Lạng Sơn là vùng có diện tích rộng trong toàn quốc, nơi đây là một vị trí chiến lược hét sức quan trọng, là đầu mối giao thông lớn giữa Việt Nam – Trung Quốc. Vùng thành phố lạng Sơn nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam có đặc điểm khá đặc biệt về mặt kiến tạo cũng như lịch sử phát triển địa chất. Nơi đây phân bố các thành tạo carbonat, lục nguyên, magma phun trào axit và mafic có tuổi khác nhau từ Cacbon đến Neogen.
Khu vực nghiên cứu nằm trong phân mảng lục địa hoạt hoá kiến tạo Trung Việt trong thời kì cuối Proterozoi – cuối Pleozoi. Sau đó hoạt động tách dãn nội mạng dọc theo đới sông Mã - Sông Đà đã tác động đến vùng nghiên cứu, làm xuất hiện một số đứt gãy sâu – rift theo phương ĐB – TN. Trong vùng hình thành các mảng trùng với cá hoạt động magma dọc theo các đứt gãy đã nêu. vào cuối Trias vùng chịu tác động dồn ép, nâng cao, khép kín các đới căng võng trầm tích, chuyển vùng sang chế độ lục địa. Tuy nhiên ở phía ĐN hoạt động hạ võng trầm tích khép kin các đới căng võng vẫn tiếp tục diễn ra từ Jura qua Creta đến đầu Paleogen tạo nên các dải trầm tích lục địa, các phun trào axit. Một số nơi phát hiện các thành tạo magma bazan liên quan đến các lò ở dưới sâu dạng hotspot.
56 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3238 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập và đo vẽ bản đồ khu vực thành phố Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong khu vực Thành Phố Lạng Sơn,xem set các khu vực xung quanh và căn cứ vào các thành tạo khác già hơn xếp các đá trên vào hệ tầng Đồng Đăng có tuổi Pecmi muộn.
Quan hệ dưới là bất chỉnh hợp trên các đá của hệ tầng Bắc Sơn. Quan hệ trên là quan hệ chỉnh hợp trên các đá cát kết, bột kết của hệ tầng Lạng Sơn. Chiều dày của hệ tầng khoảng 150m.
II. Giới Mesozoi (MZ):
1. Hệ Trias - Thống dưới - Bậc Indi - Hệ tầng Lạng Sơn (T1ils):
Điệp Lạng Sơn do Dovjieov xác lập cho các trầm tích lục nguyên.Cha các hoá đá của hệ tầng này có:
Phần trên:Claraia aurita,C.stachei,Koninckites.
Phần giữa:Claraia kipáiovae,C.retnamica,C.aurita,Lytophiceras.
Phần dưới:Claraia aurita,C.cf.gervillaeformis,C.Kiparisovae,C.stachei,Lytophiceras sp,Posidonia sp,Gyromitida,Eumorphotis sp,Koninckité sp.
Tuy nhiên hiện nay xếp vào hệ tầng Lạng Sơn.
Qua các lộ trình khảo sát cùng với sự thu thập tài liệu của các nhóm khác cho thấy phạm vi lộ ra của hệ tầng Lạng Sơn khoảng 9km2, phân bố ven thành phố Lạng Sơn thành các dải kéo dài. Dải phía Tây kéo dài khoảng 3,5km, dải phía Đông kéo dài theo hướng TB - ĐN dài 8km, phần phía TN thành phố diện phân bố của hệ tầng mở rộng, diện tích gần 10 km2.
Mặt cắt quan sát của hệ tầng này dọc theo tuyến lộ trình Đông Kinh - Bản lỏng và một số tuyến khác. Mặt cắt bao gồm các đá cát kết, bột kết, sét kết có cấu tạo phân nhịp điển hình. Các lớp có chiều dày từ vài cm đến 70-80 cm. Cấu tạo gặp là cấu tạo phân lớp gợn sóng, cấu tạo phân lớp song2 hoặc xiên chéo.Quan hệ dưới với hệ tầng Đồng Đăng là quan hệ chỉnh hợp, đôi nơi có bất chỉnh hợp cục bộ. Quan hệ phía trên là quan hệ chỉnh hợp với hệ tầng Kỳ Cùng.
Bề dày của hệ tầng lớn hơn 300m.
IV.2.2. Hệ Trias - Thống dưới - Bậc Olenec - Hệ tầng Kỳ Cùng (T1okc):
Do Đoàn Kỳ Thạch xác lập năm 1977 trên cơ sở tách biệt Lạng Sơn do A.E Dovjicov xác lập năm 1965 làm hai phần:phần dưới là hệ Lạng Sơn(T1ils),phần trên là hệ tầng Kỳ Cùng (T1o kc)
Phạm vi phân bố của hệ tầng Kỳ Cùng khoảng 1km2 tạo thành hai dải kéo dài theo phương Tây Bắc - Đông Nam.
+ Dải thứ nhất nằm ở phía Tây thành phố dài khoảng 6 km.
+ Dải thứ hai nằm ở phía Đông thành phố dài khoảng 2, 5 km.
Mặt cắt địa tầng được quan sát rõ ràng theo lộ trình Đông Kinh - Nà Pàn. ở khu vực Bản Nà Pàn cấu trúc hệ tầng gồm:
+Phần dưới hệ tầng là các đá vôi màu xam sáng,thành phần chủ yếu là Caco3chứa nhiều tập chất sét.Đá có cấu trúc hạt mịn khá đồng nhất,phân lớp mỏng dày từ 1-2 Cm dến 5-7 Cm.
+Phần giữa của hệ tầng lại xuất hiện tập đá vôi phân lớp mỏng như phần dưới chiều dày10-15 Cm.Ngoài ra còn phân bố các lớp cát kết,bột kết,sét kết,phân nhịp như trên.
+ Phần trên hệ tầng có tập đá vôi dày từ 10-20 Cm phân lớp,dổ về phía Tây Bắc thế nằm 295/_35°.Nằm trên tập đá vôi là lớp sét kết,bột kết hạt mịn,màu vàng,hồng nâu,có thế nằm 300/_15°.Một số nơi trong hệ tầng này gặp các đá như Nodophicerassp,Tritolotes như ở Nà Chuông.
Hệ tầng chỉnh hợp trên các đá của hệ tầng Lạng Sơn,nằm dưới các đá phun trào xen đá lục nguyên của hệ tầng Sông Hiến chứa các hoá đá định tuổi T2a sh.
Hệ tần này có các hoá đá :Conodonta,Prosphingites sp,Columbites sp,Ammonoidea.
Căn cứ vào hoá đá trong hệ tầng,vào quan hệ hệ tầng và giới hạn xác định tuổi địa tầng có tuổi Olenxi ,xếp vào hệ tầng Kỳ Cùng.Quan hệ trên bị các phun trào xen lục nguyên của hệ tầng Sông Hiến phủ chỉnh hợp lên trên.
Chiều dày của hệ tầng này khoảng 250m
IV.2.3. Hệ Trias - Thống giữa - Bậc Anizi - Hệ tầng Khôn Làng (T2 akl):
Năm 1962, Batle xếp phun trào ở đồng bằng Bắc Bộ vào hệ Triat và cũng trong năm 1962 Boarret gọi là miền Khôn Làng.Hệ tầng Khôn Làng do Vaxilepxkaia lập năm 1962 cho trầm tích núi lửa của đới Khôn làng
Phạm vi của hệ tầng Khôn Làng lộ ra khoảng 15 km2, phân bố ở khu vực phía Tây, phía Đông thành phố. ở phía Tây diện lộ khoảng 18 km2, phía Đông kéo dài dạng hình cung hướng về phía Đông.
Mặt cắt của hệ tầng gồm hai phần:
+ Phần dưới chủ yếu ryolit, tuf, tufit. Đá ryolit cấu tạo khối, có màu xám xanh, xanh lục, rắn chắc.
+ Phần trên chủ yếu là cát, bột kết, tufit và cuội kết.
Cơ sở để xác định tuổi cho các đá phun trào là quan hệ của nó với các đá nằm trên và nằm dưới trong vùng.Thấy rõ hiện tượng xuyên cắt gây biến chất tiếp xúc các đá trầm tích của hệ tầng Lạng Sơn.Về cơ bản hệ tầng này nằm phía trên hệ tầng Kỳ Cùng và bị hệ tầng Nà Khuất phủ lên. Chiều dày của hệ tầng là khoảng 450m.
IV.2.4. Hệ Trias – Thống giữa - Bậc Ladini - Hệ tầng Nà Khuất (T2 lnk):
Năm 1964, Proficove đặt tên các trầm tích màu tím là hệ tầng Nà Khuất. Năm 1977, Trần Văn Trị xếp chúng vào bậc Ladini.
Năm 1984, Trần Đăng Tuyết xếp các trầm tích nói trên vào hệ tầng Nà Khuất.
Theo các nghiên cứu của Bộ môn Địa chất Trường Đại học Mỏ - Địa Chất thì các trầm tích lục nguyên cát, bột, sét kết màu vàng, màu tím được xếp vào hệ tầng Nà Khuất. Hệ tầng có diện lộ khoảng 6, 5 km2, phân bố chủ yếu ở phía Đông Bắc Thành phố Lạng Sơn. Các đá là cát, bột, sét kết có màu vàng, màu tím hoặc màu nâu đỏ. Mặt cắt đặc trưng của hệ tầng này là tuyến Cao Lộc - Bản Cảm và Đông Kinh - Lộc Bình. Các đá ở đây phần lớn đổ về phía Đông, ĐN cấu tạo phân lớp từ 20-30cm đến gần 1m có tính phân nhịp khá rõ nét.
Căn cứ vào tuổi của các hoá đá trong cát, bột, sét kết của hệ tầng như chân rìu(Castatoria,Myophria), chân đầu xác định các trầm tích ở đây có tuổi Ladini và xếp vào hệ tầng Nà Khuất. Hệ tầng có quan hệ chỉnh hợp trên hệ tầng Khôn Làng và chỉnh hợp phía dưới với hệ tầng Mẫu Sơn.
Chiều dày của hệ tầng >800m
IV.2.5. Hệ Trias - Thống trên - Bậc Cacni - Hệ tầng Mẫu Sơn (T3cms):
Hệ tầng Mẫu Sơn được Dovjicov xác lập vào năm 1965 hệ tầng này gồm các đá trầm tích có màu đỏ,đỏ nâu.
Phạm vi phân bố khoảng 7km2, nằm chủ yếu ở phía ĐB Thành phố. Mặt cắt quan sát tốt nhất là lộ trình Cao Lộc - Bản Cẳm và Nà Chuông - Còn Lượt, đặc điểm thường thấy hệ tầng này là lớp dăm kết, sạn, cuội kết hạt thô phân lớp dày màu đỏ,đỏ nâu,sau đó là các tập cát kết,bột kết màu sắc tương tự.Phần lớn là các đá đổ về phía Đông- Đông Bắc,Đông nam ,góc dốc 20-60°
Trong hệ tầng thấy các hoá đá :Cá giáp,(Gnathestaca),ngành chân khớp thuộc lớp xác cứng(Crustaceae),Eustheria sp,Pserdosthetia sp.
Trầm tích có một số đặc điểm phân biệt với hệ tâng Nà Khuất như màu sắc sặc sỡ hơn,độ hạt lớn hơn,độ mài mòn kém hơn,phân lớp có chiều dày lớn hơn,lên tới hàng trăm mét,góc dốc có thể đạt 60-70°,tính phân nhịp giảm so với hệ tầng Nà Khuất
Quan hệ trên cho thấy hệ tầng Mẫu Sơn được chuyển tiếp từ từ trên hệ tầng Nà Khuất chỉnh hợp lên trên hệ tầng này.Quan hệ này ở ngoài vùng nghiên cứu bị các trầm tích tuổi Jura phủ bất chỉnh hợp lên trên
Chiều dày của hệ tầng khoảng trên 500m.
IV.2.VI. Hệ Jura - Thống trên - Hệ Creta - Hệ tầng Tam Lung (J3-Ktl):
Hệ tầng Tam Lung được các nhà địa chất của Cục Địa chất xác định khi thành lập bản đồ địa chất 1: 200.000, 1: 50.000 khu vực Lạng Sơn và điều tra địa chất đô thị những năm 1900 - 2000.
Mặt cắt địa tầng ở khu vực Chi Mạc, Khau Mạ gồm các lớp đá cuội kết, vật liệu vụn núi lửa, ryolit porphyr, ryolit đaxit, cát kết hạt thô, sét kết, bột kết màu vàng, màu xám, màu nâu.
Hệ tầng phủ bất chỉnh hợp lên hệ tầng Đồng Đăng, Lạng Sơn, Kỳ Cùng, Khôn Làng, Nà Khuất, Mẫu Sơn và bị phun trào bazan hệ tầng Tam Danh phủ bất chỉnh hợp lên trên. Chiều dày hệ tầng từ 350 - 400m.
IV.2.VII. Hệ Creta - Thống trên - Hệ Paleogen - Hệ tầng Tam Danh (K3- Etd):
Hệ tầng Tam Danh do các nhà địa chất của Cục Địa chất xác lập khi đo vẽ bản đồ địa chất vùng Lạng Sơn vào những năm 1990 – 2000.
Hệ tầng phân bố chủ yếu ở các Bản Lũng Song, Tàng Khâm, Phái Lan, Kéo Cẳng của xã Hoàng Đồng, phía TB vùng nghiên cứu.
Mặt cắt điển hình do Nguyễn Kinh Quốc, 1992 mô tả gồm sạn kết tuf, bazan, cấu tạo vi lỗ hổng, anđezitobazan, bazan dạng cầu gốc, varyolit, bazan lỗ hổng, bazan bị phong hoá có màu đỏ tươi. Đây là thành tạo do quá trình phun trào từ dưới sâu dạng các vòm nhiệt hotspot. Chiều dày của hệ tầng khoảng 200m.
IV.3. Giới Kainozoi (KZ):
IV.3.1. Hệ tầng Na Dương (N1nd)
Năm 1977 Trần Văn Trị đã nghiên cứu và xác lập hệ tầng này.Diện phân bố chủ yếu là phía Đông Bắc dọc theo thung lung Nasa kéo dài từ bản Nà Dảo đến Nà Luông
Mặt cắt quan sát tốt nhất ở khu vực công ty gach ngói Hợp Thành trầm tích hệ tầng Nà Dương gồm hai phần;
– Phần dưới gồm các đá sạn cuội kết,bột kết,sét kết các đá chủ yếu đổ về phía đông,tây,góc dốc từ 30-50° dến80-90°
– Phần trên gồm các đá bột kết,sét kết,cát kết,sạn kết,phân lớp dày không ổn định
Một số nơi trong hệ tầng còn dấu vết chân cày,cú đinh tuổi Mioxen.Trầm tích của hệ tầng này được thành tạo trong một cấu trúc địa chất là địa hào hoạt động tách giãn của đứt gãy Cao Bằng – Lộc Bình –Tiên Yên –Tiên Yên địa hào có dạng kéo dài.Trầm tích sản phẩm vụn thô và sét trong quá trình thành tạo vẫn có biế động đứt gãy,phần phía Tây bị hạ thấp tạo lên dạng chảy,dạng dốc đứng của lớp nằm trên thành tạo sau các đá hệ tầng Nà Dương.Các đá này khá giàu sét felpat,silic...Khi bị phong hoá tạo thành sét Cao lanh màu vàng trắng,vàng loang,đã dùmg làm gạch ốp,ngói,vật liệu xây dựng.
Quan hệ dưới phủ bất chỉnh hợp lên trầm tích hệ tầng Sông Hiến,Nà Khuất,Mẫu Sơn.
IV.3.2. Hệ Đệ Tứ (Q):
Địa tầng Đệ Tứ phân bố ở phía Nam vùng nghiên cứu và dọc theo các suối NaSa, Kikét, LauLi.
Các thành tạo gồm cuội, sạn, cát, bột, sét và mùn hữu cơ. Đây là các lớp bồi tích có chiều dày nhỏ, dạng các bãi bồi, thềm bậc I, bậc II, bậc III của các suối trong vùng và trầm tích hỗn hợp.
Chiều dày từ vài mét đến gần 20m.
CHƯƠNG V: KIẾN TẠO
Lạng Sơn là vùng có diện tích rộng trong toàn quốc, nơi đây là một vị trí chiến lược hét sức quan trọng, là đầu mối giao thông lớn giữa Việt Nam – Trung Quốc. Vùng thành phố lạng Sơn nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam có đặc điểm khá đặc biệt về mặt kiến tạo cũng như lịch sử phát triển địa chất. Nơi đây phân bố các thành tạo carbonat, lục nguyên, magma phun trào axit và mafic có tuổi khác nhau từ Cacbon đến Neogen.
Khu vực nghiên cứu nằm trong phân mảng lục địa hoạt hoá kiến tạo Trung Việt trong thời kì cuối Proterozoi – cuối Pleozoi. Sau đó hoạt động tách dãn nội mạng dọc theo đới sông Mã - Sông Đà đã tác động đến vùng nghiên cứu, làm xuất hiện một số đứt gãy sâu – rift theo phương ĐB – TN. Trong vùng hình thành các mảng trùng với cá hoạt động magma dọc theo các đứt gãy đã nêu. vào cuối Trias vùng chịu tác động dồn ép, nâng cao, khép kín các đới căng võng trầm tích, chuyển vùng sang chế độ lục địa. Tuy nhiên ở phía ĐN hoạt động hạ võng trầm tích khép kin các đới căng võng vẫn tiếp tục diễn ra từ Jura qua Creta đến đầu Paleogen tạo nên các dải trầm tích lục địa, các phun trào axit. Một số nơi phát hiện các thành tạo magma bazan liên quan đến các lò ở dưới sâu dạng hotspot.
Vùng nghiên cứu đã được nhiều nhà địa chất nghiên cứu từ cuối những năm 30 của thể kỉ trước. Năm 1937, J.Fomaget đã thành lập sơ đồ địa chất thời Cacni. Trên sơ đồ này vùng nghiên cứu được tác giả gọi tên là Lạch Lạng Sơn. năm 1937 ông còn thành lập sơ đồ cấu trúc Đông Dương trong đó có vùng Cao Bằng – Lạng Sơn, Lạng Sơn - Đồng Mỏ được goi j là trũng Trias. Giải trũng Cao Bằng – Lạng Sơn theo phương TB - ĐN gần biên giới Việt – Trung là nơi phát triển đứt gãy sâu Cao Bằng – Lộc Bình – Tiên Yên.
Trên cơ sở thu thập tài liệu thực địa, nghiên cứu trong phòng và phân tích lịch sử hình thành cấu trúc khu vực và Việt Nam. Chúng tôi đi đến xác định các đặc điểm kiến tạo vùng TP Lạng Sơn :
A.Phân chia các đơn vị kiến tạo
Vùng Lạng Sơn cũng như các vùng khác trong nước và trên thể giới chắc chắn đã trải qua các giai đoạn phát triển địa chất: Arkeizozoi, Protezozoi, đầu và giữa Paleozoi. Tuy nhiên ở vùng nghiên cứu đá già nhất lộ ra là đá vôi hệ tầng Bắc Sơn. các thành tạo cổ hơn đã bị nhấn chìm xuống sâu tan vào các dung thể magma. Các thành tạo đá vôi còn gặp khá nhiều ở cá vùng lân cận. Phần lớn chúng có thế nằm thoải hoặc uốn nếp yếu, một số nơi chúng nằm khá dốc do tác động của các đứt gãy hoặc do hoạt động uốn nếp mạnh trong giai đoạn đã nêu.
Khu vực Tp Lạng Sơn gồm các tổ hợp thạch kiến tạo(TKT) sau:
1.Tổ hợp thạch kiến tạo thềm lục địa Palezozoi muộn: C - P2bs; P3đđ
2.Tổ hợp thạch kiến tạo rìa lục địa tích cực giữa Mezozoi sớm: T1ils; T1okc
3. Tổ hợp thạch kiến tạo đồng tạo núi Mezozoi giữa: T2lnk; T2akl
4.Tổ hợp thạch kiến tạo trầm tích lục địa: T3cms
5. Tổ hợp thạch kiến tạo trầm tích phun trào, phun trào Mezozoi - Kainozoi:
J3 - K tl; K3 - Etd
6.Tổ hợp thạch kiến tạo nội lục Kainozoi giữa: N1nd
7.Tổ hợp thạch kiến tạo trầm tích hiện đại: Q
Dưới đây là mô tả chi tiết các tổ hợp thạch kiến tạo:
1. Tổ hợp TKT thềm lục địa Paleozoi muộn (PZ3): (C-P2bs, P3đđ)
Bao gồm các tổ hợp Thạch học (TH) Cacbonat - lục nguyên cacbonat và tổ hợp TH lục nguyên cacbonat. Diện phân bố của tổ hợp TKT này là phần trung tâm của Thành phố Lạng Sơn. Tổ hợp TKT này bao gồm các đá trầm tích cacbonat có tuổi Cacbon- Pecmi của các hệ tầng Bắc Sơn và Đồng Đăng. Đá có cấu tạo dạng khối đồng nhất ở phần dưới và phân lớp xen kẽ với các đá trầm tích giàu nhôm ở phần trên. Với sự phong phú các hoá đá san hô và trùng lỗ chứng tỏ các đá này được thành tạo trong môi trường biển nông, nước trong, nóng ấm và gần bờ. Phần trên của tổ hợp TKT này còn xuất hiện các trầm tích lục nguyên, phân tán các thành tạo giàu Al, Fe như các kết hạch Limonit có màu đen và các kết hạch có cấu tạo đồng tâm có màu nâu tím Bauxit.
2. Tổ hợp TKT thềm lục địa tích cực giữa Mezozoi sớm (MZ21) (T1ils, T1okc )
Tổ hợp TKT này được phân bố chủ yếu ở phía Tây, Tây Nam một ít phân bố ở phần trung tâm và ở phía Đông Nam của vùng nghiên cứu. Tổ hợp này bao gồm các đá trầm tích lục nguyên :silit, sét, bột, cát kết tuổi T1ils và một ít thành tạo trầm tích cacbonat tuổi T1okc. Các thành tạo của hệ tầng Kỳ Cùng nằm trên và chỉnh hợp với các thành tạo của hệ tầng Lạng Sơn.
3. Tổ hợp TKT đồng tạo núi cuối Mezozoi giữa :Là các đá của hệ tầng Nà Khuất và hệ tầng Khôn Làng: (T2akl, T2lnk )
Diện phân bố của tổ hợp TKT này gồm ở phía Bắc kéo dài xuống phía Đông Nam và ở phía Tây Nam của khu vực nghiên cứu. Thành phần của tổ hợp TKT này gồm các đá phun trào ryolit, trầm tích lục nguyên và tuf. Như vậy với thành phần thạch học như trên thì có thể nhận định rằng các trầm tích này được thành tạo trong quá trình nâng dần lên của thềm lục địa, môi trường khử, khí hụ khô nóng tạo nên các đá có màu tím gan gà của hệ tầng Nà Khuất. Sau đó kèm theo hoạt động magma thành tạo nên các tuf và đá phun trào riolit.
4.Tổ hợp TH trầm tích lục nguyên: (T3cms )
Tổ hợp TH này bao gồm các lớp cuội kết, sỏi sạn kết, cát kết màu nâu đỏ của hệ tầng Mẫu Sơn. Diện phân bố của tổ hợp TKT này ở phía Đông Bắc kéo dài xuống phía Đông Nam của vùng nghiên cứu. Với thành phần thạch học như trên có thể nhận định rằng các thành tạo này được thành tạo ở chế độ lục địa, được đánh dấu bởi tầng cuội cơ sở. Do được thành tạo trong môi trường khô nóng, môi trường khử nên các trầm tích này có màu sắc sặc sỡ đặc trưng.
5.Tổ hợp TKT phun trào và trầm tích phun trào: (J3-Ktl, K3-Etd )
Tổ hợp TH này gồm các đá của hệ tầng Tam Lung và hệ tầng Tam Danh. Diện phân bố của tổ hợp TH này là ở phía Tây Bắc và một phần ở phía Bắc của khu vực nghiên cứu. Thành phần gồm hai phần: phần đá già gồm có các thành tạo phun trào Riolit và các thành tạo trầm tích nằm trong các bồn trầm tích tàn dư: cuội, cát kết có tuổi J3-K của hệ tầng Tam Lung. Các thành tạo trẻ gồm có các thành tạo phun trào Riolit và phun trào Bazan, Varyolit và các thành tạo trầm tích như: cuội, sạn kết... có tuổi K3-E của hệ tầng Tam Danh. Chứng tỏ trong giai đoạn này có sự tiếp tục nâng lên của địa hình, sau đó kết thúc chế độ biến ở nơi đây, chuyển sang chế độ rìa lục địa. Do hoạt độngkiến tạo tạo ra các đường dẫn cho magm a ở phía dưới đi lên thành tao nên các thành tạo phun trào.
6.Tổ hợp TKT lục địa Kanozoi sớm: (N1nd)
Tổ hợp TKT này chủ yếu là các thành tạo trầm tích gồm cuội, sạn, cát kết xen một lớp than mỏng của hệ tầng Na Dương có tuổi Neogen. Diện phân bố của hệ tầng này nắm dọc theo sườn phải của thung lũng Na Sa, từ Nà Dảo đến Nà Nùng. Chứng tỏ các thành tạo này một số nơi ở vùng nghiên cứu có hiện tượng hạ thấp tạo ra các địa hào trầm lắng các thành tạo trầm tích của hệ tầng Na Dương.
7.Các thành tạo hiện đại :( Q)
Các thành tạo trầm tích Đệ Tứ khá phổ biến, phân bố ở phía Nam, dọc theo sông Kỳ Cùng và dọc theo hai bên bờ suối Nasa của vùng nghiên cứu. Các trầm tích Đệ tứ ở đây bao gồm: tàn tích do phong hoá (Eluvi), sườn tích (Delovi), lũ tích (Proluvi), bồi tích (Aluvi), trầm tích hang Karst . Các vỏ phong hoá trong vùng gồm có: vỏ phong hóa Ferosialit và sét Kaolin trên đá Ryolit, Ryolit porphyr; vỏ phong hóa Terarosa trên đá vôi; vỏ phong hoá Sialferit và sét trên các đá cát kết, bột kết, sét kết.
B.Đặc Điểm các đưt gãy, nếp uốn:
I. Đặc điểm đứt gãy
Vùng thành phố Lạng Sơn có hoạt động đứt gãy khá mạnh với các hệ thống đứt gãy:
- Hệ thống đứt gãy theo phương Tây Bắc- Đông Nam
- Hệ thống đứt gãy phương Đông Bắc- Tây Nam
- Hệ thống đứt gãy theo phương á kinh tuyến
- Hệ thống đứt gãy theo phương á vĩ tuyến
Theo tài liệu khảo sát thực tế, tài liệu tham khảo, tài liệu phân tích kết hợp với quá trình đi lộ trình chúng tôi trình bày những đặc điểm chính của các đứt gãy trong vùng từ F1 đến F18:
I.1. Đứt gãy theo phương TB - ĐN
Đứt gãy F1:
Đứt gãy Cao Bằng - Lộc Bình- Tiên Yên là đứt gãy sâu lớn nhất ở khu vực Đông Bắc Việt Nam
Trên bình đồ cấu trúc đứt gãy cắt gần vuông góc với phương cấu tạo của đá Paleozoi muộn- Mezozoi. Dọc theo đứt gãy đã phát triển các thành tạo địa hào Neogen hẹp, kéo dài phương TB- ĐN. Dấu hiệu trực tiếp: hiện tượng khe nứt, mặt trượt, uốn nếp, vò nhàu trong các đá trầm tích và phun trào của các hệ tầng Khôn Làng, Tam Danh, Tam Lung, Nà Khuất, Mẫu Sơn. Dấu hiệu gián tiếp là sự định hướng của thung lũng kéo dài suốt từ Cao Bằng qua Lạng Sơn đến Tiên Yên - Quảng Ninh, lineamen trên ảnh vệ tinh. Theo các tài liệu địa chấn, đứt gãy F1 cắt vào vỏ trái đất sâu 20 - 30 km, thậm chí 40 - 60 km. Dọc theo đứt gãy có hiện tượng hạ võng 0.7mm, nằm và trượt ngang, cánh ĐB trượt về phía TB, cánh TN trượt về phía ĐN. Hiện tại ở khu vực nghiên cứu do hoạt động của đứt gãy này và dồn ép của khối Mẫu Sơn về phía Tây - TB đã hình thành các đứt gãy ngang, tạo dịch chuyển rõ nét, tác động không nhỏ đến ổn định công trình ở phần phía Nam cầu bê tông qua sông Kỳ Cùng ở khu vực vườn hoa Hoàng Văn Thụ.
Đứt gãy F2:
Đứt gãy nằm ở phía Tây khu vực nghiên cứu. Đứt gãy này kéo dài theo phương TB - ĐN, từ Tùng Huồng, Nà Trang kéo dài qua sông Kỳ Cùng đến Ro Phai. Đứt gãy này chúng tôi gặp tại điểm lộ 3202 trong lộ trình số 1 đi: Đông Kinh - Nà Pàn. Dấu hiệu để nhận biết đứt gãy này là các đá trầm tích lục nguyên bị dập vỡ mạnh, phần đá vôi bị hoa hoá, đôi chỗ bắt gặp hiện tượng milonít. Đứt gãy ở đây được xác định là đứt gãy chờm nghịch
Đứt gãy F3:
Đứt gãy nằm ở phía Đông khu vực nghiên cứu, kéo dài theo phương TB - ĐN từ Nà Khùm – Pò Tàng – PắcCô. Đứt gãy này chúng tôi gặp ở điểm lộ 3211. Dấu hiệu để nhận biết đứt gãy này là dựa vào đới dăm kết kiến tạo, dựa vào sự phân bố của các khối dăm ở những vị trí độ cao khác nhau, chúng tôi áp dụng phương pháp tam giác vỉa và xác định được phương của đứt gãy này.
Đứt gãy F4:
Đứt gãy nằm phía Đông khu vực nghiên cứu. Đứt gãy này chạy từ khu vực Kéo Bò – Nà Ca – Bản Cằm – Bản Lận. Dấu hiệu để nhận biết đứt gãy này có hai dấu hiệu
Dấu hiệu trực tiếp: đá dập vỡ dọc theo đứt gãy
Dấu hiệu gián tiếp: sự chuyển biến của độ cao địa hình đột ngột, phía ĐB thấp, phía TN cao và quy luật định hướng của địa hình và sông suối ở đây.
Đứt gãy F5:
Đứt gãy nằm ở phía Đông khu vực nghiên cứu, kéo dài theo phương TB - ĐN từ Mỹ Sơn – Kéo Tàu cắt qua quốc lộ 4b. Đứt gãy này chúng tôi bắt gặp ở điểm lộ 3227 trong lộ trình số 4 đi: Đông Kinh – Khôn Lênh. Dấu hiệu nhận biết đứt gãy là đới dăm kết với các mảnh vụn chủ yếu là đá vôi, một phần là trầm tích lục nguyên, xi măng gắn kết là silíc
Ngoài những đứt gãy chính kể trên, chúng tôi còn gặp một số những đứt gãy nhỏ F6, F7 nằm ở phía TN và phía Nam của vùng nghiên cứu. Những đứt gãy này cũng có phương TB - ĐN.
I.2. Đứt gãy theo phương ĐB - TN
Đứt gãy F8:
Đứt gãy nằm phía TB khu vực nghiên cứu. Đứt gãy chạy dài theo phương ĐB – TN từ Đồng én – Nà Kéo. Các đá bột kết của hệ tầng Tam Lung ở đây bị dập vỡ mạnh mẽ, đồng thời dọc theo quốc lộ 1A cũ từ Nà Kéo - Đồng én còn gặp nhiều tảng lăn limônit.
Đứt gãy F9:
Đứt gãy nằm phía Nam khu vực nghiên cứu. Đứt gãy chạy dài theo phương ĐB – TN từ Pò Đứa cắt qua sông Kỳ Cùng đến Cò Mặn. Dấu hiệu nhận biết đứt gãy này là sự gián đoạn của các khối đá vôi ở hai bên bờ sông, khoảng cách dịch chuyển theo phương ngang khoảng 50 - 70m
Đứt gãy F10:
Đứt gãy nằm phía TN khu vực nghiên cứu. Đứt gãy chạy dài theo phương 300 – 2100, đứt gãy này kéo dài từ Chi Mạc đến Nà Me. Dấu hiệu để nhận biết đứt gãy này là đá phun trào Riolit có tuổi T2akl bị dập vỡ, biến dạng mạnh, có thể nhìn rõ ranh giới địa chất, đá bị ép dẹt, kéo dài. Dựa vào các dấu hiệu nhận biết chúng tôi xác định đây là một đứt gãy trượt bằng, dốc đứng
Đứt gãy F11:
Đứt gãy nằm ở trung tâm khu vực nghiên cứu. Đứt gãy chạy dài theo phương ĐB – TN từ Khôn Phú đến Cò Lêng. Dấu hiệu nhận biết đứt gãy ở đây là khối đá vôi Bắc Sơn bị đứt gãy cắt qua, dốc đứng có dạng một vách đứt gãy, đới dăm kết kiến tạo, mặt trượt, vết sước. Chúng tôi xác định được đây là một đứt gãy dịch bằng phải.
Đứt gãy F12:
Đứt gãy nằm về phía ĐN khu vực nghiên cứu, đứt gãy kéo dài theo phương ĐB – TN từ suối Nasa qua Nà Chuông đến Bình Cằm
Dấu hiệu trực tiếp nhận biết đứt gãy, đới dập vỡ, nứt nẻ ở Nà Chuông tạo đới dăm kết kiến tạo với xi măng gắn kết là canxit, hiện tượng uốn nếp, vò nhàu ở Nà Chuông
Dấu hiệu gián tiếp: định hướng caclimcacmen trên ảnh vệ tinh dọc theo địa hình. Đây là một đứt gãy thuận nghịch, cánh ĐN hạ, cánh TB nâng lên
Đứt gãy F13:
Đứt gãy này gần như song song với đứt gãy F12, cũng có phương ĐB – TN và cắt qua sông Kỳ Cùng. Dấu hiệu nhận biết đứt gãy này dựa vào đới dăm kết, các gờ trượt, vết sước và sự dịch chuyển của các đá
I.3. Đứt gãy theo phương á vĩ tuyến:
Đứt gãy F14,F15:
Hai đứt gãy này nằm ở phía TN của khu vực nghiên cứu, kéo dài Đ - T và gần như song song với nhau. Dấu hiệu để nhận biết hau đứt gãy này là các giếng nước có áp dọc theo hai đới đứt gãy này
Đứt gãy F16:
Đứt gãy nằm ở phía ĐB của vùng nghiên cứu, đứt gãy kéo dài theo phương Đ - T từ Nà Bó – Kéo Cặp – Thâm Trang. Dấu hiệu nhận biết là đới dập vỡ đồng thời còn xuất lộ một số giếng có áp dọc theo đới đứt gãy này.
I.4. Đứt gãy theo phương á kinh tuyến:
Đứt gãy F17:
Đứt gãy nằm ở phía Đông khu vực nghiên cứu, kéo dài theo phương B – N. Đứt gãy này là ranh giới giữa một bên là các thành tạo của hệ tầng Lạng Sơn và một bên là các đá của hệ tầng Không Làng.
Đứt gãy F18:
Đứt gãy nằm ở phần trung tâm của khu vực nghiên cứu kéo dài theo phương B – N và cắt qua sông Kỳ Cùng. Dấu hiệu để nhận biết đứt gãy là dựa vào các đới dăm kết, các gờ trượt, và vết sước và sự dịch chuyển của các khối đá
II. Uốn nếp
Trong diện tích phân bố hệ tầng Bắc Sơn gồm có các nếp uốn và các nếp lồi. Tuy nhiên phần lớn diện tích của chúng đã bị phủ bởi lớp phong hoá terarosa, trầm tích hỗn hợp, trầm tích eluvi, nên chưa phát hiện được nhiều nếp uốn ở đây.
nếp uốn U1:
Trong khoảng từ Thác Trà đến đền thờ Trần Hưng Đạo phát hiện nhiều nếp uốn nhỏ, trục các nếp uốn có phương á kinh tuyến, chiều rộng các nếp uốn khoảng 100m cao khoảng 20m. phần lớn các cánh có độ dốc nhỏ từ 10o – 30o , càng về phía tây các nếp uốn càng rộng, góc dốc của các cánh nhỏ.
nếp uốn U2:
Phân bố ở khu vực Quán Lóng gần UBND xã Quảng Lạc. nhân nếp uốn là các trầm tích lục nguyên, silic, bauxit thuộc hệ tầng Đồng Đăng. Đây là nếp lồi không cân xứng, cánh phía đông còn khá đầy đủ đá trầm tích lục nguyên, silic, bauxit, đá vôi, cánh phía tây nâng lên bị bào mòn hết đá carbonat. Cánh phía đông có thế nằm 340/40, cánh phía tây 230/30. Trục của nếp uốn theo phương ĐB – TN gần song song với phương của đứt gãy phát triển qua hệ tầng này. nếp uốn bị phá vỡ mạnh bới các khe nứt và đới dập vỡ.
nếp uốn U3:
Phân bố ở khu vực Nà Chuông, phía TB gặp các lớp đá vôi phân lớp mỏng đổ về phía ĐN thuộc hệ tầng Kì Cùng. Dọc theo sông Kì Cùng phía nam và phía đông Nà Chuông gặp các lớp phun trào đổ về phía ĐB. trên cùng là cát kết, bột kết,sét kết của hệ tầng Nà Khuất đổ về phía TB. Cấu trúc trên tạo nên phức nếp lõm có trục kéo dài theo phương ĐB – TN.
Nếp uốn U4:
Nằm ở phía bắc Khón Lênh có trục kéo dài theo phương TB - ĐN, nếp uốn được hình thành từ các lớp cuội kết, sạn kết, cát kết của hệ tần Mẫu Sơn. đây là nếp lõm, góc của các cánh thay đổi từ 40 – 60o .
Các nếp uốn U5, U7, U8, U9, U10 cũng tương tự như nếp uống U4 đều được hình thành từ lớp cuội kết, sạn kết, cát kết của hệ tầng Mẫu Sơn, trục kéo dài của các nếp uốn này chủ yếu theo phương á kinh tuyến với góc ở các cánh thay đổi nhỏ từ 400-600.
III. Khe nứt
Các khe nứt trong vùng nghiên cứu có nguồn gốc nội sinh và ngoại sinh. Các khe nứt nội sinh do hoạt dộng kiến tạo, do hoạt động magma, do biến chất g
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_dia_chat_cau_tao_1397.doc