Báo cáo Tổng hợp tại Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

I: TỔNG QUAN VỀ VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG (CIEM) 2

1. Quá trình hình thành và phát triển của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương. 2

2. Chức năng, nhiệm vụ của Viện. 7

2.1. Vị trí và chức năng. 8

2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Viện. 8

II. SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ CÁC CHỨC NĂNG CỦA CÁC PHÒNG BAN. 10

1. Cơ cấu tổ chức và các phòng ban. 10

2.Sơ đồ cơ cấu tổ chức 11

III. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN. 12

1. Hoạt động nghiên cứu khoa học. 12

2. Nghiên cứu và tham mưu xây dựng chủ trương, đường lối và chỉ đạo công cuộc đổi mới. của Đảng và Nhà nước. 15

3.Đội ngũ cán bộ 17

IV. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN. 19

1.Tính tất yếu của sự đổi mới. 19

2. Nội dung định hướng hoạt động nghiên cứu. 19

LỜI KẾT 20

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2294 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tổng hợp tại Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tổ gồm những cán bộ biệt phái từ các Bộ, ngành và sau này là Ban nghiên cứu cải tiến quản lý kinh tế trực thuộc Ban Bí thư và Chính phủ. Do đòi hỏi cấp thiết phải nghiên cứu phương thức quản lý kinh tế mới, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương được thành lập trên cơ sở Ban nghiên cứu cải tiến quản lý kinh tế. Căn cứ vào Quyết định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 111-CP ngày 18/05/1978 quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW. Năm 1992, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 07-CP ngày 27/10/1992 giao cho Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước(nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) phụ trách Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương. Ngày 29/11/1995 Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành quyết định số 17-BKH/TCCB quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Viện đựơc coi là cơ quan tương đương Tổng cục loại I và có tài khoản cấp I. Năm 2003, theo quyết định số 233/2003/QĐ-TTg ngày 13/11/2003 của Thủ tướng Chính phủ, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương là Viện cấp Quốc gia, trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Sau đây là những chặng đường phát triển của Viện từ khi thành lập cho đến nay: Giai đoạn từ khi thành lập đến 1998. Ngày 18/5/1978 Chủ tịch ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa VI, phê chuẩn việc thành lập Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cơ quan ngang bộ của Hội đồng Chính phủ theo Nghị định số 111/CP. Trong 30 năm qua đã có nhiều diễn biến quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội nước ta, đó là thời kỳ quan trọng đặt nền móng và kiếm tìm những kinh nghiệm cho sự chuyển đổi có tính chất cách mạng của nền kinh tế Việt Nam, thời kỳ đổi mới toàn diện của đất nước làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Ngay sau khi miền Bắc được giải phóng Đảng đã tập trung sức lãnh đạo khôi phục, cải tạo nền kinh tế và bắt đầu công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Thành tựu đạt được là rất to lớn, song từ cuối năm 1965 chiến tranh lan rộng ra miền Bắc đã buộc chúng ta phải chuyển hướng vừa phát triển kinh tế vừa chiến đấu bảo vệ miền Bắc XHCN, chi viện cho tiền tuyến lớn, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn, nhưng ngay từ giữa những năm 60 chúng ta đã nhận thấy những vướng mắc trì trệ trong quản lý hành chính, cung cấp và đề ra nhiều phong trào như Ba xây, Ba chống, cải tiến quản lý HTX nông nghiệp vòng I, vòng II,…Nhà nước cũng đã mời các chuyên gia cố vấn của CHDC Đức sang giúp đỡ, nhằm khắc phục những vướng mắc, trì trệ trong quản lý. Tuy nhiên do điều kiện khách quan và chủ quan, công cuộc cải cách kinh tế đã không đạt được những tiến bộ mong muốn và cần thiết. Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, với khí thế hào hùng của cả dân tộc, cả nước bước vào xây dựng XHCN với kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980), nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó tình hình kinh tế lại lâm vào tình thế khó khăn, bế tắc. Do vậy nhiệm vụ nghiên cứu quản lý kinh tế đã được Đảng và Nhà nước đặt ra. Đại hội IV đã đề ra một nhiệm vụ “…Tổ chức lại nền sản xuất xã hội trong phạm vi cả nước, cải tiến phương thức quản lý kế hoạch hóa làm chính, kiện toàn bộ máy quản lý kinh tế…”, “…thực hiện một sự chuyển biến sâu sắc trong tổ chức và quản lý kinh tế trong cả nước…”. Thực hiện chủ chương của Đại hội trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế, Trung ương Đảng và Chính phủ thấy cần thiết phải có một cơ quan riêng không bị cuốn hút vào công việc điều hành hàng ngày, cơ quan này chuyên nghiên cứu, nhận xét đánh giá khách quan quá trình này và kiến nghị các biện pháp khả thi, hữu hiệu nhằm quản lý ngày một tốt hơn nền kinh tế trong cả nước Từ những yêu cầu khách quan đó mà Trung ương Đảng và Chính phủ đã lần lượt thành lập một số tổ nhóm gồm những cán bộ biệt phái từ các Bộ, ngành và sau này là Ban nghiên cứu cải tiến quản lý kinh tế trực thuộc Ban bí thư và Chính phủ. Nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Chính phủ đã trực tiếp phụ trách các tổ chức nghiên cứu đó như Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị, phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh,… Trước đòi hỏi ngày càng bức xúc của thực tiễn, yêu cầu cấp bách phải nghiên cứu có luận cứ về phương thức quản lý kinh tế mới nên đã thúc đẩy việc chuyển Ban nghiên cứu cải tiến quản lý kinh tế thành Viện. Ngày 14/7/1977 Bộ Chính Trị Ban chấp hành Trung ương (khóa 4) ra Quyết định 209-NQ-NS/TW thành lập Viện nghiên cứu quản lý kinh tế của Trung ương Đảng và Chính phủ, cử đồng chí Nguyễn Văn Trân làm Viện trưởng, đồng chí Đoàn Trọng Truyến làm phó Viện trưởng. Ngày 10/11/1977 Ban bí thư ra Quyết định số 04 QĐ/TW quy định nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế công tác của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW. Căn cứ vào điều 53 của Hiến pháp năm 1959, điều 3 của Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ và theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Quyết nghị số 215-NQ/QHK6 ngày 17/4/1978 phê chuẩn việc thành lập Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, cơ quan ngang Bộ của Hội đồng Chính phủ. Đến năm 1980, nhằm tạo thuận lợi cho việc thống nhất chỉ đạo, Ban bí thư TW khóa IV đã Quyết định để Viện thôi trực thuộc Ban bí thư chỉ còn trực thuộc Chính phủ nhưng chức năng nhiệm vụ của Viện giữ nguyên không thay đổi. Giai đoạn từ 1998 đến nay. Trong giai đoạn hiện nay, tình hình kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động và thay đổi lớn, việc đưa ra các chính sách đòi hỏi phải kịp thời và mang tính chiến lược chính vì vậy khối lượng công việc của Viện ngày càng nhiều, vai trò, trách nhiệm của Viện trong công cuộc đẩy mạnh, phát triển đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được đánh giá cao. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong tình hình mới, Viện đã có những cải cách, thay đổi lớn. Trước hết là việc nâng cao đội ngũ cán bộ trong Viện, Viên đã cho nhiều cán bộ đi học thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài, coi trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ qua thực tiễn, coi thực tế đất nước là trường đại học lớn để bồi dưỡng và rèn luyện cán bộ. Cơ sở vật chất cũng không ngừng được cải thiện. Từ một cơ sở nghèo nàn chật hẹp khi mới thành lập, đến nay nhờ có sự giúp đỡ và đầu tư của Nhà nước, sự hỗ trợ của các đơn vị trong và ngoài nước, Viện đã đầu tư xây dựng được một khu làm việc khang trang với thiết bị và phương tiện làm việc ngày càng được tăng cường để từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu hiện tại. Đặc biệt trong 2 năm 2002-2003, Viện đã triển khai thực hiện và hoàn thành dự án: “Đầu tư theo chiều sâu, nâng cao năng lực hoạt động của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương”. Kết quả dự án đã cải tạo và nâng cấp 2 tòa nhà làm việc của Viện, với diện tích được tăng thêm, đồng thời với việc bố trí các phòng làm việc hợp lý, các trang thiết bị, máy móc hiện đại, tiện sử dụng, cải thiện môi trường làm việc cho cán bộ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của một Viện nghiên cứu. Từ một thư viện với tủ sách nhỏ chuyên ngành quản lý, Viện đã phát triển thành một trung tâm thông tin tư liệu. Thư viện hiện nay có khoảng 15000 đầu sách; trên 100 loại báo và tạp chí trong và ngoài nước; trên 3500 bản tài liệu, đề tài nghiên cứu khoa học, tài liệu tra cứu… Hoạt động thư viện đã được tin học hóa. Hiện nay cơ sở dữ liệu với thư mục điện tử đã có trên 17000 biểu ghi và có thể tra cứu thông tin qua mạng LAN. Với một đội ngũ cán bộ không nhiều, Trung tâm đã thu thập, lựa chọn và xử lý hàng nghìn tài liệu tham khảo các vấn đề cập nhật trong quản lý kinh tế phục vụ nghiên cứu công tác quản lý kinh tế của Viện, phục vụ các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cùng một số cơ quan khác. Đã xuất bản và phát hành hàng trăm ấn phẩm và đầu sách. Trung tâm thông tin tư liệu có một kho sách, báo, tạp chí quý giá với khoảng 15 nghìn cuốn sách, nhiều loại báo, tạp chí, bản tin trong nước và ngoài nước; là nơi lưu trữ nhiều sách mới của nước ngoài: Anh, Pháp, Đức, Úc về kinh tế và quản lý kinh tế. Việc hình thành thư viện điện tử để phục vụ nghiên cứu đang trong giai đoạn hoàn tất. Hiện nay Viện đã có hệ thống mạng thông tin nội bộ phục vụ cho công tác quản lý và chia sẻ thông tin nghiên cứu. Các cán bộ của Viện đều có thể truy cập vào mạng Internet để cập nhật tin tức và thông tin phục vụ công tác nghiên cứu và trao đổi thư tín Chức năng, nhiệm vụ của Viện. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương đựơc quy định trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/11/2003. Quyết định được căn cứ vào Luật tổ chức Chính phủ ngày 25/12/2001. Căn cứ Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05/11/2002 của Chính phủ quy định chức năng, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ; Căn cứ nghị định số 61/2003/NĐ-CP ngày 06/06/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Quy định của Thủ tướng về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương được cụ thể như sau: 2.1. Vị trí và chức năng. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương là Viện cấp quốc gia, trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có chức năng nghiên cứu và đề xuất về thể chế, chính sách, kế hoạch hóa, cơ chế quản lý kinh tế, môi trường kinh doanh, cải cách kinh tế; tổ chức nghiên cứu khoa học, đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế và tổ chức hoạt động tư vấn theo quy định của pháp luật Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương là đơn vị sự nghiệp khoa học, có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng; hoạt động tự chủ theo quy định của pháp luật. 2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Viện. Tổ chức nghiên cứu xây dựng các đề án về thể chế kinh tế, đổi mới quản lý kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế , kế hoạch hóa, môi trường kinh doanh và những vấn đề khác thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế vĩ mô, liên ngành theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Phối hợp với các đơn vị trong Bộ Kế hoạch Đầu tư nghiên cứu và xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực nghiên cứu của Viện theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Tổng hợp và đề xuất cơ chế, chính sách kinh tế cần bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới; tham gia nghiên cứu, thẩm định các cơ chế chính sách thuộc lĩnh vực kinh tế vĩ mô, do các Bộ, ngành chủ trì soạn thảo; Tổ chức triển khai thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực được giao và các lĩnh vực khoa học khác theo quy định của pháp luật; Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn quản lý kinh tế trong nước, kinh nghiệm quốc tế, đề xuất việc thí điểm áp dụng những cơ chế, chính sách, mô hình tổ chức quản lý kinh tế mới theo yêu cầu thực tiễn kinh tế-xã hội của Việt Nam; Nghiên cứu, tổng kết lý luận và phương pháp luận về khoa học quản lý kinh tế và kế hoạch hóa; nghiên cứu thực tiễn, xây dựng và phát triển khoa học quản lý kinh tế ở Việt Nam; Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý kinh tế theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Làm công tác thông tin, tư liệu và xuất bản về quản lý kinh tế, tổ chức hoạt động tư vấn về quản lý kinh tế, ký kết, thực hiện các hợp đồng nghiên cứu khoa học; tham gia bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý kinh tế và cán bộ sau đại học theo quy định của pháp luật; Hỗ trợ nội dung và kỹ thuật cho các hoạt động của Câu lạc bộ giám đốc các địa phương; Quản lý, tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng thuộc Viện và tài chính, tài sản kinh phí được giao theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý của Bộ trưởng Bộ Kế hoach và Đầu tư; Thực hiện những nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao; II. SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ CÁC CHỨC NĂNG CỦA CÁC PHÒNG BAN. 1. Cơ cấu tổ chức và các phòng ban. Để thực hiện chức năng và nhiệm vụ trên, cơ cấu tổ chức của viện theo nghị định trên gồm có: +Về lãnh đạo Viện. Viện có Viện trưởng và các Phó Viện trưởng. Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư về toàn bộ hoạt động của Viện. Phó viện trưởng do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương và chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về lĩnh vực công tác được phân công. +Về cơ cấu tổ chức của Viện: Ban nghiên cứu thể chế kinh tế; Ban nghiên cứu chính sách kinh tế vĩ mô; Ban nghiên cứu cải cách và phát triển doanh nghiệp; Ban nghiên cứu chính sách phát triển kinh tế nông thôn; Ban nghiên cứu khoa học quản lý kinh tế; Ban nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế; Trung tâm Tư vấn quản lý và Đào tạo; Trung tâm thông tin tư liệu; Văn phòng; 2.Sơ đồ cơ cấu tổ chức VIỆN TRƯỞNG VIỆN PHÓ VIỆN PHÓ VIỆN PHÓ HỘI ĐỒNG KHOA HỌC Ban nghiên cứu chính sách kinh tế vĩ mô Trung tâm thông tin-tư liệu Câu lạc bộ Giám Đốc Ban nghiên cứu khoa học quản lý kinh tế Ban nghiên cứu thể chế kinh tế Ban nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế Văn phòng Viện Ban nghiên cứu cải cách và phát triển doanh nghiệp Ban nghiên cứu chính sách phát triển kinh tế nông thôn Tạp chí quản lý kinh tế Trung tâm tư vấn quản lý và đào tạo Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Viện Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức các đơn vị trực thuộc Viện theo quy định của pháp luật. Như vậy, tuy có những thay đổi về tổ chức và cơ cấu nhưng về cơ bản chức năng, nhiệm vụ của Viện không thay đổi mà ngày càng được xác định rõ hơn, cụ thể hơn nhằm vào mục tiêu cơ bản là nghiên cứu cơ chế, chính sách quản lý kinh tế phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước III. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN. 1. Hoạt động nghiên cứu khoa học. Ngay từ khi thành lập Viện luôn coi trọng công tác tổ chức nghiên cứu khoa học gắn liền với tổng kết thực tiễn nhằm tạo luận cứ khoa học, thực tiễn cho việc xây dựng các đề án quản lý kinh tế tham mưu với Đảng và Nhà nước. Ngay từ những năm đầu hoạt động, Nhà nước chưa tổ chức nghiên cứu khoa học theo các chương trình và đề tài như hiện nay, Viện đã tự đề ra các đề án nghiên cứu khoa học để làm tốt chức năng tham mưu trên cơ sở phát huy năng lực nghiên cứu của đội ngũ cán bộ của Viện và các cộng tác viên nghiên cứu bên ngoài. Thời kỳ đầu Viện đã tập trung nghiên cứu đề án “thực hiện một sự chuyển biến sâu sắc trong tổ chức và quản lý kinh tế”. Cuối năm 1987 Viện đã tập trung lực lượng nghiên cứu đề án “Đổi mới quản lý nền kinh tế quốc dân” để làm cơ sở cho việc cụ thể hóa đường lối đổi mới của Đảng được xác định tại Đại hội Đảng lần thứ VI. Đề án bao gồm 9 chuyên ngành có liên quan đến hầu hết các khía cạnh, lĩnh vực của hệ thống quản lý kinh tế. Trong mấy thập kỷ gần đây, lý luận quản lý kinh tế phát triển mạnh, các học thuyết kinh tế nở rộ, đề cập nhiều vấn đề của kinh tế học các nước đang phát triển, các nước trong quá trình chuyển đổi. Gần đây khủng hoảng kinh tế đã đề ra những vấn đề mới, rất cấp bách cho kinh tế học và các chính sách kinh tế. Từ tình hình đó Viện đã dành thời gian để tâm nghiên cứu các học thuyết kinh tế trong đó có các học thuyết kinh tế hiện đại, các trường phái quản lý, các xu hướng chuyển đổi kinh tế ở các nước xã hội chủ nghĩa. Viện đã tổ chức nhiều cuộc báo cáo khoa học, hội thảo để trao đổi kết quả nghiên cứu. Viện cũng đã tổ chức nhiều buổi thuyết trình lý thuyết về khoa học quản lý, mối quan hệ giữa quản lý kinh tế với quản lý xã hội để giúp Viện có thêm kiến thức, thông tin phục vụ nghiên cứu, hoạch định chính sách. Từ khi việc nghiên cứu khoa học được Nhà nước thống nhất tổ chức và đánh giá, các hoạt động nghiên cứu của Viện được triển khai thông qua các chương trình cấp Nhà nước, đề tài cấp Nhà nước, đề tài cấp Bộ, đề tài cấp cơ sở. Kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học được thể hiện rõ ràng hơn và được đánh giá theo quy chuẩn của Nhà nứơc, cụ thể như sau: *Đề tài Thực hiện chương trình, đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước. Giai đoạn 1986-1990, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương được giao chủ trì nghiên cứu một chương trình trọng điểm cấp Nhà nước đó là chương trình “nghiên cứu những vấn đề chủ yếu trong hệ thống quản lý kinh tế ở Việt Nam”, mã số 98A. Chương trình 98A gồm một hệ thống gồm 24 đề tài khác nhau, Viện trực tiếp làm chủ nhiệm chương trình và thực hiện nghiên cứu 8 đề tài thuộc các lĩnh vực quản lý tiền tệ và tín dụng, sắp xếp lại sản xuất và đổi mới quản lý công nghiệp, nông-lâm-ngư nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, thương nghiệp và dịch vụ, đào tạo cán bộ quản lý và vận dụng điều khiển học và tin học trong nghiên cứu mô hình hóa trong nghiên cứu cơ chế kinh tế, phân tích và thiết kế bảo đảm tổ chức thông tin trong quản lý kinh tế và xí nghiệp công nghiệp. Từ 1990 đến nay, Viện còn tổ chức nghiên cứu hơn 12 đề tài cấp Nhà nước độc lập gồm các đề tài về dự báo phát triển công nghiệp; nghiên cứu về tiêu hao vật chất; đánh giá những chuyển biến trong kinh tế Việt Nam từ Đại hội VI đến nay, phương hướng tiếp tục đổi mới quản lý trong thời gian tới; đề tài sử dụng mô hình kinh tế lượng trong việc phân tích chính sách và dự báo kinh tế vĩ mô; đề tài về cơ sở khoa học cho việc định hướng chính sách và các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế… và nhiều đề tài mới, cấp thiết khác đang được thực hiện với mục tiêu đẩy mạnh phát triển kinh tế nước nhà. *Đề tài cấp Bộ và cấp cơ sở. Viện đã chủ trì nghiên cứu hơn 100 đề tài cấp Bộ về lý luận và phương pháp luận để xây dựng nền móng cho nghiên cứu lâu dài về các lĩnh vực khác nhau có tính đến yếu tố hội nhập kinh tế. Ngoài ra Viện còn tổ chức nghiên cứu nhiều đề tài cấp cơ sở, tạo điều kiện cho các cán bộ trẻ chủ trì thực hiện và qua đó từng bước nâng cao năng lực nghiên cứu. Các đề tài đã được thực hiện nghiên cứu nghiêm túc, có chất lượng tốt. Các kiến nghị rút ra từ kết quả nghiên cứu được dùng làm cơ sở cho việc nghiên cứu soạn thảo nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về quản lý kinh tế cụ thể. Kết quả nghiệm thu, đánh giá hầu hết các đề tài được đánh giá là loại khá và xuất sắc. Đi liền với công tác nghiên cứu, Viện thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt khoa học về các lĩnh vực kinh tế và quản lý kinh tế do các chuyên gia trong và ngoài nước trình bày, tổ chức hàng trăm cuộc điều tra, khảo sát thực tiễn trong và ngoài nước. Ngoài ra, cán bộ của Viện tích cực tham gia giảng dạy, báo cáo khoa học tại các trường, các cơ quan, các Viện nghiên cứu, các địa phương trong cả nước. Đồng thời với việc tổ chức nghiên cứu khoa học, Viện còn tiến hành các hoạt động nghiên cứu, tư vấn giúp một số ngành, địa phương, các đơn vị kinh tế cơ sở,… nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức sản xuất và quản lý mới trên địa bàn lãnh thổ và từng đơn vị, lập luận cứ khoa học cho việc hình thành các khu kinh tế mở. *Dự thảo văn bản vi phạm pháp luật Với mục đích bảo đảm môi trường pháp lý cho các thành phần kinh tế phát triển, với sự chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện đã lần lượt nghiên cứu xây dựng và hoàn thành các dự án luật và xây dựng các dự án sửa đổi luật để Chính phủ trình Quốc hội xem xét, thông qua, bao gồm: - Luật công ty và luật Doanh nghiệp tư nhân, đã được Quốc hội khóa VIII thông qua ngày21/12/1990 và có hiệu lực từ ngày 15/04/1991; - Dự thảo Luật Doanh nghiệp trên cơ sở hợp nhất Luật Công ty và luật Doanh nghiệp tư nhân (sửa đổi), đã được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 5 thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/01/2000; - Luật phá sản doanh nghiệp, đã được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 30/12/1993, có hiệu lực từ ngày 01/07/1994; - Luật khuyến khích đầu tư trong nước (năm 1994) và Dự thảo Luật khuyến khích đầu tư trong nước(sửa đổi) đã được Quốc hội khóa X thông qua ngày 22/06/1994, có hiệu lực từ ngày 01/01/1995; - Luật hợp tác xã được quốc hội khóa IX thông qua ngày 20/03/1996, có hiệu lực từ ngày 01/01/1997; Dự thảo luật doanh nghiệp nhà nước (sửa đổi) và dự thảo luật hợp tác xã (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp tháng 11/2003; 2. Nghiên cứu và tham mưu xây dựng chủ trương, đường lối và chỉ đạo công cuộc đổi mới. của Đảng và Nhà nước. Thực hiện nhiệm vụ này, Viện đã chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan tập trung sức nghiên cứu xây dựng bản báo cáo về tình hình kinh tế xã hội hiện tại và kiến nghị các chủ trương, biện pháp xử lý những tác động xấu do suy thoái kinh tế. Bản báo cáo đã đưa ra những biện pháp thiết thực để giải quyết những khó khăn trước mắt của nền kinh tế. Trong những năm đầu thập kỷ 80, khi tình hình sản xuất công nghiệp và nông nghiệp bị ách tắc, trì trệ, Viện đã được Chính phủ giao chủ trì nghiên cứu tổng kết tình hình để xây dựng phương án xử lý. Viện còn tích cực đóng góp vào quá trình chuẩn bị đại hội lần thứ V của Đảng. Tiếp đó đến tháng7/1984, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương khóa V quyết định họp Hội nghị TW6 bàn chuyên về nhiệm vụ cấp bách trong công tác quản lý kinh tế và giao cho Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương làm đầu mối chuẩn bị dự thảo báo cáo tình hình trung ương. Ngoài nhiệm vụ trên Viện còn nghiên cứu tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong việc chỉ đạo công cuộc đổi mới. Bộ Chính trị đã giao cho Viện nhiệm vụ chuẩn bị tiếp các đề án về cơ chế quản lý kinh tế. Theo tình thần đó Viện đã xây dựng được nhiều đề án có ứng dụng quan trọng trong thực tế. Từ năm 1990 đến nay công tác nghiên cứu tham mưu của Viện đã được định hình theo hướng gắn với các Đại hội Đảng và hội nghị trung ương giữa kỳ. Viện đã có đóng góp tích cực vào nội dung chiến lược phát triển kinh tế xã hội 1991-2000. Gần đây, Viện đã tham gia tổng kết chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 1991-2000 phục vụ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2001-2010. Theo sự phân công của Thường trực tiểu ban xây dựng chiến lựơc, Viện được giao chuẩn bị chuyên đề: “Tổng kết cơ chế quản lý kinh tế giai đoạn 1991-2000 và những nội dung chủ yếu hoàn chỉnh cơ chế quản lý kinh tê giai đoạn 2001-2010”; Viện đã hoàn chỉnh dự thảo báo cáo lãnh đạo Bộ trước khi trình ra Tiều ban chiến lược(02/2000). Thường vụ Bộ chính trị đã chỉ định đồng chí Viện trưởng tham gia Tổ biên tập Tiểu ban chiến lược kinh tế xã hội 2001-2010. Viện còn tích cực nghiên cứu tham mưu về vấn đề hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra Viện còn được giao nhiệm vụ tham gia nhiều hoạt động có liên quan đến tổng kết, đánh giá, kiến nghị chính sách chỉ đạo và xây dựng chương trình hành động để chuẩn bị cho đại hội Đảng và Hội nghị trung ương về những vấn đề cụ thể như chính sách phát triển kinh tế tư nhân, chính sách tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách đất đai…. 3.Đội ngũ cán bộ Hiện nay, Viện có đội ngũ cán bộ gồm 95 người, trong đó có 2 phó giáo sư,15 tiến sĩ, 32 thạc sĩ và 36 cán bộ có trình độ đại học. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước, trước hết là đổi mới tư duy trong tình hình mới. Hơn 10000 cán bộ chủ chốt trong bộ máy nhà nước từ cấp Trung ương đến cấp huyện, doanh nghiệp nhà nước và một số trường đại học, viện nghiên cứu khoa học đã được bồi dưỡng nâng cao kiến thức tại Trường quản lý kinh tế trung ương tại Liên Xô(cũ). Những tư tưởng cốt lõi của Lênin trong chính sách kinh tế mới(NEP) và những tư tưởng đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế đã được đội ngũ cán bộ thống nhất nhận thức đúng đắn sâu sắc. Kết quả này đã góp phần tạo ra những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế thế giới của đất nước. Hiện nay nhiều trong số những cán bộ ấy đã trở thành những cán bộ cốt cán trong các ngành kinh tế quốc dân. Với sự hỗ trợ của các chương trình phát triển Liên hợp quốc(UNDP) thông qua dự án VIE/86/045 Viện đã hình thành 4 trung tâm bồi dưỡng quản lý cho khu vực tiểu thủ công nghiệp và ngoài quốc doanh ở Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Các trung tâm này đã và đang phát huy tác dụng trong việc bồi dưỡng kiến thức quản lý cho các cán bộ cơ sở và các nhà doanh nghiệp. Một hoạt động khác không kém phần quan trọng trong công tác bồi dưỡng cán bộ là thành lập và duy trì đều đặn sinh hoạt câu lạc bộ giám đốc xí nghiệp trung ương. Câu lạc bộ giám đốc trung ương đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Viện. Từ khi thành lập đến nay, Câu lạc bộ đã tổ chức đều đặn các kỳ sinh hoạt hàng tháng(tính đến tháng 10/2008 đã tổ chức được 134 kỳ sinh hoạt). Qua các hoạt động của mình Câu lạc bộ giám đốc đã trở thành một diễn đàn quan trong cho các giám đốc có thể tiếp cận nguồn thông tin và nâng cao trình độ, trao đổi kinh nghiệm quản lý, đồng thời tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan chức năng gặp gỡ, trao đổi ý kiến với các giám đốc, phục vụ cho việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách kinh tế. Hầu hết cán bộ nghiên cứu của Viện đều được học ít nhất một khóa học bồi dưỡng về quản lý kinh tế. Mấy năm gần đây, khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường, để nâng cao khả năng nghiên cứu phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, Viện đã mạnh dạn lựa chọn, cử nhiều cán bộ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBáo cáo tổng hợp tại viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (ciem).DOC
Tài liệu liên quan