù chữ 8 20 Tiểu học 22 55 Trung học cơ sở 9 22,5 Trung học phổ thông 1 2,5 Cao đẳng, Đại học 0 0 Tổng 40 100 Nguồn: Phỏng vấn nông hộ, 2010 Theo kết quả phỏng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnoi dung day du.doc
  • docBìa.doc
  • docDS Bảng Hình_da sua.doc