Báo cáo Tìm hiểu giao thức SSL-TLS cách tấn công và phòng chống

Mục lục

 

Chương 1: Tìm hiểu về giao thức SSL trang 04

1. SSL là gì trang 04

2. Lịch sử phát triển trang 05

 

Chương 2: Cấu trúc và cách hoạt động trang 06

1. Cấu trúc của SSL trang 06

2. Tìm hiểu về các loại mã hóa trang 10

3. Handshake Protocol trang 13

4. Record Protocol trang 17

 

Chương 3: Các kiểu tấn công và phòng chống trang 23

1. Các kiểu tấn công trang 23

2. Cách phòng chống trang 24

 

Chương 4: Cài đặt SSL trên Web Application(sử dụng Self-Signed Cert) trang 25

 

docx30 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 9887 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tìm hiểu giao thức SSL-TLS cách tấn công và phòng chống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tương thích ngược). Thông số kỹ thuật mới nhất của SSL 3.0 đã được tung ra chính thức vào tháng 3 năm 1996. Nó được thực thi trong tất cả các trình duyệt chính bao gồm ví dụ Microsoft Internet Explorer 3.0 (và các phiên bản cao hơn), Netscape Navigator 3.0 (và các phiên bản cao hơn), và Open. Như được thảo luận ở phần sau trong chương này, SSL 3.0 đã được điều chỉnh bởi IETF TLS WG. Thực tế, thông số kỹ thuật giao thức TLS 1.0 dẫn xuất từ SSL 3.0 Chương 2: Cấu Trúc và cách hoạt động của SSL 1/Cấu trúc của giao thức SSL:      Cấu trúc của SSL và giao thức SSL tương ứng được minh họa trong hình 1.1(Cấu trúc SSL và giao thức SSL). Theo hình này, SSL ám chỉ một lớp (bảo mật) trung gian giữa lớp vận chuyển (Transport Layer) và lớp ứng dụng (Application Layer). SSL được xếp lớp lên trên một dịch vụ vận chuyển định hướng nối kết và đáng tin cậy, chẳng hạn như được cung cấp bởi TCP. Về khả năng, nó có thể cung cấp các dịch vụ bảo mật cho các giao thức ứng dụng tùy ý dựa vào TCP chứ không chỉ HTTP. Thực tế, một ưu điểm chính của các giao thức bảo mật lớp vận chuyển (Transport layer) nói chung và giao thức SSL nói riêng là chúng độc lập với ứng dụng theo nghĩa là chúng có thể được sử dụng để bảo vệ bất kỳ giao thức ứng dụng được xếp lớp lên trên TCP một cách trong suốt. Hình 1.1 minh họa một số giao thức ứng dụng điển hình bao gồm NSIIOP, HTTP, FTP, Telnet, IMAP, IRC, và POP3. Tất cả chúng có thể được bảo vệ bằng cách xếp lớn chúng lên trên SSL (mẫu tự S được thêm vào trong các từ ghép giao thức tương ứng chỉ định việc sử dụng SSL). Tuy nhiên, chú ý rằng SSL có một định hướng client-server mạnh mẽ và thật sự không đáp ứng các yêu cầu của các giao thức ứng dụng ngang hàng. Cấu trúc của SSL và giao thức SSL   Tóm lại, giao thức SSL cung cấp sự bảo mật truyền thông vốn có ba đặc tính cơ bản:      1. Các bên giao tiếp (nghĩa là client và server) có thể xác thực nhau bằng cách sử dụng mật mã khóa chung.      2. Sự bí mật của lưu lượng dữ liệu được bảo vệ vì nối kết được mã hóa trong suốt sau khi một sự thiết lập quan hệ ban đầu và sự thương lượng khóa session đã xảy ra.       3. Tính xác thực và tính toàn vẹn của lưu lượng dữ liệu cũng được bảo vệ vì các thông báo được xác thực và được kiểm tra tính toàn vẹn một cách trong suốt bằng cách sử dụng MAC. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là SSL không ngăn các cuộc tấn công phân tích lưu lượng. Ví dụ, bằng cách xem xét các địa chỉ IP nguồn và đích không được mã hóa và các sô cổng TCP, hoặc xem xét lượng dữ liệu được truyền, một người phân tích lưu lượng vẫn có thể xác định các bên nào đang tương tác, các loại dịch vụ đang được sử dụng, và đôi khi ngay cả dành được thông tin về các mối quan hệ doanh nghiệp hoặc cá nhân. Hơn nữa, SSL không ngăn các cuộc tấn công có định hướng dựa vào phần thực thi TCP, chẳng hạn như các cuộc tấn công làm tràn ngập TCP SYN hoặc cưỡng đoạt session. Để sử dụng sự bảo vệ SSL, cả client lẫn server phải biết rằng phía bên kia đang sử dụng SSL. Nói chung, có ba khả năng để giải quyết vấn đề này:      1. Sử dụng các số cổng chuyên dụng được dành riêng bởi Internet Asigned Numbers Authority (IANA). Trong trường hợp này, một số cổng riêng biệt phải được gán cho mọi giao thức ứng dụng vốn sử dụng SSL.       2. Sử dụng số cổng chuẩn cho mọi giao thức ứng dụng và để thương lượng các tùy chọn bảo mật như là một phần của giao thức ứng dụng (bây giờ được chỉnh sửa đôi chút).        3. Sử dụng một tùy chọn TCP để thương lượng việc sử dụng một giao thức bảo mật, chẳng hạn như SSL trong suốt giai đoạn thiết lập nối kết TCP thông thường.      Sự thương lượng dành riêng cho ứng dụng của các tùy chọn bảo mật (nghĩa là khả năng thứ hai) có khuyết điểm là đòi hỏi mọi giao thức ứng dụng được chỉnh sửa để hiểu tiến trình thương lượng. Ngoài ra, việc xác định một tùy chọn TCP (nghĩa là khả năng thứ ba) là một giải pháp tốt, nhưng đó không được thảo luận nghiêm túc cho đến bây giờ. Thực tế, các số cổng riêng biệt đã được dành riêng và được gán bởi IANA cho mọi giao thức ứng dụng vốn có thể chạy trên SSL hoặc TLS (nghĩa là khả năng thứ nhất). Tuy nhiên, hãy chú ý việc sử dụng các số cổng riêng biệt cũng có khuyết điểm là đòi hỏi hai nối kết TCP nếu client không biết những gì mà server hỗ trợ. Trước tiên, client phải nối kết với cổng an toàn và sau đó với cổng không an toàn hay ngược lại. Rất có thể các giao thức sau này sẽ hủy bỏ phương pháp này và tìm khả năng thứ hai. Ví dụ, SALS (Simple Authentication và Security Layer) xác định một phù hợp để thêm sự hỗ trợ xác thực vào các giao thức ứng dụng dựa vào kết nối. Theo thông số kỹ thuật SALS, việc sử dụng các cơ chế xác thực có thể thương lượng giữa client và server của một giao thức ứng dụng đã cho.      Các số cổng được gán bởi IANA cho các giao thức ứng dụng vốn chạy trên SSL/TLS được tóm tắt trong bảng 1.2 và được minh họa một phần trong hình 1.1. Ngày nay, "S" chỉ định việc sử dụng SSL được thêm (hậu tố) nhất quán vào các từ ghép của các giao thức ứng dụng tương ứng (trong một số thuật ngữ ban đầu, S được sử dụng và được thêm tiền tố một cách không nhất quán và một số từ ghép). Bảng 1: Các số cổng được gán cho các giao thức ứng dụng chạy trên TLS/SSL. Từ khóa Cổng Mô tả Nsiiop 261 Dịch vụ tên IIOP trên TLS/SSL https 443 HTTP trên TLS/SSl Smtps 465 SMTP trên TLS/SSL Nntps 563 NNTP trên TLS/SSL Ldaps 636 LDAP trên TLS/SSL Ftps-data 989 FTP (dữ liệu) trên TLS/SSL Ftps 990 FTP (Điều khiển) trên TLS/SSL Tenets 992 TELNET trên TLS/SSL Imaps 994 IRC trên TLS/SSL Pop3s 995 POP3 trên TLS/SSL      Nói chung, một session SSL có trạng thái và giao thức SSL phải khởi tạo và duy trì thông tin trạng thái ở một trong hai phía của session. Các phần tử thông tin trạng thái session tương ứng bao gồm một session ID, một chứng nhận ngang hàng, một phương pháp nén, một thông số mật mã, một khóa mật chính và một cờ vốn chỉ định việc session có thể tiếp tục lại hay không, được tóm tắt trong bảng 1.3. Một session SSL có thể được sử dụng trong một số kết nối và các thành phần thông tin trạng thái nối kết tương ứng được tóm tắt trong bảng 1.4. Chúng bao gồm các tham số mật mã, chẳng hạn như các chuỗi byte ngẫu nhiên server và client, các khóa mật MAC ghi server và client, các khóa ghi server và client, một vector khởi tạo và một số chuỗi. Ở trong hai trường hợp, điều quan trọng cần lưu ý là các phía giao tiếp phải sử dụng nhiều session SSL đồng thời và các session có nhiều nối kết đồng thời. Bảng 2 Các thành phần thông tin trạng thái Session SSL Thành Phần Mô tả Session ID Định danh được chọn bởi server để nhận dạng một trạng thái session hoạt động hoặc có thể tiếp tục lại. Peer certificate Chứng nhân X.509 phiên bản 3 của thực thể ngang hàng. Compression method Thuật toán dừng để nén dữ liệu trước khi mã hóa Cipher spec Thông số của các thuật toán mã hóa dữ liệu và MAC Master secret Khóa mật 48-byte được chia sẻ giữa client và server. Is resumable Cờ vốn biểu thị session có thể được sử dụng để bắt đầu các nối kết mới hay không. Bảng 3 Các thành phần thông tin trạng thái nối kết SSL Thành Phần Mô tả Ngẫu nhiên server và client Các chuỗi byte được chọn bởi server và client cho mỗi nối kết. Khóa mật MAC ghi server Khóa mật được sử dụng cho các hoạt động MAC trên dữ liệu được ghi bởi server. Khóa mật MAC ghi client Khóa mật được sử dụng cho các hoạt động MAC trên dữ liệu được ghi bởi client. Khóa ghi server Khóa được sử dụng cho việc mã hóa dữ liệu bởi server và giải mã bởi client Khóa ghi client Khóa được sử dụng để mã khóa dữ liệu bởi client và giải mã bởi server. Initialization vector Trạng thái khởi tạo cho một mật mã khối trong chế độ CBC. Trường này được khởi tạo đầu tiên bởi SSL Handshake Player. Sau đó, khối text mật mã sau cùng từ mỗi bản ghi được dành riêng để sử dụng vởi bản ghi sau đó. Số chuỗi Mỗi phía duy trì các số chuỗi riêng biệt cho các thông báo được truyền và được nhận cho mỗi nối kết.      Như được minh họa trong hình 1.1, giao thức SSL gồm hai phần chính, SSL Record Protocol và một số giao thức con SSL được xếp lớp trên nó: - Record OK được xếp lớp trên một dịch vụ lớp vận chuyển định hướng nối kết và đáng tin cậy, chẳng hạn như được cung cấp bởi TCP và cung cấp sự xác thực nguồn gốc thông báo, sự bí mật dữ liệu và dữ liệu. - Các dịch vụ toàn vẹn (bao gồm nhưng thứ như chống xem lại). - Các giao thức con SSL được xếp lớp trên SSL Record Protocol để cung cấp sự hỗ trợ cho việc quản lý session SSL và thiết lập nối kết.      Giao thức con SSL quan trọng nhất là SSL Handshake Protocol. Lần lượt giao thức này là một giao thức xác thực và trao đổi khóa vốn có thể được sử dụng để thương lượng, khởi tạo và đồng bộ hóa các tham số bảo mật và thông tin trạng thái tương ứng được đặt ở một trong hai điểm cuối của một session hoặc nối kết SSL.      Sau khi SSL Handshake Protocol đã hoàn tất, dữ liệu ứng dụng có thể được gửi và được nhận bằng cách sử dụng SSL Record Protocol và các tham số bảo mật được thương lượng và các thành phần thông tin trạng thái. SSL Record và Handshake Protocol được trình bầy tổng quan ở phần tiếp theo. 2/Tìm Hiểu các loại mã hóa Mật mã hóa là quá trình chuyển đổi các thông tin thông thường (văn bản thường hay văn bản rõ) thành dạng không đọc trực tiếp được, là văn bản mã. Giải mật mã, là quá trình ngược lại, phục hồi lại văn bản thường từ văn bản mã. Mật mã là thuật toán để mật mã hóa và giải mật mã. Hoạt động chính xác của mật mã thông thường được kiểm soát bởi khóa — một đoạn thông tin bí mật nào đó cho phép tùy biến cách thức tạo ra văn bản mã. Các giao thức mật mã chỉ rõ các chi tiết về việc mật mã (và các nền tảng mật mã hóa khác) được sử dụng như thế nào để thu được các nhiệm vụ cụ thể. Một bộ các giao thức, thuật toán, cách thức quản lý khóa và các hành động quy định trước bởi người sử dụng thi hành cùng nhau như một hệ thống tạo ra hệ thống mật mã Mật mã hóa được sử dụng phổ biến để đảm bảo an toàn cho thông tin liên lạc. Các thuộc tính được yêu cầu là: Bí mật: Chỉ có người nhận đã xác thực có thể lấy ra được nội dung của thông tin chứa đựng trong dạng đã mật mã hóa của nó. Nói khác đi, nó không thể cho phép thu lượm được bất kỳ thông tin đáng kể nào về nội dung của thông điệp. Nguyên vẹn: Người nhận cần có khả năng xác định được thông tin có bị thay đổi trong quá trình truyền thông hay không. Xác thực: Người nhận cần có khả năng xác định người gửi và kiểm tra xem người gửi đó có thực sự gửi thông tin đi hay không. Không từ chối: Người gửi không thể từ chối việc mình đã gửi thông tin đi. Chống lặp lại: Không cho phép bên thứ ba copy lại văn bản và gửi nhiều lần đến người nhận mà người gửi không hề hay biết. a.Khóa Đối xứng Thuật toán khóa đối xứng là những thuật toán hoặc là sử dụng cùng một khóa cho việc mật mã hóa và giải mật mã hoặc là khóa (thứ hai) sử dụng để giải mật mã có thể dễ dàng tính được từ khóa (thứ nhất) đã dùng để mật mã hóa. Các thuật toán phổ biến DES (Data Encryption Standard) là một thuật toán mã hoá có chiều dài khoá là 56 bit. 3-DES (Triple-DES): là thuật toán mã hoá có độ dài khoá gấp 3 lần độ dài khoá trong mã hoá DES AES:  AES là một tiêu chuẩn mã hóa mới, nó đang được triển khai sử dụng đại trà từ năm 2003 b.Khóa công khai Các thuật toán Mã hóa khóa đối xứng có một số trở ngại không thuận tiện — hai người muốn trao đổi các thông tin bí mật cần phải chia sẻ khóa bí mật. Khóa cần phải được trao đổi theo một cách thức an toàn, mà không phải bằng các phương thức thông thường vẫn dùng để liên lạc. Điều này thông thường là bất tiện, và mật mã hóa khóa công khai (hay khóa bất đối xứng) được đưa ra như là một giải pháp thay thế. Trong mật mã hóa khóa công khai có hai khóa được sử dụng, là khóa công khai (hay khóa công cộng) và khóa bí mật (hay khóa cá nhân), trong đó khóa công khai dùng để mật mã hóa còn khóa bí mật dùng để giải mật mã (cũng có thể thực hiện ngược lại). Rất khó để có thể thu được khóa bí mật từ khóa công khai. Điều này có nghĩa là một người nào đó có thể tự do gửi khóa công khai của họ ra bên ngoài theo các kênh không an toàn mà vẫn chắc chắn rằng chỉ có họ có thể giải mật mã các thông điệp được mật mã hóa bằng khóa đó. Chọn một số ngẫu nhiên lớn để sinh cặp khóa. Dùng khoá công khai để mã hóa, nhưng dùng khoá bí mật để giải mã. Tổ hợp khoá bí mật mình với khoá bí mật của người khác tạo ra khoá dùng chung chỉ hai người biết. Các thuật toán phổ biến RSA: là thuật toán mã hoá công khai dùng cho cả quá trình xác thực và mã hoá dữ liệu được Rivest, Shamir, and Adleman phát triển. RSA key exchange: là thuật toán trao đổi khoá dùng trong SSL dựa trên thuật toán RSA c.Hàm Băm Hàm băm là giải thuật nhằm sinh ra các giá trị băm tương ứng với mỗi khối dữ liệu (có thể là một chuỗi kí tự, một đối tượng trong lập trình hướng đối tượng, v.v...). Một hàm băm nhận đầu vào là một xâu ký tự dài (hay thông điệp) có độ dài tùy ý và tạo ra kết quả là một xâu ký tự có độ dài cố định. Trong nhiều chuẩn và ứng dụng, hai hàm băm thông dụng nhất là MD5 và SHA-1. Năm 2005, người ta đã tìm ra lỗi bảo mật của cả hai thuật toán trên. 3/SSL Handshake Protocol: SSL Handshake Protocol là giao thức con SSL chính được xếp lớp trên SSL Record Protocol. Kết quả, các thông báo thiết lập quan hệ SSL được cung cấp cho lớp bản ghi SSL nơi chúng được bao bọc trong một hoặc nhiều bản ghi SSL vốn được xử lý và được chuyển như được xác định bởi phương pháp nén và thông số mật mã của session SSL hiện hành và các khóa mật mã của nối kết SSL tương ứng. Mục đích của SSL Handshake Protocol là yêu cầu một client và server thiết lập và duy trì thông tin trạng thái vốn được sử dụng để bảo vệ các cuộc liên lạc. Cụ thể hơn, giao thức phải yêu cầu client và server chấp thuận một phiên bản giao thức SSL chung, chọn phương thức nén và thông số mật mã, tùy ý xác thực nhau và tạo một khóa mật chính mà từ đó các khóa session khác nhau dành cho việc xác thực và mã hóa thông báo có thể được dẫn xuất từ đó. Tóm lại, việc thực thi SSL Handshake Protocol giữa một client C và một server S có thể được tóm tắt như sau (các thông báo được đặt trong các dấu ngoặc vuông thì tùy ý): 1: C -> S: CLIENTHELLO 2: S -> C: SERVERHELLO [CERTIFICATE] [SERVERKEYEXCHANGE] [CERTIFICATEREQUEST] SERVERHELLODONE 3: C -> [CERTIFICATE] CLIENTKEYEXCHANGE [CERTIFICATEVERIFY] CHANGECIPHERSPEC FINISHED 4: S -> C: CHANGECIPHERSPEC FINISHED Hình minh họa quá trình trao đổi thông tin Khi Client C muốn kết nối với server S, nó thiết lập một nối kết TCP với cổng HTTPS (vốn không được đưa vào phần mô tả giao thức) và gởi một thông báo CLIENTHELLO đến server ở bước 1 của sự thực thi SSL Handshake Protocol. Client cũng có thể gởi một thông báo CLIENTHELLO nhằm phản hồi lại một thông báo HELLOREQUEST hoặc chủ động thương lượng lại các tham số bảo mật của một nối kết hiện có. Thông báo CLIENTHELLO bao gồm các trường sau đây: - Số của phiên bản SSL cao nhất được biểu hiện bởi client (thường là 3.0). - Một cấu trúc ngẫu nhiên do client tạo ra gồm một tem thời gian 32 bit có dạng UNIX chuẩn và một giá trị 28 byte được tạo ra bởi một bộ tạo số giả ngẫu nhiên. - Một định danh session mà client muốn sử dụng cho nối kết này. - Một danh sách các bộ mật mã client hỗ trợ. - Một danh sách các phương pháp nén mà client hỗ trợ. Chú ý rằng trường session identity (định danh session) nên rỗng nếu session SSL hiện không tồn tại hoặc nếu client muốn tạo các tham số bảo mật mới. Ở một trong hai trường hợp, một trường session identity không rỗng là xác định một session SSL hiện có giữa client và server (nghĩa là một session có các tham số bảo mật mà client muốn sử dụng lại.). Định danh session có thể bắt nguồn từ một nối kết trước đó, nối kết này hoặc một nối kết đang hoạt động. Cũng chú ý rằng danh sách các bộ mật mã được hỗ trợ, được chuyển từ client đến server trong thông báo CLIENTHELLO, chứa các tổ hợp thuật toán mật mã được hỗ trợ bởi client theo thứ tự ưu tiêm. Mỗi bộ mật mã xác định một thuật toán trao đổi khóa và một thông báo mật mã. Server sẽ chọn một bộ mật mã hoặc nếu các lựa chọn có thể chấp nhận được không được trình bầy, trả về một thông báo lỗi và đóng nối kết một cách phù hợp. Sau khi đã gởi thông báo CLIENTHELLO, client đợi một thông báo SERVERHELLO. Bất kỳ thông báo khác được trả về bởi server ngoại trừ một thông báo HELLOREQUEST được xem như là một lỗi vào thời điểm này. Ở bước 2, server xử lý thông báo CLIENTHELLO và đáp ứng bằng một thông báo lỗi hoặc thông báo SERVERHELLO. Tương tự như thông báo CLIENTHELLO, thông báo SERVERHELLO có các trường sau đây: - Một số phiên bản server chứa phiên bản thấp hơn của phiên bản được đề nghị bởi client trong thông báo CLIENTHELLO và được hỗ trợ cao nhất bởi Server. - Một cấu trúc ngẫu nhiên do server tạo ra cũng gồm một tem thời gian 32bit có dạng UNIX chuẩn và một giá trị 28bit được tạo ra bởi một bộ tạo số ngẫu nhiên. - Một định danh session tương ứng với nối kết này. - Một bộ mật mã được chọn từ bởi server từ danh sách các bộ mật mã được hỗ trợ bởi client. - Một phương pháp nén được chọn bởi server từ danh sách các thuật toán nén được hỗ trợ bởi client. Nếu định danh session trong thông báo CLIENTHELLO không rỗng, server tìm trong cache session của nó nhằm tìm ra một mục tương hợp. Nếu mục tương hợp được tìm thấy và server muốn thiết lập nối kết mới bằng cách sử dụng trạng thái session tương ứng, server đáp ứng bằng cùng một giá trị như được cung cấp bởi client. Chỉ địn này là một session được tiếp tục lại và xác định rằng cả hai phía phải tiến hành trực tiếp với các thông báo CHANGECIPHERSPEC và FINISHED được trình bày thêm bên dưới. Nếu không, trường này chứa một giá trị khác nhận biết một session mới. Server cũng có thể trả về một trường định danh session rỗng để biểu thị rằng session sẽ không được lưu trữ và do đó không thể được tiếp tục sau đó. Cũng chú ý rằng trong thông báo SERVERHELLO, server chọn một bộ mật mã và một phương pháp nén từ các danh sách được cung cấp bởi client trong thông báo CLIENTHELLO. Các thuật toán trao đổi khóa, xác thực, mã hóa và xác thực thông báo được xác định bởi bộ mã được chọn bởi server và được làm lộ ra trong thông báo SERVERHELLO. Các bộ mật mã vốn đã được xác định trong giao thức SSL về cơ bản giống như bộ mật mã đã xác định cho TLS (như được tóm tắt ở các bản 1.4 đến 1.7 trong những bài viết trước). Ngoài thông báo SERVERHELLO, server cũng phải gởi các thông báo khác đến client. Ví dụ, nếu server sử dụng sự xác thức dựa vào chứng nhân, server gởi chứng nhận site của nó đến client trong một thông báo CERTIFICATE tương ứng. Chứng nhận phải thích hợp cho thuật toán trao đổi khóa của bộ mật mã được chọn và thường là một chứng nhận X.509v3. Cùng loại thông báo sẽ được sử dụng sau đó cho sự đáp ứng của client đối với thông báo sẽ được sử dụng sau đó cho sự đáp ứng của client đối với thông báo CERTIFICATERequest của server. Trong trường hợp của các chứng nhận X.509v3, một chứng nhận có thể thực sự tham chiếu đến toàn bộ một chuỗi các chứng nhận, được sắp xếp theo thứ tự với chứng nhận của đối tượng gởi trước tiên theo sau là bất kỳ chứng nhận CA tiến hành theo trình tự hướng đến một CA gốc (vốn sẽ được chấp nhận bởi client). Tiếp theo, server có thể gởi một thông báo SERVERKEYEXCHANGE đến client nếu nó không có chứng nhận, một chứng nhận vốn có thể được sử dụng chỉ để xác nhận các chữ ký kỹ thuật số hoặc sử dụng thuật toán trao đổi khóa dựa vào token FORITEZZA (KEA). Rõ ràng, thông báo này không được yêu cầu nếu chứng nhận site gồm một khóa chung RSA vốn có thể được sử dụng trong việc mã hóa. Ngoài ra, một server không nặc danh có thể tùy ý yêu cầu một chứng nhận cá nhân để xác thực client. Do đó, nó gởi một thông báo CERTIFICATERequest đến client. Thông báo này chứa một danh sách các loại chứng nhận được yêu cầu, được phân loại theo thứ tự ưu tiên của server cũng như một danh sách các tên được phân biệt cho các CA có thể chấp nhận. Ở cuối bước 2, server gởi một thông báo SERVERHELLODone đến client để chỉ định sự kết thúc SERVERHELLO và các thông báo đi kèm. Sau khi nhận SERVERHELLO và các thông báo đi kèm, client xác nhận rằng chứng nhận site server (nếu được cung cấp) là hợp lệ và kiểm tra nhằm bảo đảm rằng các thông số bảo mật được cung cấp trong thông báo SERVERHELLO có thể được chấp nhận. Nếu server yêu cầu sự xác thực client, client gởi một thông báo CERTIFICATE vốn chứa một chứng nhận cá nhân cho khóa chung của người dùng đến server ở bước 3. Tiếp theo, client gởi một thông báo CLIENTKEYEXCHANGE có dạng phụ thuộc vào thuật toán cho mỗi khóa được chọn bởi server: - Nếu RSA được sử dụng cho việc xác thực server và trao đổi khóa, client tạo một khóa mật tiền chính 48 byte, mã hóa nó bằng khóa chung được tìm thấy trong chứng nhận site hoặc khóa RSA tạm thời từ thông báo SERVERKEYEXCHANGE và gởi kết quả trở về server trong thông báo CLIENTKEYEXCHANGE. Lần lượt server sử dụng khóa riêng tương ứng để giải mã khóa mật chính. - Nếu các token FORTEZZA được sử dụng để trao đổi khóa, client dẫn xuất một khóa mã hóa token (TEK) bằng cách sử dụng KEA. Phép tình KEA cảu client sử dụng khóa chung từ chứng nhận server cùng với một số tham số riêng trong token của client. Client gởi các tham số chung cần thiết cho server để cũng tạo TEK, sử dụng các tham sô riêng của nó. Nó tạo một khóa mật chính, bao bọc nó bằng cách sử dụng TEK và gởi kết quả cùng với một số vector khởi tạo đến server như là một phần của thông báo CLIENTKEYEXCHANGE. Lần lượt, server có thể giải mã khóa mật chính một cách thích hợp. Thuật toán trao đổi khóa này không được sử dụng rộng rãi. Nếu sự xác thực client được yêu cầu, client cũng gởi một thông báo CERTIFICATEVERIFY đến server. Thông báo này được sử dụng để cung cấp sự xác thực rõ ràng định danh của người dùng dựa vào chứng nhận các nhân. Nó chỉ được gởi theo sau một chứng chỉ client vốn có khả năng tạo chữ ký (tất cả chứng nhận ngoại trừ các chứng nhận chứa các tham số DiffeHallman cố định). Sau cùng, client hoàn tất bước 3 bằng cách gởi một thông báo CHANGECIPHERSPEC và một thông báo FINISHED tương ứng đến server. Thông báo FINISHED luôn được gởi ngay lập tức sau thông báo CHANGECIPERSPEC để xác nhận rằng các tiến trình trao đổi khóa và xác thực đã thành công. Thực tế, thông báo FINISHED là thông báo đầu tiên vốn được bảo vệ bằng các thuật toán mới được thương lượng và các khóa session. Nó chỉ có thể được tạo và được xác nhận nếu những khóa này được cài đặt một cách phù hợp ở cả hai phía. Không đòi hỏi sự báo nhận thông báo FINISHED; các phía có thể bắt đầu gởi dữ liệu được mã hóa ngay lập tức sau khi đã gởi thông báo FINISHED. Việc thực thi SSL Handshake Protocol hoàn tất bằng việc cũng yêu cầu server gởi một thông báo CHANGECIPHERSPEC và một thông báo FINISHED tương ứng đến client ở bước 4.  Sau khi sự thiết lập SSL hoàn tất, một nối kết an toàn được thiết lập giữa client và server. Nối kết này bây giờ có thể được sử dụng để gởi dữ liệu ứng dụng vốn được bao bọc bởi SSL Record Protocol. Chính xác hơn, dữ liệu ứng dụng có thể được phân đoạn, được nén, hoặc được mã hóa và đước xác thực theo SSL Record Protocol cũng như thông tin trạng thái session và nối kết vốn bây giờ được thiết lập (tùy thuộc việc thực thi SSL Handshake Protocol). SSL Handshake Protocol có thể được rutst ngắn nếu client và server quyết định tiếp tục lại một session SSL được thiết lập trước đó (và vẫn được lưu trữ) hoặc lặp lại một session SSL hiện có. Trong trường hợp này, chỉ ba dòng thông báo và tổng cộng sáu thông báo được yêu cầu. Các dòng thông báo tương ứng có thể được tóm tắt như sau: 1: C -> S: CLIENTHELLO 2: S -> C: SERVERHELLO CHANECIPHERSPEC FINISHED 3: S ->C: CHANGECIPHERSPEC FINISHED Ở bước 1, client gởi một thông báo CLIENTHELLO đến server vốn có một định danh session cần được tiếp tục lại. Lần lượt server kiểm tra cache session của nó để tìm một mục tương hợp. Nếu một mục tương hợp được tìm thấy, server muốn tiếp tục lại nối kết bên dưới trạng thái session đã xác định, nó trả về một thông báo SERVERHELLO với cùng một định danh session ở bước 2. Vào thời điểm này, cả client lẫn server phải gởi các thông báo CHANGECIPHERSPEC và FINISHED đến nhau ở bước 2 và 3. Một khi việc tái thiết lập session hoàn tất, client và server có thể bắt đầu trao đổi dữ liệu ứng dung. 4/SSL Record Protocol:     SSL Record Protocol nhận dữ liệu từ các giao thức con SSL lớp cao hơn và xử lý việc phân đoạn, nén, xác thực và mã hóa dữ liệu. Chính xác hơn, giao thức này lấy một khối dữ liệu có kích cỡ tùy ý làm dữ liệu nhập và tọa một loạt các đoạn dữ liệu SSL làm dữ liệu xuất (hoặc còn được gọi là các bản ghi) nhỏ hơn hoặc bằng 16,383 byte. Các bước SSL Record Protocol.     Các bước khác nhau của SSL Record Protocol vốn đi từ một đoạn dữ liệu thô đến một bản ghi SSL Plaintext (bước phân đoạn), SSL Compressed (bước nén) và SSL Ciphertext (bước mã hóa) được minh họa trong hình 1.5. Sau cùng, mỗi bản ghi SSL chứa các trường thông tin sau đây: - Loại nội dung; - Số phiên bản của giao thức; - Chiều dài; - Tải trọng dữ liệu (được nén và được mã hóa tùy ý); - MAC.     Như được minh họa trong hình trên, một số giao thức con SSL được xếp l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTìm hiểu giao thức SSL-TLS cách tấn công và phòng chống.docx