Đáp ứng quốc gia đối với giáo dụcrất ấn tượng. trong lĩnh
vực chăm sóc và phát triển trẻ thơ, ví dụ như Chính phủ đã nêu
rõ rằng mục tiêu là để cải thiện phúc lợi của trẻ em theo cách
toàn diện, đặt nền tảng cho tính cách và giúp các em tiếp tục
học tiểu học. Các văn bản quy phạm pháp luật chính trong giáo
dục bao gồm Luật Phổ cập Giáo dục tiểu học năm 1991 (đã đạt
được), Luật Giáo dục năm 2005 và Kế hoạch Chiến lược phát
triển giáo dục 2001-2010 nhằm mục tiêu duy trì phổ cập giáo dục
tiểu học và đạt được phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010. Đã
có Kế hoạch hành động quốc gia về giáo dục cho trẻ em khuyết
tật 2001-2010, và chính sách giáo dục hòa nhập đang được xây
dựng. Khuôn khổ pháp lý của Việt Nam hỗ trợ mạnh mẽ cho việc
sử dụng tiếng mẹ đẻ trong trường học, và Chính phủ đang thử
nghiệm một số mô hình dạy học song ngữ nhằm thực hiện các
chính sách phù hợp nhất cho trẻ em dân tộc thiểu số. Phân bổ
ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo đã tăng, và là một
phần quan trọng trong chi tiêu công (khoảng 16 % trong năm
2007). tuy nhiên, các hộ gia đình cũng dành một phần lớn thu
nhập của mình chi cho giáo dục, nhiều hộ gia đình dựa vào các
“lớp học thêm” để bổ sung cho chương trình học bình thường ở
trường.
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2590 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tóm tắt phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và các tổ
chức đoàn thể xã hội và chính trị thông qua các chương trình,
chiến lược, chính sách, nghị quyết và chỉ thị về mặt chính trị, và
bằng cách giám sát việc thực hiện các chương trình này. Quốc
Hội, thực hiện vai trò giám sát tối cao các hoạt động của Nhà
nước bao gồm một số ủy ban làm việc trực tiếp liên quan đến
trẻ em, như ủy ban Văn hóa, Giáo dục, thanh thiếu niên và Nhi
đồng (Ub VH-GD-ttN&NĐ), ủy ban Các vấn đề xã hội, ủy ban
Kinh tế và ủy ban tài chính và Ngân sách.
trong Chính phủ, bộ Lao động, thương binh và Xã hội (bộ LĐ-
tb&XH) chịu trách nhiệm quản lý nhà nước đối với quyền trẻ
em, cùng với các bộ ngành có liên quan khác đóng vai trò chủ
chốt trong các lĩnh vực tương ứng của họ như bộ Y tế về sức
khỏe bà mẹ và trẻ em, và bộ Giáo dục và Đào tạo đối với giáo
dục tiểu học, trung học và mầm non. Ngành tư pháp đóng vai trò
quan trọng, và Việt Nam đã có những nỗ lực không ngừng để
cải thiện khuôn khổ pháp lý cho trẻ em và làm rõ cơ cấu tổ chức và
hoạt động của tòa án.
Xã hội dân sự đang dần dần phát triển, và vai trò quan trọng
của nó ngày càng được thừa nhận. Các tổ chức đoàn thể
thuộc mặt trận tổ quốc hoạt động rất tích cực ở cấp cơ sở. Các
cơ quan truyền thông tham gia vào việc cải thiện truyền thông
liên quan đến quyền trẻ em, bao gồm nâng cao nhận thức về
các vấn đề chủ chốt.
Gia đình là nền tảng và là đơn vị xã hội cơ bản ở Việt Nam.
Hiện nay có xu hướng tiến tới gia đình hạt nhân, có nhiều hộ gia
đình do nữ giới làm chủ hộ hơn và có sự gia tăng về đổ vỡ gia
đình. Vai trò về giới trong gia đình vẫn còn hiện hữu.
một tập hợp các đối tượng chịu trách nhiệm quan trọng đối với
trẻ em là các nhà cung cấp dịch vụ công lập và ngoài công
lập. trong thập kỷ qua, khu vực tư nhân đã đóng vai trò ngày
5bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
càng quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội liên quan
đến trẻ em, kết quả là các chính sách của Chính phủ về “xã hội
hóa” các dịch vụ xã hội cơ bản. theo chính sách này, phí người
sử dụng đã được đưa ra. Năm 2006, các hộ gia đình dành hơn
6% tổng chi tiêu hàng tháng vào giáo dục và tỷ lệ tương tự dành
cho y tế, hơi tăng từ năm 2002 khi các tỷ lệ này là dưới 6%. Xu
hướng hiện nay cho thấy có sự bất bình đẳng gia tăng về chất
lượng và số lượng các dịch vụ công giữa nguời dân thành thị và
nông thôn, và giữa người giàu và người nghèo. Các điều kiện
kinh tế kém phát triển cũng cản trở việc cung cấp các dịch vụ
công có liên quan đến trẻ em ở các tỉnh nghèo (chủ yếu là nông
thôn).
Việc lập kế hoạch và lập ngân sách khá phức tạp và diễn ra ở
nhiều cấp. Khuôn khổ lập kế hoạch quan trọng nhất là Kế hoạch
Phát triển kinh tế-xã hội quốc gia 5 năm (KHPt KtXH) trên
cơ sở các kế hoạch của ngành và các KHPt KtXH năm được
xây dựng ở các cấp địa phương. Việt Nam hiện đang cải cách
các quá trình lập kế hoạch và lập ngân sách để phù hợp hơn với
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và với
bối cảnh phân cấp quản lý nhà nước. Phân bổ ngân sách cho
quyền trẻ em được bao gồm trong dòng ngân sách cho ngành
như y tế cơ bản và giáo dục. Chi ngân sách nhà nước cho các
lĩnh vực xã hội, đặc biệt là y tế, giáo dục đang tăng dần, y tế
chiếm 4% và giáo dục và đào tạo chiếm gần 14% chi ngân sách
trung ương trong năm 2007, so với 3% và 11% tương ứng trong
năm 2000.
Chính phủ đã đầu tư vào việc xây dựng và tăng cường các hệ
thống giám sát. Đã có các chỉ số liên quan cụ thể đến trẻ em và
các cuộc khảo sát quốc gia thu thập dữ liệu về trẻ em. Và hiện
đang thực hiện việc điều phối và tập hợp tất cả các dữ liệu liên
quan đến quyền trẻ em và các chỉ số vào hệ thống dữ liệu trung
ương. Hiện chưa có cơ quan giám sát quyền trẻ em độc lập,
như ủy ban Quyền trẻ em đã khuyến nghị năm 2003, mặc dù
đã có nhiều cơ quan (Ví dụ Quốc Hội, bộ LĐ-tb&XH và tổng
cục thống kê) giám sát tác động của các luật pháp, chính sách
và sáng kiến cụ thể liên quan đến trẻ em.
6 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
7bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
Sự sống còn của trẻ em
Tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và trẻ nhỏ đã giảm xuống còn một
nửa trong giai đoạn từ năm 1990-2006, nhưng những cách biệt
vẫn còn tồn tại, với việc tỷ lệ tử vong cao hơn ở khu vực dân
tộc thiểu số, người rất nghèo và những người sống ở vùng sâu
vùng xa. bệnh tật ở trẻ em còn phổ biến bao gồm các lây nhiễm
đường hô hấp, tiêu chảy, và sốt xuất huyết. Độ bao phủ của tiêm
chủng thường là cao trong cả nước, nhưng cũng có sự khác
nhau giữa các vùng. Việt Nam có tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
thể thấp còi cao (3 trẻ em dưới 5 tuổi thì có 1 em bị suy dinh
dưỡng thể thấp còi), và tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn
đối với trẻ dưới 6 tháng tuổi còn rất thấp (17%). Việc bổ sung
các vi chất có độ bao phủ rộng nhưng vẫn còn có thách thức.
Các chương trình kế hoạch hóa gia đình quốc gia nhắm vào đối
tượng các cặp vợ chồng, chứ chưa xem xét đến những thanh
niên chưa kết hôn nhưng có hoạt động tình dục. thanh niên và
vị thành niên chưa có kiến thức đầy đủ về sức khỏe sinh sản,
có nhiều em nam (29%) chưa nhận thức được về các lây nhiễm
qua đường tình dục so với các em nữ (17%) ở khu vực nông
thôn. tỷ lệ tử vong bà mẹ ước tính 75 trên 100.000 ca sinh sống
vào năm 2008, nhưng tỷ lệ này ở người dân tộc thiểu số và vùng
núi, vùng sâu vùng xa còn cao hơn 4 lần. một vấn đề phát sinh
quan trọng là tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh (112 trẻ trai so
với 100 trẻ gái).
Khoảng 243.000 người sống chung với HIV và AIDS vào năm
2009, và con số này có thể cao hơn do thiếu xét nghiệm HIV.
Ước tính khoảng trong 10 người nhiễm HIV dương tính ở Việt
Nam thì có 1 người dưới 19 tuổi và hơn một nửa các ca nhiễm
HIV rơi vào nhóm người trẻ tuổi từ 20 – 29 tuổi. mặc dù tỷ lệ có
HIV đang tăng ở phụ nữ mang thai, nhưng một số ít được cung
cấp thông tin đều đặn về HIV và AIDS trong các lần khám thai.
Dịch bệnh HIV và AIDS hiện không chỉ còn xuất hiện ở nhóm
người có nguy cơ cao; trẻ em có nguy cơ bị nhiễm HIV cao nhất
bao gồm trẻ em lang thang, trẻ em sử dụng ma túy và trẻ em
làm mại dâm. Kỳ thị và phân biệt đối xử với người bị ảnh hưởng
bởi HIV và AIDS vẫn còn phổ biến.
8 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
tỷ lệ dùng nước sạch và vệ sinh đã cải thiện (89% dân số tiếp
cận với nước sạch vào năm 2006), và hầu hết các trường học
có nguồn nước và nhà tiêu (tương ứng với 80% và 73%), nhưng
chưa đến 1 nửa trong số này đáp ứng các tiêu chuẩn quốc gia.
Sự khác biệt trong tiếp cận với nước sạch và vệ sinh còn rõ ràng
giữa các vùng và thành phần dân tộc. Nước và vệ sinh không an
toàn là thách thức chính ở Việt Nam, gây ra khoảng một nửa số
bệnh lây nhiễm trong cả nước.
Thương tích ở trẻ em là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử
vong ở trẻ em từ 1 tuổi trở lên. trong năm 2007, có 7.894 trẻ em
và thanh niên lứa tuổi từ 0-19 đã chết vì các nguyên nhân liên
quan đến thương tích. Hầu hết các thương tích gây tử vong là
do đuối nước, tai nạn giao thông, bị vật sắc nhọn đâm vào và
bị ngộ độc. Khung pháp lý còn chưa đầy đủ và việc thực thi các
văn bản luật pháp đã ban hành còn yếu. một nguy cơ mới đối
với phúc lợi của trẻ em là sự nhận thức kém của cha mẹ, người
chăm sóc và các cán bộ có trách nhiệm về tầm quan trọng của
phòng chống tai nạn thương tích và những cách tiếp cận tốt nhất
trong lĩnh vực này.
Có nhiều chính sách quốc gia, chương trình, chiến lược,
quyết định, nghị định và các chuẩn mực đã được xây dựng
để hỗ trợ quyền trẻ em đối với y tế và sống còn. Có những
thách thức tiềm ẩn đối với đáp ứng của quốc gia: Cần phải có sự
điều phối tốt hơn giữa các ngành và các bộ trong việc đáp ứng
với các vấn đề lồng ghép như dinh dưỡng, thương tích trẻ em,
và HIV và AIDS, cần phải phân bổ ngân sách nhiều hơn cho y tế
(đặc biệt là y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe ban đầu), cần
phải có các quy trình giám sát và đánh giá thu thập số liệu định
kỳ tốt hơn. Độ bao phủ, chất lượng và sự phù hợp của các dịch
vụ y tế trong cả nước, đặc biệt là ở khu vực vùng núi vùng sâu,
vùng xa, nơi dân số chủ yếu là người dân tộc thiểu số, cũng cần
phải được cải thiện.
mỗi bộ ngành có liên quan có trách nhiệm cụ thể trong lĩnh vực
sống còn và sức khỏe của trẻ em. bộ Y tế rõ ràng là có trách
nhiệm tổng thể, nhưng vai trò của bộ NN-PtNt (ví dụ trong việc
thiết kế các chuẩn mực, cung cấp dịch vụ và điều phối cấp nước
nông thôn), bộ GD&Đt (áp dụng các chuẩn mực được thiết kế
9bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
cho trường học an toàn cho trẻ em) và bộ LĐ-tb&XH (trong vận
động, huy động các nguồn lực, và điều phối các hoạt động lồng
ghép để phòng ngừa thương tích trẻ em) cũng rất quan trọng.
một chủ đề xuyên suốt trong lĩnh vực sống còn của trẻ em là sự
đầu tư chưa đầy đủ cả về tài chính và nguồn nhân lực. mặc dù
chi tiêu công về y tế đã tăng đáng kể trong thời gian qua, nhưng
vẫn có những khu vực chưa có đủ nguồn lực (như thiếu và năng
lực cán bộ y tế địa phương thấp, thu thập dữ liệu, sức khỏe sinh
sản vị thành niên, vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường) vẫn
còn tồn tại. một vấn đề quan trọng khác là sự khác biệt về độ
bao phủ và việc sử dụng các dịch vụ y tế giữa các vùng, giữa
khu vực nông thôn và thành thị, giữa các nhóm dân tộc. Các
dịch vụ y tế đôi lúc chưa đủ thân thiện với người sử dụng (cán
bộ y tế thường thiếu kỹ năng trong việc tham vấn, xét nghiệm và
duy trì tính bảo mật thông tin), hoặc chưa được trang bị đủ để
cung cấp các dịch vụ ở mức độ mà chuẩn quốc gia đòi hỏi. Cha
mẹ và những người chăm sóc thường thiếu kiến thức và năng
lực về cách chăm sóc sức khỏe, bao gồm việc cho trẻ sơ sinh
và trẻ nhỏ ăn, và giữ vệ sinh cá nhân cơ bản.
Cũng có những khó khăn về môi trường, như thiếu nước ở
một số nơi, có thể ảnh hưởng tới tiến bộ về sống còn và sức
khỏe trẻ em. Chăm sóc sức khỏe sinh sản chưa được ghi nhận
hoặc được thực hiện đầy đủ, giáo dục sức khỏe sinh sản và giáo
dục giới tính trong nhà trường vẫn phàn nào còn là điều cấm kỵ.
Phụ nữ tiếp cận hạn chế với thông tin về các dịch vụ sức khỏe
sinh sản, và hành vi của họ liên quan đến việc sử dụng các biện
pháp tránh thai và các dịch vụ trước khi sinh có xu hướng do
các mối quan hệ trong gia đình và mối quan hệ giới tính truyền
thống, trình độ học vấn và các điều kiện kinh tế quyết định.
10 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
11bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
Giáo dục và phát triển trẻ em
Đã có những tiến bộ đáng kể trong những năm gần đây liên
quan đến chăm sóc và phát triển trẻ thơ, với 79% trẻ em ở
độ tuổi từ 3-5 đi học mẫu giáo năm 2008. một vấn đề nảy sinh
là phạm vi chăm sóc và giám sát của cha mẹ, với 19% trẻ em
từ 0-59 tháng tuổi hoặc là bị để ở nhà một mình hoặc là được
trẻ khác dưới 10 tuổi trông nom trong năm 2006. tỷ lệ nhập học
tiểu học vượt 90% ở tất cả các nhóm dân số trừ dân tộc thiểu số
và cũng là nhóm người nghèo nhất trong dân số. tỷ lệ chuyển
tiếp sang trung học cơ sở là 91%. Chất lượng giáo dục cũng là
một vấn đề cần quan tâm, với cách tiếp cận dựa vào giáo trình,
bài giảng, phương pháp dạy không cùng tham gia, chương trình
học không phù hợp và năng lực của giáo viên còn thấp là những
điểm hạn chế.
Học sinh dân tộc thiểu số chiếm khoảng 18% số học sinh tiểu
học và 15% số học sinh trung học cơ sở. tỷ lệ nhập học tiểu học
của trẻ em dân tộc thiểu số là khoảng 80%, và tỷ lệ hoàn thành
bậc học này là khoảng 68% và 45% cho bậc trung học. trẻ em
dân tộc thiểu số sống chủ yếu ở vùng núi, thường là xa trường
học. Nếu các em có thể đến trường, thì rào cản ngôn ngữ lại
là cản trở chính đối với việc đạt được giáo dục có chất lượng.
tiếng Việt là ngôn ngữ dạy học chính, và hầu hết trẻ em dân tộc
thiểu số không nói tiếng Việt khi các em bắt đầu đi học. Và giáo
viên thường không thể dạy bằng tiếng dân tộc. tỷ lệ trẻ em gái
người dân tộc thiểu số nhập học và đi học thấp nhất trong bất
kể nhóm nào. Nhóm trẻ này cũng có tỷ lệ lưu ban và bỏ học cao
nhất, tỷ lệ hoàn thành bậc tiểu học thấp nhất và tỷ lệ chuyển tiếp
từ tiểu học sang trung học thấp nhất.
Khoảng 52% trẻ em khuyết tật không đi học. Có ba cách tiếp
cận đối với giáo dục cho trẻ em khuyết tật ở Việt Nam: trường
học chuyên biệt (chỉ nhận trẻ khuyết tật), trường học hội nhập
(trường học đặc biệt cho trẻ em khuyết tật vào học chung với
môi trường học tập hòa nhập) và trường học hòa nhập (trường
học bình thường thực hiện mô hình giáo dục hòa nhập có thể
tạo điều kiện nhận 2 trẻ em khuyết tật vào một lớp).
12 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
Việt Nam đã đầu tư vào việc thúc đẩy quyền trẻ em đối với vui
chơi và giải trí. Các trường học là địa điểm quan trọng cho trẻ
em vui chơi và tham gia vào các hoạt động vui chơi. trẻ em ở
một số vùng nông thôn Việt Nam có thể bắt đầu lao động khi mới
6 tuổi, và khi trẻ lớn hơn, các em có thể được giao cho những
công việc quan trọng. Cùng với trách nhiệm học hành, điều này
giảm sự quan tâm và thời gian cho việc vui chơi. Chính phủ đã
đầu tư xây dựng các cơ sở giải trí cho trẻ em và tổ chức các
hoạt động vui chơi và giải trí khác nhau, nhưng vẫn cần phải đầu
tư nhiều hơn vào khu vực vùng núi, vùng sâu vùng xa, nơi trẻ
em có ít tiếp cận với các nơi vui chơi, giải trí.
Đáp ứng quốc gia đối với giáo dục rất ấn tượng. trong lĩnh
vực chăm sóc và phát triển trẻ thơ, ví dụ như Chính phủ đã nêu
rõ rằng mục tiêu là để cải thiện phúc lợi của trẻ em theo cách
toàn diện, đặt nền tảng cho tính cách và giúp các em tiếp tục
học tiểu học. Các văn bản quy phạm pháp luật chính trong giáo
dục bao gồm Luật Phổ cập Giáo dục tiểu học năm 1991 (đã đạt
được), Luật Giáo dục năm 2005 và Kế hoạch Chiến lược phát
triển giáo dục 2001-2010 nhằm mục tiêu duy trì phổ cập giáo dục
tiểu học và đạt được phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010. Đã
có Kế hoạch hành động quốc gia về giáo dục cho trẻ em khuyết
tật 2001-2010, và chính sách giáo dục hòa nhập đang được xây
dựng. Khuôn khổ pháp lý của Việt Nam hỗ trợ mạnh mẽ cho việc
sử dụng tiếng mẹ đẻ trong trường học, và Chính phủ đang thử
nghiệm một số mô hình dạy học song ngữ nhằm thực hiện các
chính sách phù hợp nhất cho trẻ em dân tộc thiểu số. Phân bổ
ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo đã tăng, và là một
phần quan trọng trong chi tiêu công (khoảng 16 % trong năm
2007). tuy nhiên, các hộ gia đình cũng dành một phần lớn thu
nhập của mình chi cho giáo dục, nhiều hộ gia đình dựa vào các
“lớp học thêm” để bổ sung cho chương trình học bình thường ở
trường.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm xây dựng, theo dõi,
giám sát và thực hiện giáo dục (mầm non, tiểu học, trung học,
dân tộc thiểu số/song ngữ và nhu cầu đặc biệt) trong cả nước.
bộ này cũng điều phối và thực hiện các hoạt động ngoại khóa.
Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm cung cấp và điều
phối các trường trung học, tiểu học và mầm non. mặc dù ngành
13bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
này đã thực thi các hoạt động mạnh mẽ, nhưng Chính phủ cũng
ghi nhận rằng hệ thống quản lý giáo dục ở tất cả các cấp (trung
ương, tỉnh, huyện và trường học) cần phải cải thiện hơn nữa.
Chi phí giáo dục tiếp tục tăng đáng kể, với chi phí bình quân
cho giáo dục theo chi tiêu của hộ gia đình tăng gấp đôi từ năm
2002 đến năm 2006 (đạt 1.211.000 đồng hoặc xấp xỉ 67 USD
hàng năm vào năm 2006). Học phí là phần lớn nhất trong chi
phí cho giáo dục (khoảng 30%), nhưng cha mẹ cũng phải trả
các khoản như đóng góp quỹ lớp, đồng phục, sách giáo khoa,
dụng cụ học tập và học thêm. Có rất ít giáo viên có chất lượng,
đặc biệt là giáo viên người dân tộc thiểu số. trường học thường
thiếu nhà vệ sinh, nước sạch, sách và các tài liệu học hoặc chỗ
vui chơi an toàn. trường học ở vùng núi, vùng sâu vùng xa là
những nơi thiệt thòi nhất. Học sinh người dân tộc thiểu số phải
đối mặt với thêm nhiều thử thách khi không được học bằng
tiếng mẹ đẻ. Và có ít giáo viên có chất lượng để dạy trẻ chậm
phát triển hoặc tiếp thu chậm, dẫn đến những thách thức cho
trẻ em khuyết tật. mặc dù Việt Nam đã làm tốt trong việc giảm
cách biệt về giới trong giáo dục, vẫn có những khoảng cách
quan trọng trong thành tựu đạt được cho trẻ em nam và nữ, đặc
biệt là ở các nhóm dân tộc thiểu số. một khó khăn cụ thể đối với
giáo dục hòa nhập, đặc biệt là đối với trẻ em khuyết tật, là nhu
cầu cần phải có sự gắn kết và điều phối giữa các bộ ngành có
liên quan, xét tới bản chất lồng ghép của giáo dục hòa nhập. Về
phương diện vui chơi giải trí, mặc dù đã có những nỗ lực của
Chính phủ , nhưng hầu hết các hoạt động vui chơi giải trí vẫn chỉ
có ở khu vực thành thị.
14 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
Hình 3: Sự khác biệt giữa các vùng về các chỉ số liên quan
tới trẻ em, 2006
15.5 13.8
36.16 36.16
36.16 36.16
120
100
80
60
40
20
0
10
80
63
50
58
80
100
4648
Nam Bộ
44,4
68,5
15,5
39,8
34,7
13,8
96,2
66,9
20,9
81,3
68,8
23,6
59,6
58,6
32,4
32,3
10,7
87,3
43,8
15,7
91,7
64,1
57,1
15,8
87,7
64,3
Cả Nước
Nguồn: tCtK & UNICEF Việt Nam (2007) MICS 2006
15bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
16 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
bảo vệ trẻ em
Bảo vệ trẻ em ở Việt Nam nhìn chung được tiếp cận từ quan
điểm: nhiều nhóm trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt khác nhau.
Nhưng cách tiếp cận hệ thống, tập trung vào việc xây dựng các
hệ thống pháp lý và an sinh xã hội cho tất cả những trẻ em dễ
bị tổn thương, đang dần được đưa ra. Ở phạm vi nhất định,
những hoàn cảnh khó khăn mà nhiều trẻ em Việt Nam phải đối
mặt nảy sinh do sự thay đổi về mặt kinh tế xã hội gần đây, theo
sau đó là sự chuyển dịch nhanh chóng sang nền kinh tế thị
trường. Có khoảng cách rộng giữa người giàu và người nghèo,
đô thị hóa và di cư đang phát triển nhanh chóng, đổ vỡ gia đình
đang trở nên phổ biến hơn và các giá trị truyền thống đang dần
bị xói mòn.
Việc sử dụng vũ lực đối với thân thể (thường là đánh) như là
hình phạt hoặc đối với việc dạy dỗ con cái thường thấy ở Việt
Nam, nhưng vẫn chưa có định nghĩa cụ thể nào về lạm dụng
thân thể trẻ em trong luật pháp hiện hành. Lạm dụng tình dục trẻ
em đang là vấn đề ở Việt Nam. Có cả nam và nữ dưới 18 tuổi
tham gia vào hoạt động tình dục vì mục đích thương mại, và
trẻ em gái tham gia vào hoạt động mại dâm này ở độ tuổi nhỏ
hơn. Khoảng 15% phụ nữ làm mại dâm là dưới 18 tuổi. Gia đình
nghèo, trình độ học vấn thấp và chức năng gia đình thay đổi
cũng nằm trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng
bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại. buôn bán trẻ em
và phụ nữ là một vấn đề cần quan tâm bao gồm buôn bán trong
nước và giữa các nước.
theo bộ LĐ-tb&XH, trong năm 2007, ước tích có 2,5 triệu trẻ
em sống trong “hoàn cảnh đặc biệt” bao gồm 168.000 trẻ em
mồ côi và trẻ em không được cha mẹ đẻ chăm sóc, 27.000 trẻ
em lao động sớm, hơn 13.000 trẻ em lang thang, hơn 14.500
trẻ sống trong các trung tâm, 3.800 trẻ em sử dụng ma túy, và
ít nhất có 900 trẻ em bị lạm dụng tình dục. Năm 2006, khoảng
16% trẻ em độ tuổi từ 5-14 tuổi tham gia vào lao động trẻ em.
Có nhiều trẻ em lao động ở khu vực nông thôn hơn ở thành thị.
Hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất được Chính phủ xác định
17bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
là mại dâm trẻ em, làm việc trong các hầm mỏ, làm việc tại các
tụ điểm tư nhân làm xây dựng và bới rác.
Con số ước tính trẻ em lang thang nhiều biến động, và ước
tính khoảng 13.000 trong năm 2007. Hầu hết trẻ em lang thang
xuất thân từ các tỉnh nghèo và trong các gia đình nghèo, đông
con; khoảng 37% trong số đó là trẻ mồ côi. trẻ em lang thang có
nguy cơ sử dụng ma túy cao, nhiễm HIV, bị bóc lột tình dục và
buôn bán và tham gia vào hoạt động tội phạm. Số trẻ em bị ảnh
hưởng bởi HIV và AIDS đang tăng nhanh chóng.
theo báo cáo của bộ LĐ-tb&XH năm 2008, tỷ lệ khuyết tật là
6.3% trong tổng dân số. trong nhóm dân độ tuổi từ 0-18 tuổi, tổng
số trẻ em khuyết tật được báo cáo là 662.000 (2,4% tổng số dân
trong nhóm tuổi này). Dạng khuyết tật phổ biến nhất ở trẻ em là
khuyết tật vận động, ảnh hưởng tới 1/3 số trẻ em khuyết tật.
Số vị thành niên làm trái pháp luật đang tăng. từ năm 2001
đến tháng 6 năm 2006, gần 28.000 vị thành niên phạm tội và bị
truy tố. bộ tư pháp báo cáo trong năm 2009 có 15.589 vị thành
niên làm trái pháp luật. Các trường hợp phạm tội phổ biến nhất
là trộm cắp, gây mất trật tự công cộng, cố ý gây thương tích, lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, nghiện ma túy và cướp, giật.
trong số các văn bản luật pháp có liên quan trong lĩnh vực
bảo vệ trẻ em chính là Luật bảo Vệ, Chăm sóc và Giáo dục
trẻ em, bộ luật Hình sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, bộ luật
Lao động. một lĩnh vực quan trọng cần hành động là Công ước
Hague về nhận con nuôi mà Việt Nam chưa phê chuẩn. Cần
phải tăng cường hơn nữa khuôn khổ pháp lý, ví dụ như bằng
cách định nghĩa những khái niệm chính như lạm dụng trẻ em
một cách rõ ràng hơn. Chiến lược bảo vệ trẻ em hiện đang
được bộ LĐ-tb&XH xây dựng nhằm mang lại sự gắn kết lớn
hơn đối với các văn bản luật pháp và chính sách trong lĩnh vực
đa dạng này.
Các cơ quan chịu trách nhiệm chính trong lĩnh vực bảo vệ
trẻ em bao gồm gia đình, các cơ quan nhà nước và các tổ chức
khác chịu trách nhiệm xây dựng hệ thống an sinh xã hội. bộ LĐ-
tb&XH là cơ quan chủ quản về chăm sóc và bảo vệ trẻ em, gần
18 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
đây đã thành lập Cục Chăm sóc và bảo vệ trẻ em. mặc dù bản
chất của vấn đề bảo vệ trẻ em mang tính liên ngành, cần phải
xác định rõ vai trò và trách nhiệm rõ ràng để và thúc đẩy việc lập
kế hoạch, lập ngân sách và thực thi mang tính liên ngành. Cũng
cần phải có nhiều cán bộ làm công tác xã hội hơn (một ngành
nghề mới ở Việt Nam). Các giáo viên, cán bộ y tế, công an, cán
bộ tư pháp và những nhà chuyên môn khác làm việc trong lĩnh
vực trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt cần phải được đào tạo cụ
thể. Cũng cần phải tăng kiến thức về quyền trẻ em và nghĩa vụ
của cha mẹ, người chăm sóc, họ hàng và trẻ em nếu xem họ có
hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với trẻ em không. Phân bổ
nguồn lực cho bảo vệ trẻ em vẫn còn chưa đủ.
Thách thức chính trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em bao gồm việc
chưa có một hệ thống an sinh xã hội hiệu quả và mạnh mẽ và
thiếu các dịch vụ bảo vệ và dịch vụ xã hội chuyên nghiệp có
khả năng đáp ứng đầy đủ cho trẻ em dễ bị tổn thương. Chưa
có “tính liên tục trong dịch vụ” về bảo vệ trẻ em để có thể đảm
bảo sự bảo vệ và an sinh cho trẻ em ở mọi lúc mọi nơi và ở tất
cả các cấp. Cũng chỉ có một số hạn chế các dịch vụ chuyên biệt
cho trẻ em có nguy cơ (ví dụ như chương trình hỗ trợ ở trường
học). một cơ chế hoặc hệ thống phòng ngừa, phát hiện sớm và
xác định rõ trẻ em dễ bị tổn thương và các gia đình có nguy cơ,
gắn với can thiệp sớm và chuyển tuyến đến các dịch vụ đặc biệt
vẫn chưa được xây dựng. mặc dù Chính phủ thúc đẩy các giải
pháp chăm sóc dựa vào cộng đồng hơn là chăm sóc trong trung
tâm, nhưng số các mô hình chăm sóc thay thế cho những trẻ
em có nguy cơ và thiệt thòi vẫn còn hạn chế. Việt Nam vẫn chưa
có một cơ quan chuyên trách hoặc thủ tục riêng cho việc điều
tra các khiếu nại về lạm dụng trẻ em. Còn thiếu dữ liệu quốc gia
đáng tin cậy về các vấn đề bảo vệ trẻ em, bao gồm số trẻ em bị
lạm dụng, buôn bán hoặc bóc lột tình dục.
19bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
20 bÁO CÁO tóm tắt PHÂN tÍCH tHÌNH HÌNH tRẺ Em tẠI VIỆt NAm 2010
Sự tham gia của trẻ em
Quyền được tham gia của trẻ em là một khái niệm tương đối
mới ở Việt Nam. trẻ em tham gia vào nhiều hoạt động trong
gia đình, nhà trường và cộng đồng và đã chứng tỏ mình có khả
năng đóng góp có ý nghĩa vào những quá trình này. tuy nhiên,
sự tham gia của trẻ em vẫn chưa được thể chế hóa, và vẫn còn
mang tính chiếu lệ.
Gia đình là môi trường mang tính bảo vệ tốt cho trẻ em. một số
đặc điểm nhất định của gia đình truyền thống Việt Nam đã đặt ra
những thách thức cho sự tham gia đầy đủ của trẻ em, như niềm
tin rằng trẻ ngoan thì phải luôn luôn nghe lời. trong gia đình,
giới tính và độ tuổi xác định địa vị của một con người, trẻ em gái
thường có vị trí kém hơn trẻ trai, và người già thường được kính
trọng và được coi là khôn ngoan hơn người trẻ.
Ở trường học, đã có những nỗ lực đáng kể trong việc xây
dựng và thực thi các phương pháp dạy học cùng tham gia hơn
nhưng cần phải đào tạo và nâng cao năng lực hơn nữa cho giáo
viên. Đội thiếu niên đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
các hoạt động của học sinh. Hình phạt thân thể và bắt nạt ảnh
hưởng tới sự tham gia của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo tóm tắt phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam 2010.pdf